Thơ » Việt Nam » Tây Sơn » Ngô Thì Nhậm » Thu cận dương ngôn
金鐵沉沉寂夜鳴,
鏗訇辨得海濤聲。
畜能載重宜無怒,
謙本居卑起不平。
世為承風奔駛急,
机因擊岸發雷轟。
最深情處何人測,
納盡群川獨惡盈。
Kim thiết trầm trầm, tịch dạ minh,
Khanh hoanh biện đắc hải đào thanh,
Súc năng tái trọng nghi vô nộ,
Khiêm bản cư ty khởi bất bình.
Thế vị thừa phong bôn sử cấp,
Cơ nhân kích ngạn phát lôi oanh.
Tối thâm tình xứ hà nhân trắc,
Nạp tận quần xuyên độc ố doanh.
Tiếng vàng tiếng sắt đằm đằm, bặt lúc đêm khuya
Chợt nghe tiếng ỳ ầm, nhận rõ là tiếng sóng biển
Lượng súc tích vẫn mang được nặng, chắc không giận dỗi gì
Tính khiêm tốn vốn ở chỗ thấp, há có bất bình ru
Được thế gió mạnh, chạy nhanh hơn ngựa
Gặp chỗ bờ ngăn, xoáy thành tiếng vang như sấm
Cái nơi chốn thân tình nhất, ai đã lường biết
Thu hết mọi dòng sông, mà không ưa sự đầy tràn
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 13/08/2006 19:20
Tiếng chen vàng sắt lúc canh tàn,
Nghe rõ oang oang sóng biển rờn.
Lượng vốn mang nhiều, đâu giận dỗi ?
tính quen ở thấp, há phàn nàn ?
Được cơn gió cả, càng bon mạnh,
Gặp chỗ bờ cao, lại nổ ran.
Còn nghĩa sâu xa ai đã biết,
Thu muôn dòng nước vẫn không tràn.