(Kính tặng anh Chín Quỳ - người chỉ huy du kích Đồng Nai)

Chiến khu Đ có từ thuở ấy
Có một anh đồng chí
Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi
Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai
Lập chiến khu nuôi chí lớn.

Nước ngọt, dân thương, rừng rộng
Tiếng súng đêm đêm phá mộng bọn lính, tề
Bạn với núi rừng, trái cam, măng le.

Đêm lắng nghe gió trời muôn dặm:
Thuyền Hít-le chìm đắm.
Biển Liên Xô sóng đỏ dâng trào
Pháp mở cửa Đông Dương quỳ gối
Rước Nhật vào
Hơn hai triệu đồng bào chết đói...
Chi đội vũ trang mới tròn tiểu đội
Cơ sở nhân dân chỉ nội huyện Tân Uyên.
Phải chống nguỵ, tề bố ráp ngày đêm
Suất năm năm, hai chính quyền Pháp, Nhật.
Ngày đói ăn rau, đêm lo thao thức
Mỗi năm thêm nấm mộ giữa rừng:
Ba Tôn, Bảy Chiếp, Út Liễng, Tư Mừng...

Bỗng một chiều sương
Gió thu đang tơ vàng lá cám.
Động bước chân ai, giật mình rừng thẳm.
Anh Giỏi về, người thợ xưởng Ba Son.
Lá cờ son
Tay anh hé mờ
Lệ du kích Đồng Nai thấm vào vải đỏ.
Giữa mùa thu mà hoa nở thình lình.

Đọc truyền đơn như đọc bức thư tình
Từng chữ một đánh vần đến thuộc
Chiến khu xanh đêm vui đỏ đuốc
Suối mừng reo, tiếng guốc nhịp đều đều.
Chợ Tân Uyên bỗng lên giá lụa điều
Mua lụa đỏ cũng bị tra, bị đánh.
Cờ Việt Minh, ngôi sao năm cánh
Như tim vàng ngự giữa lòng son.
Cách mạng đến giữa mùa trăng tháng Tám
Chiến khu Đ, rừng vắng bóng tưng bừng.
Sợi dây thừng thắt bao đạn quanh lưng
Áo rách vai, đầu trần, đi khởi nghĩa.

Những tròng mắt bừng bừng ánh lửa
Gót chân chai giậm vỡ nhựa đường.
Cờ đỏ sao vàng
Đã ngập trời Nam Bộ:
Những đoàn người như thác đổ
Tiếng hò reo đất lở nghiêng trời
Bọn giặc Nhật rụng rời
Quỳ dâng lại Sài Gòn và lục tỉnh

Người du kích Đồng Nai gác toà thị sảnh
Ngỡ từ nay hết nghe lạnh rừng sâu.


Bắc Sơn, 1954