(Tập thơ của một người bạn quên tuổi)

Hình như đã lâu lắm, hoặc như chưa bao giờ tôi bắt gặp trên đời này một người mà chỉ qua một buổi sơ ngộ tôi đã thấy quý và yêu... như anh ta.

Vì một lẽ cũng đơn giản thôi, trong cái xóm văn ồn ào tấp nập, chín người mười làng như Hội (và không hội) nhà văn của chúng mình đây, loại người như anh ta kể cũng hiếm ở một ngành nghề có vẻ khá phong phú, hơi hơi đa dạng mà cũng hơi hơi tạp phí lù này. Anh ta điên chăng?

có anh hề đã nói với tôi
đời thằng hề buồn lắm anh ơi
và tôi đã khóc
(Tin thì tin không tin thì thôi)
- Tôi cho là thế. Vì đông tây kim cổ, những bậc thi hào thi bá trước cuộc đời đều khiến người ta cứ phải nghĩ rằng các vị ấy đều giông giống như điên.

- Anh ta say nữa chứ?

- Có thể là như vậy.

- Nghe nói anh ta buồn lắm chăng?

- Buồn nhiều đấy.

- Thế không có tí vui nào à?

- Vui cũng nhiều chứ. Vui đấy buồn ngay đấy.

- Anh ta phải lo nghĩ ưu tư lắm ư?

- Không lo nghĩ ưu tư thì giết ai ra thơ.

- Thế thì không đam mê hay sao?

- Không đam mê sao lại thành thi sĩ.

- Vậy có đúng anh ta là Người Ham Chơi như có một ông đồ hơi hơi gàn là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phân loại các đấng người không?

- Đúng một tẹo thôi, chứ phải nói cho đúng thật anh ta là người chơi (vì ham thì ai mà chả ham, nhưng ham có “được” chơi không? Đằng này, người chơi là người được Thượng đế ban cho cái khả năng và cái phép chơi như anh ta ấy. Chơi là bẩm sinh của những thi sĩ đồng thời sống phải có bản lĩnh mới chơi được. Thiếu bản lĩnh mà học đòi chơi thì có khi té nhào, gãy cổ đấy).

- Ôi giào! Thời buổi “hiện đại” này, ông cứ nói toạc ra, nói ngắn và nói thẳng ra đi: anh ta, cái anh Nguyễn Trọng Tạo ấy là loại người gì ở cõi nhân gian đã quá đông đúc, mà xô bồ lắm khi hỗn loạn, cái chỗ ở đã chẳng rộng rãi gì mà còn nay khủng bố mai đảo chính chém giết, luôn luôn đem võ khí với nhiều thứ lý thuyết rởm ra để dậm doạ nhau, che giấu tội ác, tranh giành và cố bám lấy cái quyền lực bẩn thỉu và ích kỷ của từng phe nhóm.

chuột quá nhiều chuột chẳng chịu giảm biên
(Tái diễn)
Vâng, tôi chỉ biết gọi Nguyễn Trọng Tạo đúng là một thi sĩ, thi sĩ từ khi Thượng đế gieo mầm thơ cho một loại động vật siêu đẳng mà ta gọi là con Người (Người viết hoa, Người ở đẳng cấp cao nhất, vì Người cũng chia ra năm bảy đấng cơ đấy). Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo, lắm lúc tôi như nhìn thấy rõ cái uyển chuyển mầu nhiệm trong tâm tư và trong thơ anh. Có khi nó vút lên rất cao đến mức không ai nhìn thấy anh ta đâu nữa:
tung tăng thanh xuân trôi ngược chiều
phút chốc mộng du lên phiêu diêu
Lại có lúc thơ chìm rất sâu khiến đôi ba bạn thân thiết nhất phát sợ, chẳng biết anh ta mất tăm vào cõi nào đây:
tôi trở lại dòng sông bờ cỏ thi xanh mướt
xưa em đánh mất trâm giờ lặng lẽ tôi tìm
Nhiều phen anh đứng sững giữa cái nhân gian vừa giả dối vừa lố lăng vừa ngốc nghếch:
có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
(Xin phép mở cái dấu ngoặc. Tôi biết ý anh định nói khối người đang sống mà như chết rồi, nhưng hình như anh ta có bị mềm lòng, né tránh nể nang gì đó bèn dùng một từ mềm mỏng có vẻ “lịch sự” là qua đời, cho đỡ chối tai một số người đang còn sống đấy mà như đã chết). Tuy vậy, ở nhiều chỗ, anh đã phải nói thẳng tuột, cũng chẳng cần che đậy gì nữa:
trộm cắp đâm nhau dưới đèn mờ
xích lô máu me cấp cứu
tham nhũng nâng ly mừng thắng lớn
ú ớ nói mê người đói không nhà
Còn nhớ về thời chinh chiến, anh ta cũng chẳng giấu giếm sự khủng khiếp của chiến tranh:
người thủng tim, người thủng đầu
người cụt chân, người cụt tay
người bên ta người bên địch
Đặc biệt bài thơ Bóng thì đọc rồi, tôi cứ gai gai rờn rợn khắp người:
hắn là hắn, hắn chính là chiếc bóng
không thanh âm, không màu sắc, không buồn vui
thế mà hắn suốt đời sát kề tôi
không xoá được, tôi đành chào thua hắn.
nhất là câu kết thật đáng đau buồn cho một cộng đồng người:
tôi đã chào thua khối người như chiếc bóng
Thế nghĩa là nhân loại này còn sinh ra rất nhiều rôbốt bằng xương bằng thịt y như con người. Nhưng anh Trọng Tạo lại rất thanh thản, như một nhà hiền triết đã thấu hiểu đến tận cùng cái sợi dây vô hình ràng buộc chặt chẽ thiên nhiên với số phận người, hơn nữa là số kiếp thi sĩ.
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
Được cái thanh thản trong như pha lê ấy là do Nguyễn Trọng Tạo luôn yêu cuộc sống, ham sống, và khao khát tình người vô hạn độ, anh luôn tiếc cho những ngày tháng trôi nhanh trên mọi kiếp người:
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi
Rất nhiều điều anh nói thật, có người tưởng anh mỉa mai hay chế riễu. Chính ra là anh chỉ nói thật. “Thi sĩ chỉ đáng giá khi nói thật bằng những hình tượng chắt lọc từ sự thật” (Boileau). Ví dụ cái chuyện ăn uống tưởng như thô thiển này:
tôi đã tới hang động yến sào tôi đã thèm ăn yến
vậy mà chưa được nếm bao giờ
hàng quốc cấm!
*

Nói đến một thi sĩ, trước hết phải xem cái tình của anh ta nó thường hiện lên bằng hình ảnh, bằng nhịp điệu, bằng ngôn từ, nghĩa là xem những nỗi niềm rung động của thi sĩ ấy từ da thịt bên ngoài vào tít bên trong đến những tế bào tận cùng của người thơ. Tình với chính mình trước đã, rồi đến bố mẹ, vợ con, người yêu, bạn hữu, người láng giềng, người đồng bào, đồng loại... nói chung với những ai được gọi là Người, kể từ người bé mọn bình thường nhất trên trái đất này. Thế thì ở Trọng Tạo, tôi lại thấy anh thật đắm đuối với cuộc sống con Người mà do đó cũng được nếm nhiều vị đắng cay, chua chát, gây thương tích cho mình và cho những người thân yêu của mình. Thôi thì “rầu lòng vậy, cầm lòng vậy”. Nhưng cũng lại vì quá yêu rồi nên bất chợt thốt ra những lời khiến người đọc dễ cảm như tôi cũng phải đau lòng theo anh:
cầm lòng sao cứ vân vi
mây thì nặng trĩu, núi thì nhẹ tênh
Chỉ vì một lẽ, Trọng Tạo làm thơ như bó buộc từ đáy tâm linh. Bao nhiêu nỗi niềm buộc anh phải viết ra nếu không thì sức nén, sức dồn ép của nó sẽ khiến anh ngạt thở hoặc ứa máu khắp các lỗ khiếu: mắt, tai, mồm, mũi. Cũng vì sự chân thực ấy mà trong cả tập đồng dao cho người lớn, không một bài nào giả tạo vay mượn hoặc điệu bộ, làm duyên, làm dáng. Mỗi câu, mỗi bài đều có sức đi vào chiều sâu của ý thức và tâm thức, đôi khi bật ra từ vô thức, như một khám phá bất ngờ.
sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc
nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì
....
em lộng lẫy mộng mơ giờ nhàu nát bên đường
anh là kẻ vớt trăng bao lần trăng vỡ nát
Thơ anh lại có lúc như tiếng nói của định mệnh hoặc một thoáng rùng mình của số phận:
ôi sự sống nơi đỉnh trời chân cỏ
thoáng heo may. Nghe mình chợt sang chiều
Và chỉ bốn câu sau đây mà sao tôi thấy hết cả một vũ trụ hoang lạnh, một nỗi cô đơn mênh mông buồn tưởng chừng cả thế giới này tan đi đâu hết:
... rồi xa lắc. Bỏ một trời nhung nhớ
ơi mùa thu áo ấm đã mặc chung
rồi biền biệt. Hoa vàng như hơi thở
mimôza. Giọt nắng... Có theo cùng
Những cảm xúc tinh vi tế nhị đến thế, chỉ những thi sĩ biết nắm giữ lại được từng phút giây sâu thẳm nhất trong tâm tư mới diễn tả được trọn vẹn những điều mong manh khó biểu hiện nhất bằng bất cứ loại hình nghệ thuật nào.

Quả vậy thơ cứ như bốn câu ấy thôi là tình người đã hiện ra thành người thật, đứng ngồi ngay trước mặt ta, mà ta có thể ôm vào lòng như ôm toàn thân người yêu mà nâng niu, trìu mến.

Rõ ràng thơ Trọng Tạo đi thẳng ngay vào cái đang thực có để rồi phiêu diêu, tan man trong hư vô, để lại cho tôi cái cảm giác của ngọn gió lạnh đầu mùa mơn man da thịt hoà vào một nỗi nhớ tiếc xót xa ảo diệu về một vài điều gì quá đẹp đã trôi qua, đã đi xa và xa xa mãi, không tài gì cầm lại được mà éo le thay, nó vẫn cứ đôi khi hiện hình rõ mồn một trước mắt mình.

Thơ Trọng Tạo không mấy khi đi một chiều. Mà phong cách quán xuyến toàn tập lại rất hấp dẫn, đáng yêu, không ai chỉ đọc một lần. Không hiểu sao, mỗi lần đọc lại “Đồng dao cho người lớn”, tự nhiên tôi liên tưởng ngay đến dáng dấp một nhân vật của Nguyễn Du tạo ra cho cuộc đời này.
... một tiểu Kiều
có chiều phong vân... có chiều thanh tân
sương in mặt tuyết pha thân
sen vàng lãng đãng...
(Nguyễn Du)
Ngôn từ và nhịp điệu thơ Trọng Tạo cứ tâng tâng, tưng tửng thường khi lênh tênh tưởng như nhẹ nhõm lắm, cũng có lúc hì hục tưởng như nặng nhọc lắm. Mà như chẳng định nói gì quan trọng lại hoá ra toàn những cái đau khổ, cái vui cái buồn nhân thế vào cuối một thế kỷ quá nhiều bi kịch, (tuy cũng lắm hí kịch), máu và nước mắt, ai oán thương tâm quá nhiều, yên vui quá ít, đi theo nhiều khát vọng ấm no, xum vầy, hạnh phúc. Chỉ một bài Mùa thu áo ấm đủ cho tôi thấy nỗi lạnh lẽo thăm thẳm đến gai gai tê tê khắp người.

Với cái “tạng” yếu ớt, dễ xúc động như riêng tôi, thì tập thơ này của Trọng Tạo là một trong vài ba tập đứng hàng đầu trong một tâm tưởng thơ chân thực, gợi ra cái đẹp, điều lành và sự thật cứ coi như cho riêng mình thôi kể từ ngày non sông thu về một mối. Cũng là đã 25 năm mà qua tập thơ này, tôi thấy tâm tư tình cảm và khát vọng ước mơ của con người Việt Nam hiện lên rất rõ nét sau bấy nhiêu tang tóc, chia lìa, sau những thuỷ chung và phản bội, thành tâm và dối trá, yêu thương và thù hận. Số bài thơ xấp xỉ số triệu dân của đất nước này, cầm tay thì nhẹ nhõm tưởng như chỉ là một cơn gió cuối thu, mà thật ra nặng bằng trọng lượng nước của dòng sông quê anh Trọng Tạo. Cái sức nặng ngôn ngữ và âm thanh Đồng dao khiến tôi nhiều đêm trằn trọc, phải tung chăn ngồi dậy, tìm đúng bài Đ bài C bài M mà đọc lại để được an ủi, được sẻ chia những khía cạnh thương cảm và cô đơn, nỗi sầu riêng và lòng trắc ẩn. Tính từ 1975, ít có tập thơ nào xâm chiếm lòng tôi lâu và sâu như đồng dao cho người lớn. Đồng dao ư? Đúng vậy. Trọng Tạo như chú bé nhà quê đi kiếm củi, trơ vơ và lủi thủi trên cánh đồng chiều, vừa vác bó củi khá nặng về nhà vừa hát rất vô tư về những chuyện đời, những niềm riêng, nỗi chung của rất nhiều người Tạo phải gọi bằng anh chị hay cô dì chú bác thường ngày vẫn dạy em dạy cháu về những điều sơ đẳng của lẽ sống con người. Bởi vì cậu ta cứ nâng trên tay những âm thanh nhịp điệu kết thành những con chữ luôn luôn ngọ nguậy, chấp chới vỗ cánh chỉ rình bay lên, mà bay xa, khoan thai chững chạc, như chẳng có gì vội vã. Anh đã đi những bước chân vững chắc và đĩnh đạc của số mệnh lúc chậm lúc nhanh, lúc nhẹ nhàng, lúc nặng trĩu lướt trên số phận cuộc sống mỗi con người, tựu trung là những bước đi định sẵn rất ráo riết và quyết liệt. Riêng Trọng Tạo, anh chủ định đi theo nhịp bước nghìn năm của dân tộc, nhịp song hành là chính, nhịp chẵn, hai bốn, sáu tám, cả chín mười, rất nhiều câu thơ dẫu số chữ lẻ vẫn luôn theo nhịp chẵn như vợ chồng như âm dương như đôi chim liền cánh, hễ nghe kỹ từ phía bên trong hay phía ngoài của ngôn từ, nhất là ở những dấu lặng và khoảng cách giữa hai câu (entrchigne), tôi vẫn thấy cái ung dung thư thái của nhịp chẵn, nhịp sáu tám. Tôi nghĩ hình như anh cố tránh sự trúc trắc, sự sai nhịp trong cùng một câu, cái gồ ghề và cái gấp gáp của cuộc sống túi bụi thị trường mà tôi thường gặp ở một số tác giả mới cứ tự cho mình là “hiện đại” lắm bất chấp một nguyên tắc lớn của thơ phương đông là nhạc điệu trong thơ. Nhạc điệu trong thơ chính là cái ta thường gọi là hồn thơ, không có nó, bài thơ chỉ còn là một đống xác chữ.

Có thể anh “phớt” hẳn cái nhịp cuống cuồng, xô bồ, nhốn nháo, lạo xạo của lối sống hôm nay, kiểu kinh tế thị trường chen lấn, bừa bãi, đua nhau làm giàu nhiều nơi tích luỹ tư bản dã man, bất chấp cả lương tâm. Đồng đôla Mỹ đang muốn chỉ huy cái loại “nhịp điệu” phi dân tộc đó trên toàn thế giới.

Tôi thấy Nguyễn Trọng Tạo lúc nào cũng như muốn đi đến đáy của nhiều tâm trạng và suy tư thời đại. Anh nói chắc nịch như thân cây lim cây táu về tình người, cả về những diễn biến tâm tư trong một xã hội lẽo đẽo theo sau những bước dài bước ngắn rất chớp nhoáng của thời đại mà kỹ thuật khoa học càng lên cao càng đi sát sạt ngay bên cạnh cái nguy cơ huỷ diệt toàn cầu. Anh như ngậm đau mà nói ra bằng những con chữ khá sắc cạnh những nỗi thống khổ và lòng tin yêu trong cuộc sống hôm nay, tưởng như anh thây kệ mọi điều thị phi, bỏ ngoài tai những lời khen chê vô bổ. Một ví dụ của tính u trầm thảnh thơi, tính kiêu kỳ không lộ liễu mà rất có duyên của lòng tin yêu đích thực thi sĩ ấy:
... nghe nói ngày xưa làm vua sướng lắm
mà đôi khi tôi cũng sợ làm vua
hoặc:
con sông mình hạc xương mai
vàng son in bóng đền đài hoa khôi
đến đây tôi gửi bóng tôi
vớt lên thì vỡ, tan rồi lại nguyên
để rồi anh cứ phải nói đi nói lại mãi như thách thức, như hờn dỗi mà lại như một lời âu yếm rất vợ chồng, cái điệp khúc rất trẻ con, rất hiền triết, rất đáng yêu:
tin thì tin không tin thì thôi
Nhưng thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng mỗi dòng một nghịch lý vò xé tâm tư:
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
Sống trong những nghịch lý ngoài đời và trong tâm tình, thơ anh vẫn tràn trề sinh lực, vẫn theo đúng luật trời luật người có lương tâm, thơ anh vẫn đầy nắng ấm:
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
...
nhưng tôi người cầm bút than ôi
không thể không tin gì mà viết
*

Tôi được cái may là người bạn quên tuổi của anh từ ngày tôi trở lại Hội nhà văn 1988. Tuy trước đấy có biết qua loa về anh do bài hát Làng quan họ quê tôi khá xúc động. Quê tôi chính gốc là một làng quan họ Bắc Ninh. Thấy anh gốc ở Nghệ An lại vì nghệ thuật mà nhận vơ Kinh Bắc làm quê mình, tôi rất vui thích. Các em bé ngày xưa hát đùa nhau: “Nhận vơ là vợ (thằng) nhân”. Dẫu Trọng Tạo có “nhận vơ” khi đặt tên cho một bài hát đẫm tình yêu quê hương Kinh Bắc của tôi, thì tôi càng thấy rõ tâm tư anh đúng thật là tâm tư người Kinh Bắc.

Tên anh là Nhân ư? Bình luận rộng ra một chút, xin phép các bạn, anh đúng là người quê tôi, chỉ bằng vào giai điệu và lời bài ca nổi tiếng, bài ca được dân vùng quê tôi đã hát say sưa và còn hát mãi. Là vì nghe quan họ, đọc dân ca, xem tranh dân gian, nghe truyện cổ tích Việt Nam, những cốt chuyện xuất xứ từ đất Kinh Bắc xa xưa ta đều thấy tố chất NHÂN - yêu thương con người, yêu thương xứ sở, một chữ NHÂN lồng lộng sáng, bao phủ cả bầu trời Kinh Bắc hàng bao nhiêu thế kỷ và lan toả ra toàn cõi Việt Nam, một tố chất duy nhất làm nên các tác phẩm nghệ thuật của dân tộc. Từ cổ tích nhuốm màu huyền thoại như Tấm Cám, Thạch Sanh, Trương Chi, Thánh Gióng, đến các nhân vật huyền thoại và có thật trong lịch sử như Tiên Dung Công chúa, Mỵ Nương, Mỵ Châu, như Vương phi Ỷ Lan, Lý Chiêu Hoàng, Huyền Trân Công chúa, Ngọc Hân Công chúa. Sau đến các thi sĩ lớn Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Thái tôn, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ... toàn là người Kinh Bắc.

Tôi thấy Nguyễn Trọng Tạo rất xứng đáng đứng vào hàng ngũ những người thơ Kinh Bắc hôm nay. Tôi một đứa con trai Kinh Bắc đến 80 tuổi tự rót chén rượu mừng cho quê mình có thêm đứa con Nguyễn Trọng Tạo, sau rót chén thứ hai mừng anh Trọng Tạo kết nghĩa anh em với chúng tôi, những người được đất quê vun trồng, chăm bón cho thành được một thi sĩ thấm đậm sắc màu của quê hương nhà Lý khoan hoà nhân ái...

Để kết thúc bài viết về thơ Nguyễn Trọng Tạo này, tôi lại xin phép tác giả, xin phép các bạn “nhại” câu thơ trên kia của Nguyễn Trọng Tạo:
Thi sĩ đã tin thì không ai không tin


Tháng 7.2000
Hoàng Cầm