Nhất hiểu Quy Nhân phủ: quan, quân, dân thứ đẳng tri:

Tướng vâng quyền chế ngoại, dẹp lửa binh mà trợ lấy dân lành;
Người sẵn tính giáng trung, cởi lưới ngược lại noi về đường thuận.

Mấy lời cặn kẽ;
Đòi chốn sum vầy.

Quý phủ ta:
Cội gốc nền vương;
Dậu phên nhà nước.

Miền thang mộc vốn đúc non gây bể, mở mang bờ cõi bởi từ đây;
Hội phong vân từng dìu phượng vin rồng, ghi tạc để quyến đành dõi để.

Dấu cờ nghĩa đã sáng công dực vận;
Buổi xe nhung thêm đóng sức cần vương.

Mấy phen gió bụi nhọc con đòng, giúp oai võ cũng đều nhờ đất cũ;
Ba huyện đá vàng bền tấc dạ, căm cừu thù chi dễ đội trời chung.

Tiệc ca phong trầm nhạn vừa yên;
Với tĩnh hải tăm kình lai động.

Đoàn ngoại vũ lung lăng quen thói, nương thế đèo, đường Bến đá chia ngăn;
Kẻ khổn tư dáo dở nên lòng, phụ ơn nước, chốn thành vàng phút bỏ.

Nơi trọng địa xảy nên gai góc;
Lũ lương giarơi phải lầm than.

Kẻ thì sa vào thế hiếp tòng, trót lỡ bước dễ biết đâu tránh thoát?
Kẻ thì quá nghe lời khu dụ, dẫu ngậm hờn nào có kịp nàn than!

Giận vì địch thế hãy buông tuồng;
Xót đến ân tình càng áy náy.

Trong một cõi, nỗi hoành ly là thế, đầu tên trước đạn, nghĩ cỏ cây âu đã đổi màu xưa;
Trên chín lần, niềm trắc ẩn dường bao, sớm áo trưa cơm, mông đệm chiếu lại cùng êm nếp cũ.

Trước diễn khấu ngửa vang tiếng ngọc;
Việc đổng nhung xa chỉ ngọn đào.


Bản tước nay:
Chịu mạng đền phong;
Buông oai dinh liễu.

Thế phân đạo gấu hò hùm thét, suối rừng pha đồn luỹ đã tan tành;
Cảnh sơ xuân hoa rước oanh chào, đất nước thấy quan quân càng hớn hở.

Suý mạc vốn quyết bài tất thắng;
Tông thành âu hẹn buổi phục thù.

Ngẫm chúng tình đã quải cách bấy lâu, sự biến ấy hoặc có người nghi cụ;
Vậy trưởng lệnh phải đinh ninh đòi nhẽ, thân cố ta cho biết nẻo tòng vi.

Nghiệm có trời đành thu góp về nhân;
Vâng ngôi thánh lấy chở che làm lượng.

Bao nhiêu kẻ trót theo đảng dữ, như đã thích mê hồi thiện thì đều noi chức nghiệp cũ cho yên;
Hoặc mấy người riêng bẩm chí cao, mà hay nỗ lực lập công, ắt lại chịu ân thưởng nay càng hậu.

Dầu trước có hà tì nào xá trách;
Ai sớm hay hối ngộ thảy đều dung.

Hội thanh minh dành trên dưới cùng vui;
Người Bái quận [?] móc mưa hiệp sái.

Phương tị tựu ví kíp chầy chưa tỏ;
Thuở Côn cương ngọc đá khôn chia.

Nghĩa cả mựa lầm;
Lòng ngay xá giữ.

Nay hiểu.


Mùa xuân năm Canh Thân (1800) thay lời Trần Quang Diệu viết bài hiểu dụ quân dân thành Quy Nhơn bằng quốc âm (Quy Nhơn là quê hương nhà Tây Sơn nên gọi Tông Thành). Theo nguyên dẫn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, ngày 21 tháng chạp năm Kỷ Mùi (1799) tiến quân xuống phía nam, ngày 29 đến Bến Đá, chia quân làm 3 đạo, vượt qua núi non hiểm trở thẳng tiến. Ngày 2 tết Canh Thân, Diệu đến thành Quy Nhơn bao vây bốn mặt. Nhận tờ chiếu của Diệu dâng lên, vua Cảnh Thịnh sai (Phan Huy Ích) làm bài hiểu dụ bằng Nôm niêm yết nơi quân thứ, để vỗ về yên ủi quân lính và dân chúng.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]