(1990. Tưởng nhớ Thiền sư Thích Thanh Từ - nguyên viện chủ thiền viện Thường Chiếu)

Con nhớ buổi lên thăm cảnh Bụt
Thầy cho con mấy quyển sách Thiền
Phút im lặng... hơn nghìn lời dạy
Ánh mắt thầy, con mãi không quên

Những ánh mắt phàm trần yêu-ghét
Nửa đời thêm gánh nặng lao đao
Loay hoay mãi giữa vòng kiềm toả
Khuôn mặt đầy mệt mỏi hằn sâu!

Ánh mắt thầy nới bao trói buộc
Rọi cho con vào cửa Tâm Kinh
Từ ấy, dù còn mang nghiệp chướng
Vẫn kính yêu vô hạn đời mình.


Bài thơ thay lời tri ân các bậc giác ngộ - từ một hành giả không theo tôn giáo nào.

Nguồn: Tuệ Thiền, Đường về minh triết, NXB Văn nghệ, 2007

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Đi tìm Chân Lí

ĐỌC TRONG MỘT SỐ TÀI LIỆU:

1) Đọc trong Chấm Dứt Thời Gian, một đối thoại giữa ngài Jiddu Krishnamurti và ngài David Bohm. Ngài Krishnamurti là một danh nhân giác ngộ được Liên Hiệp Quốc tôn vinh. Ngài David Bohm là một nhà khoa học lớn, giáo sư tiến sĩ vật lí.
Bản dịch của dịch giả Đào Hữu Nghĩa; nxb Thời Đại xuất bản năm 2010.
Những chữ trong ngoặc đơn và những chữ in hoa là do người đọc làm cho rõ nghĩa.
----
(...)
Krishnamurti: Động thái trở thành (về mặt tâm lí-tức là thời gian tâm lí) dựng lên một trung tâm ở bên trong, TRUNG TÂM VỊ NGÃ, phải không? (Trang 9).
(...)
Krishnamurti: Tôi hiểu. Nhưng tôi đang thử khám phá nguồn gốc của những nỗi đau khổ, hỗn loạn, xung đột, đấu tranh này – chỗ bắt đầu của chúng ta là gì? Khởi đầu buổi nói chuyện tôi đã hỏi: phải chăng NHÂN LOẠI ĐÃ ĐI SAI ĐƯỜNG? Phải chăng nguồn gốc là “cái Tôi” và “cái không phải Tôi”.
David Bohm: Tôi nghĩ ta đã tiếp cận được vấn đề rồi. (Trang 9).
(...)
Krishnamurti: Tôi muốn phế bỏ thời gian về mặt tâm lí (tức là mọi nhớ tưởng-suy nghĩ bị dính chặt với “cái Tôi” tâm lí). (Trang 13).
(...)
David Bohm: Nhưng tôi nghĩ ý ông cho rằng TRÍ không phát sinh từ trong não. Phải vậy không? Có lẽ não là một công cụ của trí?
Krishnamurti: Và trí không thuộc thời gian (tâm lí). Hãy thấy xem thế nghĩa là gì?
David Bohm: Trí không tiến hoá cùng với não?
Krishnamurti: Trí không thuộc thời gian (tâm lí) và não thuộc thời gian (tâm lí) – phải chăng đó là nguồn gốc của xung đột? (Trang 20).
(...)
Krishnamurti: Não đã tiến hoá.
David Bohm: Não đã tiến hoá vì vậy nó đã chứa thời gian (tâm lí) trong đó.
Krishnamurti: Vâng, nó đã tiến hoá, thời gian (tâm lí) dự phần vào đó.
David Bohm: Thời gian trở thành thành phần của chính cấu trúc não.
Krishnamurti: Vâng.
David Bohm: Trong khi TRÍ hoạt động không có thời gian (tâm lí), còn não (với những nhớ tưởng-suy nghĩ) thì không thể làm thế.
Krishnamurti: Có nghĩa rằng THƯỢNG ĐẾ (Trí) chỉ hoạt động nếu NÃO TỊCH LẶNG, nếu não không còn mắc kẹt trong thời gian (thời gian tâm lí-tức là cái Tôi tâm lí). (...).
Krishnamurti: Không phải não có khả năng thấy được những gì nó hiện đang làm sao – bị vướng mắc trong thời gian – thấy rằng trong tiến trình đó xung đột không có chỗ dứt sao? Có nghĩa là, có chăng một thành phần nào của não không thuộc thời gian? (...).
David Bohm: Không phải một thành phần, mà đúng hơn rằng não phần lớn bị khống chế bởi thời gian, tuy nhiên, không có nghĩa nhất thiết nó không thể thay đổi. (Trang 20-21).
(...)
David Bohm: Tức là phủ nhận toàn bộ thời gian (thời gian tâm lí-cái tôi tâm lí).
Krishnamurti: Thời gian (tâm lí) là kẻ thù. Hãy GIÁP MẶT nó và VƯỢT QUA nó. (Trang 23).
(...)
David Bohm: Trí não không bị vướng mắc sâu vào thời gian (thời gian tâm lí-cái tôi tâm lí) bởi nó không có kiến thức (mang tính) tâm lí để tự cơ cấu.
Krishnamurti: Vâng.
David Bohm: Vậy ta nói rằng VÙNG NÃO PHẢI TỰ CƠ CẤU bằng cách TỰ TRI về mặt tâm lí.
Krishnamurti: Liệu bấy giờ trí não có hỗn loạn đảo điên không? Chắc chắn là KHÔNG? (Trang 28).
(...)
Krishnamurti: Không còn thời gian (thời gian tâm lí-cái tôi tâm lí). Bấy giờ biến cố gì xảy ra? Không phải xảy ra cho tôi, cho não tôi. Điều gì xảy ra? Ta đã nói rằng khi (tâm) ta phủ nhận thời gian (tâm lí) thì không còn có gì cả. Sau cuộc nói chuyện dài này, (ta hiểu rằng) KHÔNG GÌ CẢ NGHĨA LÀ TẤT CẢ. Tất cả là NĂNG LƯỢNG. Và ta đã ngưng ở đó. Nhưng đó không phải là chấm dứt, là cuối cùng.
David Bohm: Không phải.
Krishnamurti: Không phải cuối cùng. Lúc đó điều gì diễn ra? SÁNG TẠO phải không?
David Bohm: Vâng, cái gì đó tương tự như vậy.
Krishnamurti: Nhưng không phải là nghệ thuật sáng tạo tương tự như viết lách và vẽ vời. (Trang 33).
(...)
David Bohm: Chắc ông thấy, ta phải làm rõ, bởi vì ông nói rằng thế giới tự nhiên là sự sáng tạo của cái TÂM VŨ TRỤ, tuy thế tự nhiên vẫn có thực tại riêng.
Krishnamurti: Mọi điều đó hiểu được.
David Bohm: Nhưng hầu như toàn thể tự nhiên đều do cái tâm vũ trụ tạo.
Krishnamurti: Tự nhiên vốn thuộc cái tâm vũ trụ. Tôi thử tìm cách chấm dứt cái tâm cá biệt; bấy giờ chỉ còn có TÂM, tâm vũ trụ đúng chứ? (Trang 38-39).
(...)
Krishnamurti: Vâng. Trong trật tự vũ trụ có vô trật tự, vô trật tự ấy có liên quan đến con người.
David Bohm: Không phải vô trật tự ở bình diện vũ trụ.
Krishnamurti: Không phải. Ở bình diện thấp hơn nhiều.
David Bohm: Vô trật tự, hỗn loạn ở bình diện con người.
Krishnamurti: Và tại sao con người đã sống trong tình trạng này từ khởi thỉ?
David Bohm: Bởi vì con người còn VÔ MINH-ignorant, chưa thấy ra sự thật.
Krishnamurti: Nhưng con người vốn thuộc vào cái toàn thể, cái nguyên vẹn, nhưng trong một góc hẹp, con người tồn tại và sống trong hỗn loạn, vô trật tự. Còn cái TRÍ THÔNG MINH TỈNH THỨC MÊNH MÔNG này thì không. (Trang 41).
(...)
Krishnamurti: Bởi vì “X” (người giác ngộ) không “bằng lòng” với việc thuyết giảng và thảo luận suông. Cái mênh mông vô tận đó, chính là “X”, phải thực sự có hiệu quả, phải làm cái gì đó. (...).
David Bohm: Nhất thiết phải làm thế. Nhưng cái mênh mông vô tận ấy sẽ tác động hay thay đổi nhân loại cách nào? Khi ông nói thế, gợi ý người ta hiểu rằng có một hiệu quả siêu-cảm-giác lan toả khắp.
Krishnamurti: Đó là chỗ tôi đang nắm bắt đây. (...).
David Bohm: Vâng. Bởi vì thức tâm cũng khởi lên từ nền tảng, nên hoạt động này ẢNH HƯỞNG TOÀN NHÂN LOẠI cũng từ NỀN TẢNG.
Krishnamurti: Vâng. (Trang 228-229).
(...)
Krishnamurti: Từ cái cá biệt riêng tư, cần thiết phải đi đến cái chung, cái phổ biến, rồi từ cái phổ biến vẫn tiếp tục vào sâu hơn nữa và có lẽ, có cái tánh thuần khiết được gọi là TỪ BI, TÌNH YÊU và TRÍ TUỆ. Nhưng điều đó có nghĩa rằng bạn phải đặt hết trí, tâm và toàn bộ tự thể của bạn vào công cuộc TRA XÉT, KHÁM PHÁ này. (...). (Trang 369-370).
-------  

2) Đọc trong Lửa Giác Ngộ của ngài Jiddu Krishnamurti; dịch giả Đào Hữu Nghĩa; nxb Thời Đại, 2010.
Những chữ trong ngoặc đơn và chữ in hoa là do người đọc làm cho rõ nghĩa.
----
(...)
Krishnamurti: (...) Tâm không sao bước vào một chiều không gian hoàn toàn mới khác nếu còn có bóng đen của kỉ niệm (mang tính tâm lí). Bởi “CÁI KIA” VỐN PHI THỜI GIAN. Cái chiều không gian kia vốn vĩnh hằng, và tâm trí muốn thâm nhập vào đó phải không có yếu tố thời gian (tâm lí). Tôi nghĩ điều này hợp lẽ và hợp logic.
Pupul Jayakar: Nhưng cuộc sống không mang tính logic cũng không hợp lẽ.
Krishnamurti: Tất nhiên là không. Muốn thấu hiểu cái VĨNH HẰNG – mà không qua thời gian – tâm trí phải thoát khỏi mọi sự được tích tập góp nhặt về mặt tâm lí, tức thời gian. Muốn thế, tất phải chấm dứt thôi.
Pupul Jayakar: Vậy là không có việc thâm nhập khám phá sự chấm dứt?
Krishnamurti: Ồ, có chứ.
Pupul Jayakar: Khám phá sự chấm dứt như thế nào?
Krishnamurti: Chấm dứt cái gì – chấm dứt sự tiếp nối liên tục của một tư tưởng, một xu hướng, một dục vọng đặc biệt nào đó, chính các chất liệu này tiếp sức sống cho sự liên tục. Sinh và tử - trong khoảng cách mênh mông này là SỰ LIÊN TỤC TIẾP NỐI SÂU XA như dòng sông. Lưu lượng nước làm cho dòng sông trở nên tuyệt vời – như sông Hằng, sông Rhine, sông Amazone và ta không thấy được vẻ đẹp của dòng sông. Như bạn thấy đó, ta chỉ sống trên bề mặt nông cạn của dòng đời mênh mông. Ta không thấy cái đẹp của nó vì ta mãi mãi sống trên bề mặt. Và chấm dứt là CHẤM DỨT CÁI BỀ MẶT NÔNG CẠN NÀY. (Trang 122-123).
(...)
Krishnamurti: Bà đã nói hai điều: THỨC, consciousness của Krishnamurti và sự chấm dứt của thân xác. Thân xác sẽ chấm dứt bởi tai nạn, bệnh tật. Điều đó là hiển nhiên. Thế còn thức của người đó là gì?
Pupul Jayakar: Mênh mông vô tận, tràn ngập thương yêu.
Krishnamurti: Nhưng tôi không gọi đó là thức.
Pupul Jayakar: Tôi dùng từ “thức” để kết hợp với thân xác của Krishnamurti. Tôi không nghĩ ra từ nào khác. Có thể gọi là “TÂM của Krishnamurti”. (Trang 123).
(...)
Krishnamurti: Và tôi thấy điều này. Tôi CẢM NHẬN được nó. Với tôi, đây là một TÂM THÁI DIỆU KÌ hơn cả. Qua bạn, qua sự tiếp xúc của tôi với bạn, tôi CẢM NHẬN CÁI MÊNH MÔNG ấy. Và toàn bộ sức mạnh trong tôi thôi thúc tôi nói tôi phải nắm lấy nó. Và bạn có nó – tất nhiên, không phải bạn, Pupul, có nó. Nó có đó, ở đó. Nó không phải của bạn hay của tôi. Nó ở đó, có đó.
Pupul Jayakar: Nhưng nó có đó bởi vì có ông.
Krishnamurti: Nó có đó không phải bởi có tôi. Nó ở đó. (Trang 125).
(...)
Pupul Jayakar: Phải chăng ý ông muốn nói: HÃY TỰ MÌNH LÀ ÁNH SÁNG CHO MÌNH, tức là, tiếp xúc cái đó mà không có người...
Krishnamurti: Không phải “tiếp xúc” mà là GIÁC VÀ SỐNG; nó có đó để bạn vươn tới nắm lấy. Để vươn tới và tiếp nhận cái đó, TƯ TƯỞNG HAY THỨC, (trong trạng thái vô minh) như ta biết, PHẢI CHẤM DỨT, bởi vì tư tưởng (trong trạng thái vô minh) thực sự là kẻ thù của cái đó. Tư tưởng là kẻ thù của lòng từ, quá rõ rồi, đúng không? Và để đốt lên ngọn lửa TỪ BI VĨ ĐẠI ấy không đòi hỏi phải hi sinh lớn lao cái này cái nọ chi cả, mà là một TRÍ TUỆ TỈNH THỨC để thấy động niệm. Và GIÁC ĐỘNG NIỆM LÀ CHẤM DỨT ĐỘNG NIỆM, đó mới thực là THIỀN. (Trang 127-128).
(...)
Pupul Jayakar: Ông có nghĩ là có thể học được điều gì đó trong trí não để giáp mặt với cái chết sau cùng không?
Krishnamurti: Có gì trong đó mà học, Pupul? Không có gì để học cả.
Pupul Jayakar: Trí não phải tiếp nhận mà không động đậy (bởi cái tôi).
Krishnamurti: Vâng.
Pupul Jayakar: Trí não phải tiếp nhận một phát biểu như thế mà BẤT ĐỘNG (vô niệm-vô ngã). Và có lẽ như thế mà khi cái chết sau cùng đến thì cũng sẽ có một sự bất động như thế.
Krishnamurti: Vâng, đúng thế đấy. Thế nên, CÁI CHẾT MỚI ĐẸP VÀ ĐẦY SỨC SỐNG một cách phi thường. (Trang 130).
(...)
Krishnamurti: Hiện tại là cái “bây giờ”, cái hiện tiền. Cái hiện tiền chứa toàn bộ vận động của thời gian tư tưởng.
Pupul Jayakar: Vâng.
Krishnamurti: Đó là toàn bộ cấu trúc. Nếu cấu trúc của thời gian (tâm lí quy ngã) và tư tưởng (trong trạng thái vô minh-phiền não-xung đột) chấm dứt, CÁI HIỆN TIỀN mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Cái “bây giờ” bấy giờ là KHÔNG. Và cái KHÔNG (trường tiềm năng, tánh Không) thì dung chứa mọi cái có. (...). (Trang 256).
(...)
Krishnamurti: (...) Tôi tin rằng trong truyền thuyết cổ đại của Do Thái giáo người ta chỉ có thể nói về THƯỢNG ĐẾ - hay tên gọi gì cũng được – như thế này: “I am”-Tôi là-Tat tvam asi bằng Phạn ngữ. (Trang 264).
(...)
-----
Tham khảo thêm:

* “Schrodinger, tác giả của phương trình cơ bản trong Thuyết lượng tử đã phát biểu: “Muôn đời và mãi mãi chỉ có bây giờ... HIỆN TẠI là cái duy nhất không có kết thúc”. (Theo giáo sư-viện sĩ Đào Vọng Đức, nguyên viện trưởng Viện Vật lí, nguyên giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người về Khoa học và Tâm linh. Bài phỏng vấn “Khoa học lí giải Tâm linh như thế nào?”; Khoahoc tv).

* “Triết gia Descartes nói một câu thâm sâu: “Tôi suy tưởng, vì vậy tôi hiện hữu.” Câu này rất đúng với trí thức, nhưng đối với thiền nó lại hoàn toàn sai. Trong thiền, ta càng suy nghĩ bao nhiêu, ta càng xa chân thân bấy nhiêu. Nếu ta lệ thuộc vào “cái tôi suy tưởng” ta sẽ không thể kinh nghiệm được sự thức tỉnh. Khi ta nói “tôi hiện hữu”, ta bắt buộc phải đẩy Chúa ra ngoài thành một đối tượng. Nhưng bản thể của Chúa là “Ta Là” (I Am) trong trạng thái “ĐANG LÀ” ở mọi nơi và trong HIỆN TẠI”. (Thiền Kitô Giáo; nhà nghiên cứu Đỗ Trân Duy; Daminhvn net).

* “Tột trước cùng sau cứu cánh trở về NIỆM HIỆN TIỀN”. (Kinh Lăng Già Tâm Ấn - phần Tổng luận; Thiền sư Thích Thanh Từ dịch).
------------
(Còn tiếp)

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Đi tìm Chân Lí (tiếp theo)

3) Đọc một số tài liệu khác.
(Những chữ trong ngoặc đơn và chữ in hoa là do người đọc làm cho rõ nghĩa).
---
* “Xin đừng hỏi: “Làm cách nào để thấy?” (thấy trạng thái suy nghĩ). Ngay lúc ngài hỏi làm thế nào, có người sẽ sẵn sàng giúp ngài, rồi ngài trở thành nô lệ của người đó. Nhưng nếu ngài TỰ THẤY rằng suy nghĩ và thời gian (tâm lí) (tức VỌNG NIỆM) thực sự là gốc rễ của sợ hãi, không cần phải đắn đo hay quyết đoán ngài cũng vẫn hành động. Ví như gặp con bọ cạp nguy hiểm, con rắn độc – khi nhìn thấy chúng ngài sẽ hành động tức thì. (…) Vậy thì mỗi người chúng ta có thể cảm thấy được TRÁCH NHIỆM mà chúng ta đã tạo ra cái xã hội chúng ta đang sống không? Cái xã hội quái gở, vô đạo đức ngoài tưởng tượng! (…) Vậy có cần nên HẾT SỨC TỈNH THỨC, NHẬN BIẾT ĐƯỢC MỖI SUY NGHĨ? Chúng ta có thể là vậy không? (…) Tư tưởng, suy nghĩ có thể nào mang lại trật tự không, trong khi CHÍNH CÁI TƯ TƯỞNG BỊ GIỚI HẠN NÀY LÀ NGUỒN GỐC CỦA HỖN LOẠN? (…) Có thể nào TRÍ NÃO CHỈ DÙNG ĐẾN SUY NGHĨ khi cần thôi? Những lúc cần sống với suy nghĩ là khi lái xe, khi ăn, khi viết thư, khi làm điều này điều nọ trong thực tế. Mọi thứ này là hoạt động của cái suy nghĩ giới hạn – nghĩa là khi cần thì suy nghĩ có thể hoạt động. Nhưng ngoài những chuyện đó ra, sao nó lại ba hoa suốt cả ngày vậy?” (Thiền sư Jiddu Krishnamurti) – (Lời Cuối Bình Yên; J. Krishnamurti; biên dịch: Mộc Nhiên).

* “Cụ thể là, nhờ tham thiền, sinh trường của tu sĩ ở trạng thái áp đảo quá trình tái sinh bệnh hoạn (ung thư), ổn định chức năng của các tế bào bệnh và kích thích các tế bào bình thường của cơ thể tái sinh. Nói một cách khác, bí quyết trường thọ ở các môn đồ không phải vì chu kì sống của các tế bào gia tăng, mà là sự thay thế các tế bào già nua bằng các tế bào mới và phòng ngừa suy biến thành ung thư. (…) Trên bước đường khoa học của mình, tôi luôn luôn đi theo cách thứ hai, nghĩa là từ cái chung đến cái riêng. Vì đã nhằm mục đích là giải quyết những vấn đề y học cụ thể, trước tiên là bệnh ung thư, muốn hay không chúng tôi cũng phải nghiên cứu NĂNG LƯỢNG TÂM THẦN và những vấn đề liên can là NGUỒN GỐC loài người và vũ trụ”.
(Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu. E-rơ-nơ Mun-đa-sep; giáo sư tiến sĩ y học (Nga), nhà bác học lớn quốc tế. Dịch giả: Hoàng Giang. NXB Thế Giới, 2009).

* “Các nhà khoa học cũng đang quay lại và hướng sự tập trung vào việc tìm hiểu cách thức suy nghĩ và trạng thái của chúng ta THỰC SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN lực từ trường bên trong VÀ XUNG QUANH chúng ta. (…) Thông qua cuốn sách này, chúng tôi phát hiện ra được năng lực của Ý THỨC SÂU KÍN và cách khai thác nguồn năng lượng khổng lồ, tình yêu thương và sự thông thái. Ý thức sâu kín được mọi người biết đến là phần trí tuệ sâu nhất. Nó được gọi với nhiều tên: quan sát viên giấu mặt, nhà tư tưởng phía sau những suy nghĩ, TRÍ TUỆ ĐIỀU HÀNH, người chỉ huy, chứng nhân, KHOẢNG KHÔNG GIAN GIỮA NHỮNG SUY NGHĨ (…)”. (Tiến sĩ sinh học Karen Nesbitt Shanor) – (Trí Tuệ Nổi Trội; K.N.Shanor; dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt).

* “TRƯỜNG Ý THỨC LÀ CƠ SỞ của mọi hiện tượng trong Tự nhiên, bởi vì KHE HỞ TỒN TẠI GIỮA mọi electron, MỌI Ý NGHĨ, mọi khoảnh khắc thời gian. KHE HỞ LÀ điểm khống chế, SỰ TĨNH LẶNG Ở TÂM của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện. (…) Chúng ta cần nhớ NGUỒN GỐC CHUNG của mình. Tinh thần con người suy thoái khi chúng ta hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong một thể xác. Trước hết chúng ta là tâm trí và tinh thần (…)”. (Tiến sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết; D. Chopra; dịch giả: Trần Quang Hưng).

*” Nếu ngài thấy rằng Ý THỨC CỦA MÌNH ĐƯỢC CHIA SẺ bởi tất cả con người khác sống trên trái đất này, lúc đó toàn bộ cách sống của ngài sẽ đổi khác. (…) MUỐN CHUYỂN HOÁ THẾ GIỚI, chuyển hoá sự khốn khổ, chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn đói, sự phân chia giai cấp và tất cả sự hỗn loạn khắp nơi thì chúng ta phải CHUYỂN HOÁ CHÍNH BẢN THÂN MÌNH”. (Danh nhân giác ngộ Jiddu Krishnamurti, người không theo tôn giáo nào cả, được Liên Hiệp Quốc tôn vinh) – (Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng; J.Krishnamurti; dịch giả: Phạm Công Thiện).

* “Mười phương thế giới thu vào MỘT ĐIỂM HIỆN TIỀN; quá khứ, hiện tại, vị lai tụ trong MỘT NIỆM ĐƯƠNG THỜI. Dù ở giữa hàng chư thiên cũng khó có niềm vui nào so được với đây; ở loài người lại càng hiếm lắm. Sự tiến bộ như thế trong đời sống tâm linh CÓ THỂ THÂU ĐẠT ĐƯỢC CHỈ TRONG VÀI BỮA, nếu hành giả dốc lòng tu tập”. (Thiền sư Bạch Ẩn) - (Thiền Luận - quyển trung; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).

* Sống thì vượt ngoài thời gian (thời gian tâm lí, tức là cái “tôi” tâm lí-vọng tưởng), SỐNG LÀ HIỆN TIỀN SINH ĐỘNG, nhưng hiện tiền này không lệ thuộc vào thời gian (tâm lí). SỐNG LÀ CHÚ TÂM (tỉnh thức), không nằm trong biên cương của tư tưởng, trong giới hạn của cảm thức. Từ ngữ dùng để thông tin và, cũng như hình tượng, ngay chính chúng không có một ý nghĩa (thực tại) nào. Cuộc đời luôn luôn là hiện tiền sinh động, thời gian (tâm lí) luôn luôn thuộc vào quá khứ, và vì thế vào tương lai. Để cho thời gian (tâm lí) chết đi tức là sống trong HIỆN TIỀN. Chính lối sống này là BẤT TỬ, chứ không phải cách sống trong ý thức. Thời gian (tâm lí) là tư tưởng trong tâm thức, tâm thức thì bị đóng khung. Mạng lưới của tư tưởng, của cảm thức, luôn luôn hằn dấu sợ hãi, đau khổ. Đau khổ sẽ chấm dứt khi thời gian (tâm lí) chấm dứt. (Thiền sư Jiddu Krishnamurti. Trích trong Bút Hoa-nhật kí; dịch giả: Ẩn Hạc).

*” (…) Ở đây chúng ta có thêm một chứng minh là TẤT CẢ CHÚNG TA ĐƯỢC KẾT NỐI VỚI NHAU TRONG CÙNG MỘT TRƯỜNG Ý THỨC. Các đặc tính của trường này vận hành LÚC NÀY VÀ Ở ĐÂY:
Trường hoạt động như một TỔNG THỂ.
Nó liên kết các sự kiện cách xa ngay tức thời.
Nó NHỚ mọi sự kiện.
Nó tồn tại ngoài thời gian và không gian.
Nó sáng tạo toàn vẹn bên trong mình.
Sáng tạo của nó lớn lên và mở rộng theo hướng tiến hoá.
Nó là Ý THỨC”.
(Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết; D. Chopra; dịch giả: Trần Quang Hưng).

* “Tôi tuyệt đối tin rằng sự sống vật thể trên trái đất đã được tạo ra bằng cách hồn cô đặc dần. Mọi học lí cho rằng, sự sống trên trái đất xuất hiện do những phân tử phức tạp tự phát sinh và cô đọng thành những cơ thể sống, không vững vàng, xét cả trên quan niệm tôn giáo lẫn quan điểm vật lí học và hoá học hiện đại. (…).
Người cổ xưa cho rằng, vật chất sinh ra từ khoảng không. Nhà vật lí thiên tài Nga Ghên-na-đi Si-pốp, người đã lập được phương trình (A. Anh-xtanh đã không lập được) mô tả vật lí chân không, tức Tịnh vô tuyệt đối hoặc Tuyệt đối, cũng cho như vậy. (…).
Tuyệt Đối đó không đơn thuần là tịnh vô; đó là KHOẢNG KHÔNG có Cái gì đó. Trước mắt, khoa học chưa biết Cái gì đó. (…).
Theo giả thuyết của G. Sipốp: giữa các trường xoắn của thế giới tế vi và ý thức có mối liên hệ trực tiếp, bởi các trường xoắn là những chất chứa đu-sa (sinh trường) và đu-khơ.
(…) Dần dà trong quá trình tiến hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ – là KHỐI NĂNG LƯỢNG TÂM THẦN KẾT ĐÔNG dưới dạng các trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi kia (…).
(…) Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma (NGHIỆP), tức là các “vết tích” của các tiền kiếp để lại trong đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế giới vật thể, đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng có thể thoái hoá. (…)”. (Nhà bác học-giáo sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E. Mun-đa-sep; dịch giả: Hoàng Giang).

* “(Thầy Đa-ram nói) Năng lượng linh hồn là năng lượng ở ngoài electron và ngoài proton. Nhưng TÂM NĂNG MẠNH MẼ VÔ CÙNG, nó có khả năng tác động lên lực hấp dẫn. Năng lượng của nhiều tâm có một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực và tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền với nhau.(…) Tâm năng tiêu cực (xấu ác) có thể thu hút các đối tượng phá phách của vũ trụ, tác động lên thiên nhiên. Bởi vậy, cùng với xung đột và chiến tranh, khá thường xuyên xảy ra động đất, rơi thiên thạch...”.(Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E. Mun-đa-sep; dịch giả: Hoàng Giang).

* Nguyễn Chung Tú (nguyên hiệu phó trường đại học Hùng Vương, giáo sư tiến sĩ vật lí) nói: “Có thể nói rằng GIEN NGHIỆP là cái do mỗi người tự tạo cho mình. Khi một người chết đi, thân thể vật lí của người ấy tan hoại, nhưng cái nghiệp ấy vẫn tiếp tục di truyền qua nhiều đời sống của người ấy”. Ông nhắc lại lời một học giả khác rằng: “TÂM TÍNH LÀ ĐỊNH MỆNH” - một câu nói rất quan trọng. (Nguyệt san Giác Ngộ số 17 năm 1997).

* “Dĩ nhiên chúng ta phải sử dụng các ngôn từ khi một điều gì đó được truyền đạt từ người này sang người khác, nhưng các ngôn từ chỉ là sự nêu trỏ suông chứ không phải là chính sự thực. Như kinh bảo, chúng ta phải dùng đến ngọn đèn ngôn từ để ĐI VÀO TRONG CÁI CHÂN LÍ NỘI TẠI của kinh nghiệm VƯỢT KHỎI NGÔN TỪ VÀ TƯ TƯỞNG. Nhưng quả thực là hoàn toàn khờ dại khi tưởng ra rằng ngọn đèn ấy là mọi sự”. (Thiền sư D.T.Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).

* “Thiền, cốt yếu nhất là nghệ thuật KIẾN CHIẾU VÀO THỂ TÁNH của chúng ta; nó chỉ con đường từ triền phược đến giải thoát. (…) Bấy giờ, ta nhận ra ý nghĩa cuộc sống, ta biết rằng đó không phải là một nỗ lực mù quáng, mà cũng không phải là trường thao diễn những bạo lực vô tri; nhưng dầu không thấu hiểu được những ý nghĩa tối hậu của kiếp người, VẪN CÓ CÁI GÌ ĐÓ khiến ta vui không cùng để mà sống, và qua mọi cuộc thăng trầm ta vẫn thảnh thơi mà an thân lập mệnh, không thắc mắc, không hoài nghi, không bi quan yếm thế”. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển thượng, luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc Thiên).

* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là MẪU SỐ CHUNG của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền, mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là MINH SƯ vĩ đại nhất của chính mình. (Đường Về Minh Triết; Tuệ Thiền Lê Bá Bôn; nxb Văn nghệ, 2007).

*“Một ngày nào đó của thiên niên kỉ thứ 3, con người sẽ hỏi đâu là sự khám phá quan trọng nhất của thế kỉ 20 đối với nền văn minh Tây phương, khi ấy câu trả lời không phải là sự khám phá ra năng lượng nguyên tử, cũng không phải là sự khám phá ra những vũ trụ song đối, mà chính là sự khám phá về trạng thái tự do tối thượng của BẢN THỂ con người.” (Question de Albin Michel số 77/1989; Nguyễn Thế Đăng dịch).

* Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu. Sự gặp gỡ chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân loại một NỀN VĂN MINH MỚI”. (Báo Giác Ngộ số 15/1991).
-----------------------
(Mời đọc tiếp ở phần dưới)

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Nhớ ánh mắt Thầy

ÁNH MẮT THẦY
(Tưởng nhớ Thiền sư Thích Thanh Từ)

Tuệ Thiền Lê Bá Bôn

1.

Danh nhân khoa học Albert Einstein nói rằng: Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôi suy nghĩ thêm: Cuộc sống mà thiếu tinh thần tôn giáo hướng thiện-hướng thượng thì khập khiễng. Như vậy với tôi, giá trị trong tôn giáo vô cùng quan trọng. Và khi đã biết quý trọng giá trị giác ngộ của tôn giáo, tất nhiên phải biết quý trọng ân đức của các thiện tri thức.

Trên con đường sự nghiệp giác ngộ, ai cũng có nhân duyên gặp nhiều thiện tri thức. Có những thiện tri thức là đồng loại của mình. Có những thiện tri thức là năng lực siêu hình. Cũng có thể là những trang kinh, trang sách, câu thơ, bài báo. Cũng có thể là ánh mắt, là thái độ của một nhân cách siêu việt… Và trong một thời điểm nào đó, cảm xúc của hành giả giác ngộ đột nhiên trỗi mạnh khi chợt nhớ đến một thiện tri thức nào đó trong chặng đời đã qua.

Với tôi, lúc này đây tôi đang nhớ đến một vị thiền sư; vì tôi đang là kẻ sơ cơ chiêm nghiệm Chân Tâm bất sinh bất diệt, cái thực tại mà thiền sư Lâm Tế gọi là “vô vị chân nhân”.

2.

Khi viết tưởng niệm về thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki, giáo sĩ Thomas Merton (Kitô giáo) đã viết: “Đối với tôi, dường như ông là hiện thân của tất cả những phẩm chất kì cùng của một con người siêu việt trong truyền thống Á Đông cổ đại, Lão giáo, Khổng giáo và Phật giáo. Hay hơn thế, gặp ông người ta có cảm giác gặp “vô vị chân nhân” mà Trang Tử và các thiền sư từng nói. Và dĩ nhiên đây là người mà ta thật sự muốn gặp mặt. Còn ai khác nữa? Trong lúc gặp gỡ Suzuki và uống với ông một chén trà, tôi có cảm tưởng mình đang đối mặt với người đó. Nó giống như cuối cùng người ta đang trở về nhà mình…”.

Nói không ngoa, tôi cũng có cái cảm tưởng như vị giáo sĩ khi tôi được ngồi uống trà với thiền sư Thích Thanh Từ vào buổi sáng mồng 3 Tết Canh Ngọ (1990) ở thiền viện Thường Chiếu. Năm ấy, có lẽ thầy đã tuổi bảy mươi.

3.

Tôi vào chỗ tiếp khách của thầy.

Sau khi mời tôi ngồi, thầy im lặng nhìn tôi một lúc rồi hỏi:

- Chú làm nghề gì?

- Dạ, giáo viên.

- Nghe lương giáo viên ít lắm, chú có đủ sống không?

- Dạ, con… tri túc ạ.

Nghe tôi nói vậy, thầy cười thật từ bi và thân thiện. Các vị khách khác cũng cười vui với cái “tri túc” của tôi. Thế là bắt đầu có sự thân mật của buổi đàm đạo thưa hỏi… Trừ những lúc cần trả lời, còn thì thầy thường im lặng nghe mọi người nói. Cái nhìn của thầy như bắt nguồn từ cõi tâm mầu nhiệm siêu việt, lan toả hơi ấm ban vui cứu khổ.

Sau khi uống xong bình trà, thầy hỏi tôi về những sách thiền mà tôi đã đọc. Thầy nói sẽ tìm cho tôi vài tác phẩm của thầy.

Thầy chống gậy đi vào phòng riêng. Tôi lặng nhìn nhân dáng đã già của thầy. Ánh mắt và nhân dáng ấy có sức mạnh từ hoà thấm sâu vào lòng tôi cho đến bây giờ.

Tôi được thầy cho ba quyển sách thiền: Thiền Đốn Ngộ, Nguồn Thiền, Chơn Tâm Trực Thuyết. Hai quyển đầu do thầy dịch, quyển sau do thầy Thích Đắc Pháp dịch. Sách đã cũ; tự in và sử dụng trong các thiền viện do thầy hướng dẫn tu hành…

Tôi ra về, lòng vô vàn lưu luyến chốn thân thương.

4.

Nhiều năm sau đó, sau khi thầy đã lên thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt, có một lúc nhớ thầy tôi đã viết một bài thơ. Bài thơ này sau tôi đưa vào tập Đường Về Minh Triết, được nhà xuất bản Văn Nghệ xuất bản năm 2007.

ÁNH MẮT THẦY

Con nhớ buổi lên thăm cảnh Bụt
Thầy cho con mấy quyển sách Thiền
Phút im lặng... hơn nghìn lời dạy
Ánh mắt thầy, con mãi không quên

Những ánh mắt phàm trần yêu-ghét
Nửa đời thêm gánh nặng lao đao
Loay hoay mãi giữa vòng kiềm toả
Khuôn mặt đầy mệt mỏi hằn sâu!

Ánh mắt thầy nới bao trói buộc
Rọi cho con vào cửa Tâm Kinh
Từ ấy, dù còn mang nghiệp chướng
Vẫn kính yêu vô hạn đời mình.

5.

Nhân duyên của tôi được gần gũi thầy rất ít…

Sau lần được gặp thầy dịp Tết Canh Ngọ (1990), tôi thường suy nghĩ về giá trị của thân giáo – một hình thức giáo dục thầm lặng của một nhân cách chân chính, thật sự biết yêu thương con người. Nhớ ánh mắt và nhân dáng của thầy hôm ấy, tôi thường nhắc nhở mình sống tử tế hơn với mọi người, đàng hoàng hơn với công việc. Cũng từ ấy, mái ấm tinh thần trong tôi vững chãi hơn – chỗ an trú cho sự nghiệp hướng thiện-hướng thượng tâm linh…

Nay lời ít lòng nhiều, tôi xin thành kính bày tỏ đôi lời tri ân với vị thầy thân thương.

2014
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
---

- Tuyển tập Nói Lời Tri Ân; Thầy Thích Giác Nhường chủ biên; nxb Hội Nhà Văn, 2015.
----------------------------------------------

Chưa có đánh giá nào
Trả lời