Dưới đây là các bài dịch của Lê Xuân Khải. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 77 trang (763 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Xuất cung từ (Triệu Chấp Tín): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Trời gần sáng cửa cung cấm mở
Gái còn duyên sắc trở về nhà
Điểm trang từ biệt cung vua
Ngẫm thân phận lệ mưa sa cúi đầu
Buồn một nỗi bước vào cung sớm
Chẳng hận ra cung chậm hôm nay
Mười năm Vĩnh Hạng cửa cài
Dung nhan so với trước đây chẳng nhường
Sắp xếp lại bên song gương lược
Nỗi riêng tư chỉ tiếc gương hoa
Bởi đâu không có ơn vua
Chỉ vì thân thiếp nên chưa biết người
Gái nhà lành cùng thời trang lứa
Họ phần nhiều được ở Chiêu Dương
Lụa Tề dù trắng mịn màng
Xem ra gấm Thục tươi hồng vẫn hơn
Ngày người nhà tiễn chân mong mỏi
Thiếp gần vua sẽ đội ơn sâu
Nay về em chị hỏi nhiều
Điện vàng kể chuyện bấy lâu thẹn thùng

Ảnh đại diện

Mãnh nhập thành hành (Triệu Chấp Tín): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Thành quanh năm dân cày không bén
Vào thành lo gặp huyện quan đi
Gặp quan đi cũng được thôi
Đừng nhìn bàn chỗ quan ngồi mới ghê
Chỗ quan ngồi mới nghe hồn hết
Có chuyện gì la hét tới làng
Lọng xanh khí giới xích còng
Cáo gào sói ngó dữ hung chết người
Thê thảm lắm đòn roi doạ dẫm
Già trẻ làng máu rớm nhìn nhau
Kêu quan đường sống còn đâu
Vào thành mà chết có chiều lại hay
Một lời hô muôn tay giơ chắc
Lũ lệ tư tan tác khói bay
Lủi đâu quan huyện thương thay
Thành cao chẳng dám bỏ ngay không vào
Quan lớn thành nhà cao có mặt
Biết huyện quan đi phát chẩn dân
Như suối ngoài cửa tiếng ồn
Vội truyền nhỏ nhẹ chẳng cần nhôn nhao
Thành có sẵn bánh bao rượu nữa
Tiền quan cho một bữa say sưa
Xong xô nhau đến huyện nha
Ào ào phá cửa phá nhà gác cao
Đêm khuya khoắt co ro quan huyện
Nhếch nhác sao hết chuyện quyền cao
Dân về thành lặng sáng sau
Nhìn sang quan huyện lắc đầu quan trên

Ảnh đại diện

Thiệp Tri thuỷ cảm hoài (Triệu Chấp Tín): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Thổi sáo đánh đàn chẳng tự lòng
Lớn nhìn thời trẻ thẹn cuồng ngông
Từ nay khách cửa Tề thôi dự
Mới thoả Tri trong lội ngược dòng

Ảnh đại diện

Đạo bàng bi (Triệu Chấp Tín): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Bia bên đường sao mà dựng lắm
Cứ năm rồi mười dặm lại một bia
Xem kỹ chữ vẫn chưa nhoà
Cứ như một bút viết ra ý lời
Quan trên tốt nhất đời ca ngợi
Nghìn thu sau để mãi công ơn
Việc làm bia khắc cỏn con
Chẳng sợ khập khễnh biết hơn chê cười
Bắt giặc cướp thuế thôi thúc giỏi
Xây trường bao trường dọi mái xong
Háo danh xưa thánh còn mang
Dưới đến dân chúng lại càng buồn thay
Người qua lại bia ai xin hỏi
Mặt ngớ ra tên tuổi biết đâu
Với tôi trước chẳng ơn nào
Hỏi tôi tôi biết nhớ sao đi rồi
Người đến giận đi thôi chẳng biết
Sợ xe sau lại vết trước bon
Mùa thu đục đá núi trơn
Trâu còn đang vụ sức mòn kéo lôi
Tiền làng xã chọn lời bia góp
Mấy đồ già mồm mép khiến sai
Mời xem bia thấy gạch xây
Vợ con mình nữa áo ai được lành
Chỉ mong núi Thái Hành bao đá
Hoá hết thành bùn của Hồ Đà
Dùng đem lấp đất trống thừa
Hằng năm khỏi phải xây bia bên đường

Ảnh đại diện

Tự Tương Đông dịch tuân lục chí Lư Khê (Tra Thận Hành): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Lư Khê tiếp bến cổ Hoàng Hoa
Đường dốc Bình Hương cũng đã qua
Ngan sữa vịt cơm bờ phải trái
Gà kêu chó cắn xóm gần xa,
Mạ bằng dưới ruộng hiu hiu gió
Áo ẩm trên đường lấm tấm mưa
Phong thổ Hồ Nam không khác mấy
Cuối xuân đâu cũng thấy cày bừa

Ảnh đại diện

Tần Bưu đạo trung tức mục (Tra Thận Hành): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Chân thành chẳng biết nước trôi mòn
Thấy vết nước dâng đất cát còn
Ngoài quách mấy nhà còn tựa liễu
Bờ Hoài một giải đã không thôn
Đê dài vỡ quãng nhiều công đắp
Sóng đục lở bờ dễ thế tuôn
Giá rẻ cá sông đành bỏ đũa
Ít nhiều trong đó chửa chiêu hồn

Ảnh đại diện

Nghiệp Hạ tạp vịnh (Tra Thận Hành): Bản dịch của Lê Xuân Khải

“Lưỡng kinh phú”, “Nhất phú” sao tày
Thổ mộc phí hao đã dựng xây
Là thứ vô tình Chương đục ấy
Phồn hoa trôi hết, tiếng sông này

Ảnh đại diện

Trung thu dạ Động Đình đối nguyệt ca (Tra Thận Hành): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Mây kéo đen gió giông nghìn dặm
Trời mịt mùng nước đẫm màu mây
Chợt mây gió sóng lặng ngay
Đáy hồ lại thấy in xoay ngược trời
Mặt trời chìm hồng tươi mầu sóng
Trăng muốn lên trời bóng tối buông
Người thuyền đều ngoảnh về đông
Cung Phùng Di vốn là vùng náu thân
Một chốc bỗng nhô lên trên sóng
Mười trượng hơn trải rộng gương soi
Trăng nhuốm nước nước in trời
Trời hồ một giải hắt soi sáng bừng
Lúc bấy giờ ly long náu vực
Ngậm ngọc ngâm không được mắt hoa
Không biết nên nhẩy cá to
Vẩy vây một cựa ánh phô nghìn vàng
Quang cảnh này người thường khó gặp
Lại vui lòng trong dịp ngẫu nhiên
Tiếng ca ngư phủ xa truyền
Mới hay đêm dạo chơi thuyền trung thu

Ảnh đại diện

Hựu xướng tuyệt cú (Khổng Thượng Nhiệm): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Xuân phai oanh hót liễu dương già
Bịn rịn càng tăng dứt tiếng ca
Nửa cất ly bôi người đất khách
Lại như xa bạn giữa quê nhà

Ảnh đại diện

Tuyết vọng (Hồng Thăng): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Thôn vắng trời chiều lạnh
Đồng không tiếng gió bay
Khe sâu khó nhận tuyết
Núi lạnh chẳng trôi mây
Cò diệc bay không rõ
Bãi, doi nhìn khó hay
Đều mầu trắng lả tả
Cầu nội mấy cây mai

Trang trong tổng số 77 trang (763 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] [11] [12] ... ›Trang sau »Trang cuối