Trang trong tổng số 3 trang (28 bình luận)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối
Đăng bởi Nguyen Trong vào 26/01/2007 03:55
Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 24/02/2007 22:34
chia cho em một đời saykhi đọc phải ngắt nghỉ, dừng lại đúng chỗ, nếu không thì sẽ không phải là bài thơ lục bát của tôi.
một cây Si
với
một cây Bồ Đề
Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 25/02/2007 05:46
Buồn ơi, Buồn có thương tôi.Cách nói, cách cảm và cách thơ ấy chỉ riêng Nguyễn Trọng Tạo mới có. Ngoa ngôn chăng, thậm xưng chăng, phách lối chăng? Ai nghĩ gì thì nghĩ, nhưng Tạo không thể sống nổi nếu không có một Nỗi buồn cặp kè bên cạnh: “Buồn đừng đi, Buồn đừng tan/ mất Buồn còn lại tro tàn mà thôi!” Trong con mắt nhà phê bình Trần Mạnh Hảo thì thế nào Nguyễn Trọng Tạo cũng sẽ biến thành một nhà “Buồn học”, nhưng nếu thay nỗi buồn kia thành niềm vui chẳng hạn, thì cơ sự sẽ ra sao? Chẳng lẽ lại phải đọc là: “Vui đừng đi, vui đừng tan/ Mất vui còn lại tro tàn mà thôi!” Vô duyên biết mấy, nông nổi và hạn hẹp vô cùng!
Đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi Buồn.
(Xon-nê buồn)
hai mươi bài hát vuiNgay cả một ngày vui là trong tiệc cưới của Em: “Nếu ngày mai khi tiệc cưới của em/ bạn bè đến nói cười và chúc tụng/ xin em hãy coi tôi như bè bạn/ và xin đừng dù khẽ gọi tên tôi…” giọng điệu bài thơ này phảng phất chất giọng Nguyên Sa một thời xa lắm, nhưng nó hiện đại hơn vì không sướt mướt và quá bi luỵ, nó ở một chiều kích khác của tâm thức,
hát tặng một nỗi buồn
hai mươi bài hát buồn
hát tặng nỗi buồn hơn…
tôi còn đi. Mưa gió. Đường dàiNỗi buồn trong tình yêu của Nguyễn Trọng Tạo đã được nâng lên thành một triết lý hoặc là một định đề - bất di bất dịch. Nhiều khi nỗi buồn của anh lại khiến cho người đọc phải bật cười, cười trong cay đắng và như thế còn hơn cả nỗi đau thương.
trái tim phải lội qua bao thác lũ
dẫu gió lạnh thổi mãi con chim nhỏ
em đừng buồn - trời rộng phía yêu thương…
(Nếu ngày mai)
hoa đã tặng. Người đã không còn nữa.Nói tập Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là thơ tình yêu thì đúng rồi, nhưng hình như chưa đủ, chưa thoả đáng, chưa thấu suốt cái nội hàm của nó. Thơ tình của Tạo chứa cả một trời thế sự, một biển tâm linh, thăm thẳm linh hồn người. Không có tình yêu con người, tình sự sống, tình yêu hoa cỏ, gái trai, sẽ không viết được những câu thơ đau xót như thế này, và cũng hài hước như thế này:
em đã yêu. Em đã bỏ tôi đi
sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc
nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì?
Anh làm vua không ngai, em vẫn là hoàng hậuVà rồi đây nữa:
chàng hoàng tử khóc nhè, nàng công chúa hờn dai
chợt thương quan không dân
chợt thương ngai không chủ
thương những đời người chung thân
trong áo mão cân đai…
(Cổ tích thơ tình)
Chặt cây mà bắc cầu sangPhẩm chất cốt lõi trong thơ tình Nguyễn Trọng Tạo trở thành bức thông điệp gửi tới người đọc là tình yêu, yêu đến hết mình, đến tan xác, đến rỗng không, đến không còn hồn vía:
Không em, anh sống lang thang hai lần
Ước chi em giận một tuần
Em xa vài tháng, em gần… cả năm.
(An ủi)
Chia cho em một đời tôiNgười biết yêu đến tận cùng thì cũng biết hiến dâng đến tận đáy. Nhiều khi nhà thơ tự ví mình như bông hoa ly vàng, nhỏ tí xíu, khuất lấp trong muôn ngàn loài hoa rực rỡ, khiêm nhường và cao thượng: “Dẫu nhỏ nhoi tôi có một cái tên/ khi ngập nước và khi thì ngập nắng/ hoa li vàng mùa hạ chính là tôi…” và một niềm run rẩy rất đỗi dịu dàng, mong manh và thuỷ chung biết bao:
một cay đắng
một niềm vui
một buồn
tôi còn cái xác không hồn
cái chai không rượu tôi còn vỏ chai.
(Chia)
Biển đầy vơi thương nhớ, biển xanh ơiCàng đi sâu vào mê cung thơ tình Nguyễn Trọng Tạo, người đọc càng khám phá thêm những miền tâm trạng mới, đặng làm phong phú thêm, chất lượng tâm hồn người. Cái mà nhà thơ tưởng mất lại là phù sa bồi đắp cho tâm tưởng ta thêm phì nhiêu, và đó chính là cái mà ta được:
Thân thể ai hồng hào pha ngọn sóng
Da thịt người chạm vào tôi nóng bỏng
Rồi có thể người quên
Còn tôi mãi giữ gìn…
(Hoa li vàng)
tôi về khép lại căn phòngỞ đây chỉ là cách nói, cách diễn đạt bằng thơ những điều khó nói. Tuy nhiên một nhà thơ thực sự tài năng không nhờ vào cách nói, phải có một nội lực cường tráng để có gì mà nói! Với nhà thơ “trữ lượng tâm hồn” là điều cần thiết hơn cả, cái mỏ ấy hệt như một mỏ dầu, càng khai thác, càng phát sáng. Và tôi không nghi ngờ Tạo là một mỏ dầu có trữ lượng cao, anh đã từng làm cháy, thậm chí thiêu đốt bao tâm hồn yêu và đang yêu:
thấy trong lồng ngực như không có gì
trái tim đã bỏ tôi đi
ai mà nhặt được gửi về giùm tôi.
(Gửi)
cho thơ tôi được nói lờiĐọc Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo, bạn đọc sẽ không muốn ngồi trong nhà nhìn ra mưa nữa, mà bạn sẽ… nhảy ra đường. Ra đường để làm gì thì chưa biết, nhưng cứ phải ra đường, để có thể đắng cay nhặt lại được một “nỗi buồn” nào đó, đau xót và quyết liệt vô cùng:
tình-yêu-tôi, gửi tới người-tôi-yêu.
bởi tôi tin những sớm chiều
người không quen… sống rất nhiều cho tôi.
(Thơ gửi người không quen)
một ngày người bán rẻ taYêu và buồn là cặp trẻ song sinh, Nguyễn Trọng Tạo đã minh chứng cho điều ấy.
ta thành đồ vật giữa nhà người dưng
một ngày người đến rưng rưng
mua gì vô giá? xin đừng mua ta
(Nỗi buồn kiêu)
có ai ngồi xuống chỗ chúng mình kiaTrong tập thơ này của Nguyễn Trọng Tạo, tôi đặc biệt yêu thích bài Thơ tình người đứng tuổi. Có cảm giác rằng anh viết cho tôi, và viết riêng cho một người nào đấy nữa, một người nào trong vô vàn chúng ta:
chàng trai ấy cùng với cô gái ấy
cô gái đẹp sao giống em đến vậy
và chàng trai run rẩy giống anh sao
cỏ biếc xanh như cỏ đêm nào…
(Cỏ xanh đêm trước)
bây giờ cao bổng vòm câyCon người ngỡ là từng trải, từng trải qua chiến trường, qua cả “tình trường” mà không hề chai sạn, cứ run rẩy như thuở mới vào đời, như một khúc mộng mơ, như một kẻ mắc nợ. Nợ cái gì thì chưa biết, nhưng Tạo là con nợ của trăm năm:
dòng sông trôi đã vơi đầy tháng năm
áo tôi đạn xé bao lần
tóc người hao mấy mùa xuân đợi chờ
(Thơ tình người đứng tuổi)
tôi còn mắc nợ áo dàiTrắng nợ như thế thì sẽ còn nợ tiếp, nợ chung thân, nợ tử hình! Tử hình rồi còn chưa hết nợ: “Có lúc ngôn từ biệt tích/ đam mê trơ đá gan lỳ/ em mèo ơi đừng đến nữa/ sợ em dựng dậy tử thi!…” (Chiêm cảm). Và đến nông nỗi ấy thì phải giấu biệt mình đi, lặn một hơi để không ai tìm thấy nữa:
một làn gió trắng một bài thơ hay
tôi còn mắc nợ mi mày
một con thuyền lá xanh đầy mắt nai
(Tôi còn mắc nợ áo dài)
có một chàng đơn độcNguyễn Trọng Tạo đã tự mình làm ra một đường phố, một số nhà cho riêng mình, đấy là số nhà Lãng Quên trên đường Không Tên vậy! Có tin được không? “Tin thì tin không tin thì thôi”. Và tôi gọi tập Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là Bức tranh tình không năm tháng!…
bước trên đường Không Tên
có một nàng Hạnh Phúc
ở số nhà Lãng Quên…
(Nỗi nhớ không tên)
Đăng bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 25/02/2007 05:56
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Nguyễn Trọng Tạo vào 10/07/2011 16:50
Nhưng tôi người cầm bút, than ôiNhìn từ chiều lịch đại, Nguyễn Trọng Tạo thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Thơ anh cũng từng một thời phơi phới tin yêu, một thời tha thiết thật lòng “mỗi chiếc lá đều ghi lời tự nguyện”. Sự trong trẻo ấy thật đáng quý nhưng rõ ràng có phần đơn giản. Trong khi những cây bút như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo… đã được nhiều người nhớ thì Nguyễn Trọng Tạo vẫn mải miết kiếm tìm. Phần hay nhất của thơ Nguyễn Trọng Tạo nằm ở thời hậu chiến. Đây là giai đoạn Nguyễn Trọng Tạo chủ trương một thứ thơ đời thường. Hướng về đời thường, thơ gần hơn với con người, những vui buồn nhân thế cũng được đề cập đến sâu sắc hơn. Theo ý tôi, mặc dù thập kỷ 80 của thế kỷ XX có sự nỗ lực đổi mới của nhiều nhà thơ, nhưng cần ghi dấu ba giọng điệu đáng chú ý: Ý Nhi, Nguyễn Trọng Tạo, Dư Thị Hoàn. Những bài thơ của họ thể hiện rất rõ sự “vỡ giọng” và sự thay đổi về tư duy nghệ thuật. Đó là quá trình tự nhận thức lại chính mình và người khác. Những thần tượng một thời giờ đây đã hết uy lực: “Khi đang đắm yêu có tin được bao giờ/ Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ/ Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ/ bạn bè thân thọc súng ở bên sườn” (Tản mạn thời tôi sống). Đây là những câu thơ hàm chứa rất nhiều cay đắng ở bên trong vì nó nói về sự đổ vỡ. Mà có sự đổ vỡ nào lớn hơn là sự đổ vỡ về tình yêu và thần tượng! Sau 1975, thơ ca Việt Nam từ quỹ đạo của cái ta trở về với cái tôi cá nhân. Nhưng đó không phải là cái tôi tách rời hoàn cảnh như thơ ca lãng mạn. Đó là cái tôi như một điểm tựa để nhìn về nhân thế và con người trong sự phức tạp và nhiêu khê khó lường. Góc nhìn đời tư và những dằn vặt cá nhân được quan tâm thể hiện. Những điều ấy đều có mặt trong thơ Nguyễn Trọng Tạo thời sau - thời mà cái nhìn riêng của anh được mài sắc hơn, sự thay đổi cái nhìn nghệ thuật diễn ra quyết liệt hơn: Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng/ Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá. Trong hoàn cảnh ấy, con người đang tìm mình, loay hoay kiếm tìm các giá trị, đường chân trời không hẳn cứ trong veo như trước đây ta vẫn tưởng. Đây là thời điểm các cây bút phải biết xác lập vị thế của mình trong dòng chảy lịch sử. Bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ phải được thiết lập bằng quan niệm riêng của anh ta về đời sống. Biết bứt thoát khỏi những quy phạm nghệ thuật của thời đã qua, Nguyễn Trọng tạo đã trổ được cái nhìn riêng về “cõi nhân gian bé tí” nhưng lại hết sức rộng lớn này với những thay đổi vừa mang tính bất thường, vừa mang tính quy luật. Tản mạn thời tôi sống (1981) là thi phẩm cho thấy cái nhìn rất nhạy cảm của nhà thơ. Đây là bài thơ được nhiều người nhớ. Có thể, những người khó tính sẽ nhận thấy ở bài thơ này mạch thơ còn dàn trải, câu chữ chưa thật chắt lọc. Đúng thế, cái hay của bài thơ không nằm nhiều ở cấu trúc hay ở sự kỳ công về nghệ thuật mà nằm nhiều hơn ở khả năng tiên cảm chính xác và đầy chất triết lý: “Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa/ như thời đã đi qua như thời rồi sẽ đến”. Nguyễn Trọng Tạo đã lấy hai câu thơ mang âm hưởng ví dặm để làm giai điệu nền tảng cho dòng cảm xúc “trái mùa” tản mạn của anh. Thực ra, bài thơ đâu có tản mạn, nó xoáy vào người đọc một câu hỏi buốt nhói, một vấn đề quá lớn: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi”. Chính vì cái câu hỏi quá riết róng ấy mà Nguyễn Trọng Tạo từng phải lao đao. Phải đến những năm đổi mới, những băn khoăn kia của Nguyễn Trọng Tạo mới được “giải oan”. Người ta bắt đầu nhận thấy một sự thật: bài thơ đã khái quát được tâm thế của một thời. Về sau, kiểu câu hỏi nhạy cảm ấy lại xuất hiện trong thơ Hữu Thỉnh: Tôi hỏi người: - Người với người sống với nhau thế nào?, trong văn xuôi Phùng Gia Lộc: Cái đêm hôm ấy đêm gì?... Không quá khó khăn, người đọc nhận thấy phía sau niềm trắc ẩn kia của Nguyễn Trọng Tạo là nỗi cô đơn, đắng đót của kẻ mang bản mệnh đa đoan. Mà Nguyễn Trọng Tạo đâu có che giấu cái tôi bản thể của mình:
Không thể không tin gì mà viết.
vẽ tôi mực rượu giấy trờiĐây là những câu thơ ngất ngưởng, đùa đấy mà cũng là thật đấy. Ngẫm ra, chỉ những ai dám là mình mới có cái ngất ngưởng, tếu táo đến nhường ấy: “vẽ tôi lặng nhớ mưa xa/ tiếu lâm đời thực khóc oà chiêm bao”. Tôi nghĩ, cái khóc cười qua những dòng tự hoạ trên đây có phần gần gũi với tâm trạng Khi vui lại khóc, buồn tênh lại cười của cây hát nói tài danh đất Nghi Xuân Nguyễn Công Trứ. Trong thơ, nhiều khi quá cố công để tìm đến cái sâu sắc lại gặp phải sự hời hợt, trơn lỳ, bởi đó là cái “cố” bằng lý tính. Nhưng nhiều khi, nhà thơ ngỡ như bất lực lại chính là lúc nẩy lên những ý lạ đến khó ngờ. “Tâm trạng nhạc tính” của người sáng tạo một khi bắt gặp những chớp loé tư tưởng sẽ tạo nên sự bùng nổ. Điều này khiến tôi chợt nhớ đến một ý kiến rất hay của E. Weber: “Tảng đá tư tưởng rơi vào tâm trạng này và dấy lên những đợt sóng tinh thần, những đợt sóng này vươn tới sự biểu hiện bằng ngôn ngữ và sẽ phải trở thành thơ” (4). Đó là phút “giời cho”, là trạng thái “ngây ngất”, “mê sảng” như A. Pushkin có lần bày tỏ. Có lẽ trong đời, Nguyễn Trọng Tạo đã hơn một lần bắt gặp giây phút “giời cho” mà Tản mạn thời tôi sống là một ví dụ điển hình. Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo thường là những bài thơ xuất phát từ cái nhìn sâu vào bên trong, lắng nghe âm vọng đời sống qua tiếng gõ rất riêng của cái tôi “nửa khóc nửa cười” ấy. Thời gian 1 là bài thơ có những bước nhảy độc đáo về tứ:
nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau
vẽ tôi thơ viết nửa câu
nửa câu ma quỷ đêm sâu gọi về…
(Tự hoạ)
còn chi bóc nữa?Khúc Xonê buồn cũng có cách nói khá ấn tượng:
hãy bóc hồn tôi
tôi thành tờ lịch
bóc sang luân hồi.
Là khi tỉnh giấc trong đêmNhững câu thơ này ít nhất cho phép người đọc nhận thấy hai điều. Trước hết, hé ra chiều sâu của một nỗi cô đơn thường trực; thứ hai, mở ra một trường liên tưởng lớn nói về sự cô đơn và khát khao chia sẻ. Ý tưởng ấy, đến Nguyễn Trọng Tạo, được hoá vào hồn lục bát, lấy cái duy tình để diễn tả cái duy linh: “Buồn ơi Buồn có thương tôi/ Đừng làm tôi phải mồ côi nỗi buồn!...” Buồn là em, là người đẹp, là một nửa của tôi, là ai đến bên tôi “khít ơi là khít” như Hàn Mặc Tử xưa kia một mình trong bãi biển đầy trăng chập chờn ma mị. Nếu Đồng dao cho người lớn mở ra bước chuyển về thi pháp, đưa thơ đến với chất giọng triết lý sau cái vỏ ngu ngơ như thật như đùa thì Chia lại là một nỗ lực cách tân của Nguyễn Trọng Tạo trên con đường làm mới thể thơ lục bát. Với Nguyễn Trọng Tạo, việc cách tân không đồng nghĩa với việc phải đập vỡ và tẩy chay mỹ học truyền thống. Anh biết nâng niu di sản văn hoá quê hương và cố gắng tạo nên sự “hoà giải” giữa cái cũ và cái mới trong thơ. Bởi thế mới có chuyện “Một cây si với một cây bồ đề” (Chia); “con đường từ ghét đến yêu/ đỏ đen sấp ngửa liêu phiêu một đời” (Ví dụ 4)... Trên nền ổn định của thể loại, Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cách xoay trở. Anh chơi vần, tạo ấn tượng thị giác bằng cách biến đổi cấu trúc dòng thơ, xây dựng những hình thức nhịp điệu, tiết điệu mới:
Một mình ta thấy ngồi bên: nỗi buồn
Là khi cạn một ly tràn
Đáy ly ta lại thấy làn mi xanh.
chia cho em một đời ThơLục bát Nguyễn Trọng Tạo không nghiêng hẳn về âm hưởng ca dao như Nguyễn Duy, không sấn sổ táo tợn như Đồng Đức Bốn sau này, và cũng khác với cách “gảy khúc trăng vàng” của làng quê Bắc bộ như Phạm Công Trứ trong lời thề cỏ may. Cái riêng của lục bát Nguyễn Trọng Tạo là sự phiêu diêu của cảm xúc, ma lực của âm nhạc và sự kỹ lưỡng nghiêng về phía sang trọng của chữ nghĩa. Đây là thế mạnh nhưng cũng là một cái bẫy với chính nhà thơ cho dù anh muốn quẫy đạp và vượt thoát khỏi tiền nhân. Đây đó vẫn có những câu mang hơi hướm của Nguyễn Bính. Nhưng thời Nguyễn Bính, sự nới giãn cấu trúc dòng thơ để tạo nên sự lạ hoá trong cấu trúc văn bản hãy còn quá hiếm. Còn hiện thời, hình thức xuống thang, ngắt câu thành những đoạn ngắn nhằm lạ hoá khuôn hình sáu-tám trở thành ngón chơi của nhiều người. Song có thể nói, Nguyễn Trọng Tạo thuộc số những người tiên khởi. Trong số những khúc lục bát hay của Nguyễn Trọng Tạo, bên cạnh Chia, tôi đặc biệt ấn tượng với Mẹ tôi. Thi phẩm này không mang mang nỗi niềm như Trông ra bờ ruộng của Hữu Thỉnh mà sử dụng giọng kể nhà quê rất thích hợp:
một lênh đênh
một dại khờ
một tôi
chỉ còn cỏ mọc bên trời
một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm…
mẹ tôi dòng dõi nhà quêNói thế để thấy rằng, mặc dù kỹ lưỡng và có ý thức trau chuốt ngôn từ, nhưng khi cần, Nguyễn Trọng Tạo biết cách đổi giọng để vần điệu hài hoà với cảm xúc. Từ những chuyện đời ngỡ như thật riêng tư, bài thơ mở ra một khung trời tâm tưởng, và bóng mẹ trở nên da diết lạ lùng: mẹ tôi tóc bạc răng đen - nhớ thương xanh thẳm một miền nhà quê. Sức hút của bài thơ này nằm ở sự giản dị của ngôn từ và giọng kể chứ không nằm ở kỹ xảo thuần tuý. Vậy là sau rất nhiều lưu lạc, vẫn có một miền quê ẩn sâu trong hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo:
trầu cau từ thuở chưa về làm dâu
áo sồi nâu, mấn bùn nâu
trắng trong giải yếm bắc cầu nên duyên.
ngác ngơ giữa phốTôi nghĩ, cái gốc quê ấy không đơn giản là nơi sinh trưởng, lớn lên nhìn từ góc nhìn địa lý mà rộng hơn, là hồn vía văn hoá của quê mình, dân tộc mình ám vào hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo và qua nhạc, qua vần điệu, tiết tấu, chữ nghĩa mà rung lên thành thơ:
một thằng nhà quê
nhớ thương mộ tổ
biết bao giờ về
(Lưu lạc)
Cỏ may khâu áo làng quêTrước đây, người ta thường nhắc đến hình ảnh Cao Bá Quát đê thủ bái mai hoa. Nay kẻ hậu sinh Nguyễn Trọng Tạo cũng biết lãnh tinh thần hướng về cái đẹp ấy trước cỏ may. Đó là một hành động nghĩa khí và nghệ sĩ. Nhưng nếu hoa mai trong thơ Cao Bá Quát có ý nghĩa như một siêu mẫu nói về sự thanh cao quen thuộc trong hệ từ vựng thơ ca cổ điển thì cỏ may trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là hình bóng của quê hương, là nỗi niềm của một con tim nhạy cảm: “loanh quanh sân thượng mà thương cánh đồng”. Một nhành cỏ may bất chợt đã đánh thức cái nhìn hoài nhớ tuổi xưa của Nguyễn Trọng Tạo. Bài thơ gợi lên một tình yêu da diết và sâu sắc. Trong con người ấy, quê hương bao giờ cũng bình dị và thiêng liêng. Thêm một lần nữa, tôi muốn khẳng định, cái chất nhà quê cứ chảy hoài trong kẻ lưu lạc kia đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên dải phổ cảm xúc thơ Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng cũng cần lưu ý thêm rằng, đó là chất nhà quê vùng Hoan Diễn - Nghệ An và đã được bồi đắp thêm những tố chất văn hoá của các vùng quê khác mà bước chân lưu lạc của Nguyễn Trọng Tạo đã từng đặt chân đến. Thế mới ngu ngơ, tưng tửng nhưng cũng hết sức ngọt ngào mềm mại. Đó là cái mềm mại hiện lên sau cái vẻ gẫy gập, trúc trắc, xa xót của những câu ví dặm quê anh.
Cớ chi gió thổi bay về trời cao
Ta lên sân thượng chạm vào
Cỏ may. Ta cúi xuống chào… Cỏ may!
(Cỏ may trên sân thượng)
rồi cũng khóc như em khóc cho điều đã mấtCái chất libido trong thơ Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cung bậc khác nhau, khi nồng nàn bốc lửa, cuồng nhiệt đắm say, khi ngơ ngẩn một niềm hối tiếc, khi xót xa máu ứa… Nhưng tất cả đều trang nhã, nó không quá mạnh như lứa thi sĩ trẻ sau anh. Cũng phải thôi, đó là cách nói của hai thế hệ. Thế hệ sau bảy lăm dám nói thật những cuồng nhiệt của mình cho dù đó là một sự thật gây sốc với nhiều người nhất là những người đạo đức giả. Còn Nguyễn Trọng Tạo, anh biết tìm đến cách nói “nửa phô mình ra nửa giấu lại mỉm cười” trong nguồn mạch thi hoạ phương đông. Đây cũng là một lựa chọn để tạo thành một bản tính trong thơ.
trâm Cỏ Thi. Ừ nhỉ, cỏ thôi mà
nhưng nước mắt…cũng như em, tôi đã
thêm một lần tái diễn trước cỏ hoa.
(Tái diễn)
Đăng bởi Cam Ly vào 25/02/2007 23:58
Lang thang đường phố HuếLMY: Có lần tôi đã hỏi ông rằng, đã có bao nhiêu người đẹp đi qua cuộc ờii ông, ông chỉ cười. Cho đến thời điểm này, ông đã có thể tạm thời “thống kê” chưa?
nhớ chiều nào xa Vinh
trời thắp vì sao xanh
thương nhớ về mắt biếc
Đường xưa toàn người đẹp
Nay đỏ trời phượng bay
Huế dầm mưa Nguyễn Bính
Vinh nắng hừng phương ai
Còn chi là rượu nữa
uống hoài mà không say
bia biệt ly quán lạ
ngả nghiêng bao tháng ngày
Ngỡ sông là cánh tay
Mát mềm như ngà ngọc
ngỡ chiều như chiều nay
gió thổi mùa xanh tóc
Có một chàng Đơn Độc
bước trên đường Không Tên
có một nàng Hạnh Phúc
ở số nhà Lãng Quên…
Bây giờ ngày ấy mai sauLMY: Vậy là khi yêu, ông đều làm thơ tặng người ta?
em mười bảy tuổi và câu thơ buồn
giọt mưa rơi xuống cội nguồn
bởi chưng mái giột mưa còn ướt anh
một ngày héo một ngày xanh
một đời nhớ một đời thành lãng quên
mấy chàng yêu cũ điên điên
chuyền nhau điện thoại gọi em đường dài
yêu nhiều sao chẳng kết ai
trớ trêu đời thực sắc tài kỵ nhau
bây giờ ngày ấy mai sau
người không còn tuổi và câu thơ thiền...
Đăng bởi saoviet vào 20/09/2008 17:32
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 20/09/2008 20:10
Đăng bởi saoviet vào 12/12/2008 11:38
Người ước mình trẻ lại người ước mình già điNguyễn Trọng Tạo là người có khả năng chỉ ra tính chất đặc trưng của xã hội mà người Việt đang sống với những câu thơ hồn nhiên. Chính vì hồn nhiên nên thơ anh không trở thành phương tiện chuyển tải của các ý tưởng. Những ý định chuyển tải nội dung như thế thật ra là chống lại thơ ca, hạ thấp chúng.
Người ước mình.vĩ đại người ước mình li ti
Ta không trẻ không già
Không li ti không vĩ đại
Ta trung bình nhưng ta không giả dối
(Tội đồ của thời gian)
Tôi hỏi Công chúa: Thạch Sanh đi đâuNhư thế là Nguyễn Trọng Tạo đã xông thẳng vào quán Lý Thông, tức là cái hang ổ của lịch sử, của bi kịch lịch sử. Ở trong cái quán ấy, nếu tôi được phép nói một cách hình ảnh, anh cũng sẽ gặp Nam Dao từ một cánh cửa khác tiến lại, trên tay cầm bộ tiểu thuyết Bể dâu hai tập, gần một ngàn trang, vừa viết xong.
Công chúa lầu bầu trả lời: không biết
Tôi hỏi Nguyệt Nga: Vân Tiên đi đâu
Nguyệt Nga âu sầu: hình như đã chết
Tôi hỏi cave. Cave cười ngất
Chợt nhận ra mình giữa quán Lý Thông
(Trong quán Lý Thông)
Tôi ngửng lên. Cao vót, một cánh chim trắng liệng tròn. Cái có thể hiểu rất giới hạn. Nhưng tôi hiểu chim sinh ra để bay. Tôi hiểu, tư duy với chúng ta hệt như chim vẫy cánh. Và làm thơ, những nhà thơ mong phục hồi cái chức năng ấy cho chính mình và cho tất cả mọi người.Thú vị vô cùng là ở đoạn cuối cuốn tiểu thuyết, Nam Dao lại nhắc đến thơ và nhà thơ. Tôi không biết anh có ý định như thế từ đầu hay đây là cái kết thúc tự nhiên của toàn bộ câu chuyện... qua nhân vật Phan Thượng Dân.
(Nam Dao, đoạn kết của tiểu thuyết Bể dâu, trang cuối, 981)
Mây như sóng như bông như núi trắng mịt mùngHoa thì không, nhưng tình vẫn còn tươi.
Mây như biển duềnh lên tóc trắng
Không còn sông Visla tiếng khóc cười xa vắng
Bó hoa hồng người tặng chẳng còn tươi
(Trên chuyến bay giã biệt)
Đăng bởi saoviet vào 12/12/2008 11:40
Đăng bởi saoviet vào 13/12/2008 14:44
Đăng bởi saoviet vào 13/12/2008 14:45
Trang trong tổng số 3 trang (28 bình luận)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối