Đăng bởi Vanachi vào 25/06/2005 22:20, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi karizebato vào 08/09/2009 00:50

Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

Cái cò... sung chát đào chua...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ... mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...


Saigon, mùa thu 1986

[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bình luận hai bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa...” (Nguyễn Duy) và “Trông ra bờ ruộng” (Hữu Thỉnh)

Trong các bài thơ lục bát thời hiện đại, tôi đặc biệt cảm động và cảm phục hai bài thơ của hai tác giả: Bài Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy và bài Trông ra bờ ruộng của Hữu Thỉnh. Quả thực, tôi không biết bài thơ nào hay hơn bài thơ nào. Nguyễn Duy thì “Nhìn về quê mẹ xa xăm” qua những chờn vườn của “Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”; còn Hữu Thỉnh lại “Trông ra bờ ruộng năm nào” với đôi mắt đau đáu dáng “Mẹ tôi nón lá bước lên”. Giữa một người mẹ đã lên niết bàn và một người mẹ đang bước lên bờ ruộng - đành lòng, tôi không thể xếp bài thơ nào hay hơn.

Mẹ của Nguyễn Duy đội nón mê, còn mẹ của Hữu Thỉnh thì đội nón lá, từ bao đời nay vẫn thế- các bà mẹ Việt Nam vẫn chỉ lấy cây lá trong vườn để che nắng che sương. Bà mẹ nón mê nhắn các con:

Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
Bà mẹ nón lá xoè hai bàn tay nhọc nhằn của mình ra và đếm:
Quanh quanh vẫn một mảnh bờ
Bấy nhiêu toan tính đến giờ chưa yên
Một mẹ yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng và một mẹ nữa vẫn chưa yên trước mạ non đầu hạ, trăng liềm cuối thu. Cùng dùng hai tiếng xa xăm, Nguyễn Duy thì viết:
Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
Còn đây là Hữu Thỉnh:
Xoè tay tính tháng tính năm
Tính người, nào biết xa xăm cõi người
Một đằng là xa xăm của đất đai quê hương, một đằng là xa xăm của biền biệt cõi người- Quả thực tôi nào rõ, nào hay cái xa xăm nào là xa xăm hơn....


Hoàng Nhuận Cầm
294.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Cảm nhận về bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”

Những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ về người mẹ trong mỗi một chúng ta là nguồn sống, là nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách và là những giá trị nhân văn giúp cho cái chân, thiện, mỹ trong mỗi con người phát triển. Đó cũng là nguồn cội khơi dậy những tình cảm sâu lắng đối với con người, gia đình và quê hương. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy là một bài thơ như vậy và là bài thơ dành được rất nhiều tình cảm của người đọc.

Nguyễn Duy được đánh giá cao trong thể thơ lục bát - một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,... Bài thơ Tre Việt Nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông còn bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ai đọc lên cũng có cảm giác như Nguyễn Duy đang viết về mẹ của mình và những tình cảm của mình đối với mẹ.

Bài thơ bắt đầu bằng không gian bảng lảng khói trầm, phảng phất mùi hương huệ trong đêm khuya thanh vắng - “Bần thần hương huệ thơm đêm/ khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”. Hương huệ, khói nhang trong không gian yên tĩnh, trầm mặc ấy đã cho Nguyễn Duy cảm giác “bần thần” nửa thực nửa mơ. Và, trạng thái nửa thực, nửa mơ ấy đã khơi nguồn cảm xúc về hình bóng người mẹ “trần gian thuở nào” rất đỗi yêu thương - “Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào” với biết bao kỷ niệm buồn vui như chỉ mới diễn ra ngày hôm qua, hôm kia thôi - trong leo lẻo những vui buồn xa xôi. Trong mạch nguồn cảm xúc ấy, hình ảnh người mẹ nghèo khó, lam lũ, vất vả, nhọc nhằn, suốt ngày luôn tay luôn chân với công việc cứ hiện về rõ mồn một - Nón mê thay nón quai thao đội đầu/Rối ren tay bí tay bầu/Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa.

Cũng như bất kỳ ai của thời lam lũ, Nguyễn Duy lớn lên từ lời ru mượt mà, yêu thương của mẹ; chứa đựng, gửi gắm nhiều nỗi niềm tâm sự sâu lắng của mẹ - “Bầu ơi thương lấy bí cùng”... hoặc là “Cái cò lặn lội bờ sông / Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non”... - và những kỷ niệm đẹp về mẹ qua những đêm hè trăng sáng, mẹ trải chiếu cùng các con ngắm trăng, đếm sao; vừa chơi các trò chơi dân gian vừa hát các bài đồng dao; tìm các chòm sao hay nghe mẹ kể chuyện về chú Cuội, chị Hằng nơi “Bờ ao đom đóm chập chờn”. Nghèo đến thế, lam lũ đến thế nhưng mẹ vẫn là hiện hữu của bà mẹ Việt Nam có một nhân cách đẹp tuyệt trần; là kho ca dao tục ngữ, là cuốn sách dày về đạo lý để làm hành trang cho Nguyễn Duy bước vào đời. Và, một thời thơ ấu bên mẹ tuy còn nhiều khó khăn vất vả nhưng rất đỗi vô tư, trong sáng cùng với “cái lẽ ở đời” được mẹ bày dạy đã đi cùng Nguyễn Duy theo năm tháng cuộc đời.

Mà có lẽ không chỉ để vui chơi! Đúng hơn, có lẽ mẹ đang truyền dạy cho các con kinh nghiệm qua hàng ngàn đời của ông cha về dự báo thời tiết để làm mùa qua việc xem hình dạng, ánh sáng tỏ hay mờ của các chòm sao như Sao Thần nông, Chòm Đại hùng tinh, Tiểu hùng tinh, của Mặt trăng... Nguyễn Duy không nói về điều này nhưng ngày xưa - khi mà khoa học kỹ thuật chưa phát triển, điều kiện chưa cho phép - người nông dân vẫn thường dựa vào những kinh nghiệm dân gian như nhìn trăng, sao, ráng mây để dự đoán thời tiết mà cày cấy, gieo trồng - ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa. Truyền dạy kinh nghiệm dân gian về làm ăn hay giảng giải về lẽ sống, nếp nhà cho con qua những lời ru, câu hát ví, hát dặm thương, những bài đồng dao... cũng là một thiên chức của người mẹ; bởi qua những câu hát ru, hát ví chắt lọc từ trái tim tràn đầy yêu thương ấy mà người mẹ truyền lại cho con những tình cảm, đạo lý biết yêu thương con người, gia đình, làng xóm và quê hương với mong muốn con sống đẹp hơn, người hơn; con lớn lên, phát triển toàn diện hơn bởi những lời ru chất chứa yêu thương cùng với những tình cảm và đạo lý ở đời - mẹ ru cái lẽ ở đời/sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn.

Nhớ mẹ, hồi tưởng về những vui buồn tuổi thơ khi còn mẹ mà Nguyễn Duy cảm thấy ngậm ngùi, với nỗi lòng tê tái, buốt giá: “lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa”. Nhớ thương mẹ đến tột cùng; không khỏi rưng rưng, ứa lệ khi nhớ về những đêm đông mưa rét, con lỡ đái dầm, thương con mẹ dành nằm phần ướt, nhường chỗ khô cho con.

Với cảm xúc trào dâng, Nguyễn Duy đã để cho giọng thơ cứ ngậm ngùi, gieo vào lòng người những nỗi niềm bâng khuâng đến da diết; ý thơ toát lên nỗi niềm suy tư, chiêm nghiệm, trở trăn, lo toan

Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
hay là
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn
Bà ru mẹ... mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng.
Dường như có tiếng thở dài đang bị nén lại, dường như có chút gì đó ân hận, có chút gì áy náy còn day dứt trong lòng con - những lời mẹ dặn dò, chỉ bảo thì đến nay, mặc dù con đã “đi trọn kiếp người” nhưng “vẫn không đi hết mấy lời mẹ ru” bởi cái lẽ ở đời mà mẹ từng ru dài rộng lắm, sâu sắc lắm; bởi bao nhiêu “lẽ đời” là bấy nhiêu tâm sự mà thế hệ những người bà, người mẹ gửi gắm trong lời ru. Có thể, đó cũng là niềm tâm sự, những lo toan mà Nguyễn Duy nói hộ tất cả những người đang làm con như chúng ta?! Và, sự băn khoăn, lo lắng ấy hẳn là không phải không có lý do!

Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy với âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, thiết tha là những cảm xúc yêu thương nồng hậu mà cháy bỏng và cụ thể của người con đối với mẹ. Bài thơ đã đi vào lòng biết bao người yêu thơ và chắc hẳn sẽ có không ít người cảm thấy rưng rưng, bởi những kỷ niệm ấy không chỉ riêng của nhà thơ Nguyễn Duy mà còn là kỷ niệm của bao nhiêu người khác nữa.

tửu tận tình do tại
174.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - bài thơ hay, sâu sắc về mẹ

Thế là một mùa thu, một mùa Vu Lan nữa lại về. Nhớ mẹ, đó là nỗi nhớ đằng đẵng, khôn nguôi, nhất là đối với những người đã và đang đi vào lứa tuổi “xưa nay hiếm” như chúng tôi bây giờ. Ta vẫn như thấy đâu đây thấp thoáng bóng mẹ ta đi về cùng năm tháng. Từ ngàn xưa, đã có biết bao nhiêu bài thơ viết về Mẹ, nhưng nhân mùa Vu Lan này, xin giới thiệu đến mọi người, bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của nhà thơ Nguyễn Duy. Đây cũng là bài thơ đã neo đậu theo dòng thời gian trong lòng bạn đọc những cảm xúc thơ mà hình như mỗi chúng ta ai cũng đều thấy bóng dáng người mẹ thân yêu của chính mình, trong những vần thơ - ca dao của Nguyễn Duy.

Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa chính là nỗi nhớ cảm động của người con về mẹ. Trong một lần tiếp chuyện Nguyễn Duy ở Đà Lạt, nhà thơ đã giãi bày với chúng tôi: “Mẹ tôi mất sớm. Tôi và em gái tôi ở với bà ngoại. Hình ảnh về mẹ trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa chính là hình ảnh bà ngoại tôi hồi đó… Những đêm hè trời trong, gió mát bà tôi thường trải chiếu cói trên mặt đê sông Mã, cùng các cháu nằm ngắm trăng, kể chuyện “Hằng Nga”, chuyện “Thằng Cuội” hoặc là đếm “một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng…”

Tiêu đề và câu kết của bài thơ chính là một trong những câu ca dao nổi tiếng về mẹ của ông cha ta, có từ ngàn xưa. Đây có lẽ cũng chính là mạch nguồn vô tận chảy suốt bài thơ. Bài thơ được mở đầu bằng những tâm tình xót xa đến khôn nguôi, giữa bầu không khí đầy tâm linh thành kính:

Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn
Chân nhang lấm láp, tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào.
Trong đêm, hình bóng mẹ theo khói nhang hiện về trong hồi ức đầy thông cảm. Mẹ đã đi xa, nhưng “chân nhang lấm láp” và “xăm xăm bóng mẹ” đã đưa ta đến với mẹ. Và quả thật, “mẹ ta” đã hiện về, rõ ràng trong nỗi “bần thần” khó tả của một đời nghèo khó:
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí, tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa.
Chỉ với mấy câu thơ ngắn ngủi này, Nguyễn Duy đã nói lên tất cả. Đã đưa ta về với người mẹ nghèo khó, bần hàn. Mẹ ta “không có yếm đào”, “không nón quai thao” và cũng chẳng có áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, mà hiện lên trong đó chỉ là một người mẹ nông thôn, bình dị, chân lấm, tay bùn cả đời gieo neo, vất vả. Chính việc sử dụng tài tình các từ láy “bần thần”, “lấm láp”, “xa xăm”, “rối ren” trong những câu thơ này càng tô đậm thêm cuộc sống lam lũ của mẹ, nhưng đó cũng là thủ pháp để tôn vinh đấng sinh thành cao cả. Lời thơ dung dị, gần gũi với mọi người:
Cái cò… sung chát… đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.
Kỷ niệm về mẹ dồn nén để rồi cứ thế ùa vào tâm tưởng mỗi người con. Ta nhớ tới mẹ mình, không chỉ ở những lời ru mộc mạc, chân tình mà còn ở những món quà quê giản dị - đó là những “trái hồng”, “trái bưởi”, là những đêm “Mẹ ra trải chiếu, ta nằm đếm sao” và “Bờ ao đom đóm chập chờn”… Những hồi ức này khiến mỗi chúng ta như thấy một góc nhỏ của tuổi thơ mình đang hiện hữu trong những câu lục - bát tài hoa của nhà thơ.

Sợi chỉ xuyên suốt bài thơ và là nguồn cảm hứng chủ đạo của bài thơ là lời ru của mẹ. Lời ru ấy không chỉ đưa ta vào giấc ngủ khi còn ấu thơ, mà nó còn theo ta đi trọn cuộc đời:
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn.
Và rồi nhà thơ đã nói lên sự lo lắng về hát ru đã và đang ngày một biến mất trong đời sống ngày nay:
Bà ru mẹ… mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?
Quả thật sự lo lắng của nhà thơ là hoàn toàn có cơ sở. Ngày nay, tiếng hát ru con hầu như không còn được các bà mẹ trẻ sử dụng. “Bà ru mẹ… mẹ ru con” tưởng như là một quy luật muôn đời, bất biến, một nét đẹp văn hoá từ ngàn xưa của dân tộc, đáng trân trọng, giữ gìn và phát huy thì đang dần bị lãng quên, mai một!?

Thơ Nguyễn Duy mộc mạc, đằm thắm và thấm đậm chất trữ tình nhưng vẫn mang tính triết luận như là một tổng kết cuộc đời:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết những lời mẹ ru.
Ở đây, ta bắt gặp sự đồng điệu của Nguyễn Duy với Chế Lan Viên, dù phong cách viết giữa hai nhà thơ hoàn toàn khác nhau. Sự đồng điệu ấy thể hiện ở câu thơ của Chế Lan Viên:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con…
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một dòng hồi ức tuyệt đẹp về người mẹ. Nhân mùa Vu Lan về, lại càng nhớ mẹ nhiều hơn, càng cám ơn nhà thơ đã cho ta những câu thơ - ca dao đẹp về mẹ. Điều đó càng nhắc nhở chúng ta: những ai còn mẹ càng phải biết trân trọng hơn đức sinh thành, dưỡng dục của mẹ. Những ai mẹ đã khuất lại càng thấy xao xuyến, nhớ mẹ tha thiết như lời ru êm dịu của những câu thơ lục bát tài hoa mà Nguyễn Duy đã sáng tạo.

Có thể khẳng định, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một trong những bài thơ hay nhất viết về mẹ. Hay bởi đó là tình cảm chân tình từ đáy lòng nhà thơ khi nhớ với người mẹ thân yêu của mình. Hay còn bởi đó là giá trị nhân văn, là truyền thống dân gian từ ngàn đời nay, hơn nữa nó không chỉ là một giọng thơ dịu dàng, đằm thắm, mà còn triết lý nhân văn của tình mẫu tử. Nhà thơ Nguyễn Duy đã từng tâm sự: “văn chương thời nào cũng cần đụng đến kinh mạch của xã hội, nếu không được như vậy thì nó chỉ là thú kể chuyện vặt qua ngày… Để có văn thật đã khó, được người đời chấp nhận lại càng khó hơn. Làm văn chương thật là phải rũ gan ruột mình ra”. Phải chăng, nhờ vậy mà bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa sẽ sống mãi cùng năm tháng, sống mãi trong lòng mỗi người yêu thơ đất Việt.


Hoàng Kim Ngọc
tửu tận tình do tại
173.71
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Thêm tài liệu âm thanh

https://drive.google.com/...6De4itN/view?usp=drivesdk
bài thơ này từng được NSƯT Minh Phương (Nhà hát VOV) thể hiện theo thể điệu Hát ru Bắc Bộ (trích các khổ thơ 4,5,6,7 - từ Bao giờ cho đến mùa thu... đến hết bài) trong Chương trình Kể chuyện và hát ru cho bé trên VOV2 và VOV6
Đề nghị ad nên thêm vào mục Tài liệu đính kèm

33.33
Trả lời
Ảnh đại diện

2 câu ca dao cuối bài

Cụ thể là hai câu: “ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...”

Tôi thấy ở diễn đàn có đường link dẫn tới bài ca dao này, chỉ khác ở dấu phẩy.
Bài ca dao gốc:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.”

nhưng theo ý tôi, trong trường hợp bỏ dấu phẩy đi, sẽ có người hiểu khác (ví dụ như tôi), vị trí ngắt câu bát là 3-5, tức “miệng nhai cơm”, “búng lưỡi lừa cá xương”. Đọc thế này câu thơ sẽ có cái dư âm đặc biệt, đồng thời cảm nhận về bữa cơm mà lại ngồi “búng lưỡi” nó không còn giống bữa cơm thường ngày nữa.

23.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Nhai cơm búng

Thế thì bác chưa biết kiểu nhai cơm búng của các cụ Thanh Hoá rồi. Phải nhai một mồm đầy,lúng búng, rồi nhả từng miếng vào miệng con. Nhai kiểu đấy mà búng lưỡi như bác nói thì ...toang..bác ạ. Bữa cơm lúc đấy hẳn là không giống ngày thường. :D

22.50
Trả lời