Dưới đây là các bài dịch của Nguyễn Tâm Hàn. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Du Đông Sơn (Châu Hải Đường): Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn

Mấy lần đã tới Thanh Hoa,
Đông Sơn giờ mới ghé qua lần này.
Đường vắng hoe, cỏ mọc đầy,
Động tiên san sát cạnh ngay nhà người.
Sườn non nóc miếu rêu phơi,
Bên lầu nâng chén rượu mời ngả nghiêng.
Tự bao giờ trống điểm lên,
Mà dư âm động còn trên sóng hồ.

Ảnh đại diện

Bắc chinh - Bắc quy chí Phụng Tường, mặc chế phóng vãng Phu Châu tác (Đỗ Phủ): Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn

Mùa thu năm thứ hai
Vua ngự trên ngai báu
Được lên miền bắc xa
Nơi vợ con nương náu
Giữa gian khổ can qua
Khó khăn khăp mọi nhà
Riêng mình ân mưa móc
Vua cho về thăm nhà
Lạy tạ trước bệ rồng
Bước lui chẳng đành lòng
Thân bề tôi chưa vẹn
Đâu dám lời tôi trung
Vua là đấng con trời
Trị muôn dân tuyệt vời
Nhưng bọn Đông Hồ vẫn
Quấy nhiễu mãi không thôi
Khắp dân tình căm hận
Lời oán than ngất trời
Đành gạt lệ bước đi
Lòng vương vấn trăm bề
Đất trời nhiều ngang trái
Bao giờ hết nhiêu khê
Bước lầm lũi trên đồng
Bếp nhà ai khói vương
Người bị thương rên rỉ
Máu loang lổ trên đường
Quay đầu nhìn Phụng Tường
Bóng cờ giữa chiều buông
Núi trập trùng trước mặt
Nước vũng ngựa lỏng cương
Tới vùng trũng huyện Phần
Sông Kinh chẩy ầm ầm
Cọp lờn vờn trước mặt
Rống vang dội sơn lâm
Cúc rũ giữa mùa thu
Vết xe xưa rêu mờ
Lòng lâng lâng niềm hứng
Trời cao vút xanh lơ
Niềm vui giữa tịch liêu
Cây rừng trái thật nhiều
Dây leo xen quả dẻ
Đen lẫn đỏ son điều
Thấm mưa nắng thuận hoà
Ngọt đắng đều đơm hoa
Tâm vời nguồn đào cũ
Nghĩ mình thật vụng về
Gập ghềnh hướng châu Phu
Hang ẩn hiện lờ mờ
Tới ven bờ sông vắng
Vừng dương hãy còn kia
Cú trong ruộng dâu vàng
Chuột đùa giỡn trước hang
Đêm đi qua chiến địa
Trăng chiếu xương ngổn ngang
Trăm vạn quân Ải Đồng
Bỗng một thoáng bại vong
Khiến dân Tần một nửa
Thành ma thật não nùng
Thân ta bụi Hồ bám
Trở về tóc pha sương
Nơi mái tranh bước về
Nhìn vợ con thảm thê
Áo quần vá trăm mảnh
Cảnh bèo nheo não nề
Âm buồn tiếng suối reo
Thằng con xưa cưng chiều
Mặt xanh xao nhợt nhạt
Quay mặt chả thèm theo
Chân không đầy cáu ghét
Bên chiếc giường vẹo xiêu
Hai đứa con gái đứng
Áo cũn cỡn tiêu điều
Vợ, áo cũ biển thêu
Làn sóng đã gẫy nhiều
Nét dọc ngang xô lệch
Thiên ngô, phượng bèo nheo
Trong áo manh mỏng ngắn
Nhìn đau xót trăm chiều
Dù trong người chẳng yên
Bị tả mấy hôm liền
Cũng mở bao tặng lụa
Bớt nỗi lạnh triền miên
Son phấn bọc trong khăn
Mở ra bầy đầy chăn
Nét sầu nàng tan biến
Con chải đầu lăng xăng
Bắt chước mẹ điểm trang
Phấn son bôi lổ loang
Thỉnh thoảng chấm thoa sáp
Chân mày vẽ bệt ngang
Được gần gũi con thơ
Quên đói khát xác xơ
Trẻ kéo râu đùa giỡn
Đâu lỡ mắng con khờ
Sầu chinh chiến ngổn ngang
Con dại phá chẳng màng
Cùng vui ngày hội ngộ
Việc sinh kế bỏ sang
Thương thiên tử lao đao
Luyện quân bỏ được nào
Nhìn trời mây tang hải
Khí yêu quái dâng cao
Gió lạnh tây bắc qua
Hồi Ngột giúp quân nhà
Cùng quân mình liền cánh
Binh họ giỏi xông pha
Chỉ khoảng năm ngàn quân
Đoàn ngựa gấp hai lần
Binh ít nhưng tinh nhuệ
Họ kiên quyết bền gan
Quân tiến vụt như chim
Phá giặc nhanh hơn tên
Vua hết lòng tin cậy
Mặc dư luận đang lên
Trở tay đã thu Y
Tây Kinh đâu nề gì
Quan quân thêm hừng chí
Muốn cùng tiến một khi
Trận mở lối Thanh Từ
Hằng Kiệt chiếm êm ru
Trời móc sương trong sáng
Chính khí lấn bóng mờ
Hoạ hết lúc tàn Hồ
Thế vững lại như xưa
Khí Hồ sao tồn được
Trước kỷ cương nhà vua
Lúc thời buổi rối ren
Việc khác xưa nào quen
Bọn gian thần đền tội
Lũ đồng loã cũng yên
Chuyện Hạ Ân nguy nan
Bọn Bao Đát tự tan
Chu Hán lên dựng nghiệp
Bậc tài có Tuyên Quang
Tướng Trần đấng anh hùng
Ngọn giáo bừng khí trung
Thiên hạ được bao kẻ
Giang sơn còn nhờ ông
Điện Đại Đồng hoang liêu
Cửa Bạch Thủ quạnh hiu
Khắp hoàng thành ngóng đợi
Vua về tiếng quân reo
Khu vườn lăng thiêng liêng
Vẫn quét dọn thường xuyên
Nghiệp Thái Tông hùng vĩ
Công lớn rộng vô biên

Ảnh đại diện

Hoạ Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt bắc thành chư hữu” chi tác (Nguyễn Du): Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn

Tiến về Nam qua đèo Ngang
Hành trình đầy đủ gươm đàn mang theo
Thuốc thần nào đã tới đâu
Mảnh da beo vẫn mối đầu luỵ thân
Ánh mầu nước, chén rượu xanh
Dõi theo vó ngựa một vành trăng quê
Gặp gia huynh hỏi xin thưa
Đường cùng tôi gặp, tóc giờ điểm sương

Ảnh đại diện

Tỳ bà hành (Bạch Cư Dị): Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn @www.hoasontrang.us

Tiễn người đêm bến Tầm Dương
Lau, phong xào xạc, thu vương dịu hiền
Chủ xuống ngựa, khách lên thuyền
Không đàn chẳng sáo chén buồn vân vê
Say nào vui lúc phân ly
Trăng chìm đáy nước, sông chia đôi tình
Chợt nghe tiếng nhạc lênh đênh
Khách ngơ, chủ ngẩn chẳng đành bước đi
Rằng sao âm quá não nề ?
Đàn ngưng ngỡ đáp, nào dè kín môi
Ghé thuyền gạn hỏi đôi lời
Chong đèn, rượu tiếp, tiệc vui đậm đà
Cạn lời nàng mới bước ra
Nửa phần má phấn tì bà khuất che
Chỉnh đàn tay ngọc vân vê
Dạo qua vài tiếng đã nghe tài tình
Đàn rung nghèn nghẹn, bồng bềnh
Xót xa như tả nỗi mình đắng cay
Tay đàn, cúi nhẹ, chau mày
Âm nghe kể lể dãi bày tâm tư
Bắt khoan, nắn nhẹ, dạo, vê
Hết Nghê Thường lại tiếp về Lục Yêu
Dây to rào rạt mưa gào
Dây con ngỡ tiếng lời nào oán than
Tiếng trầm tiếng bổng tràn lan
Tựa trên mâm ngọc rớt ngàn hạt châu
Lời oanh trơn giọng nhuốm sầu
Ngập ngừng tiếng suối, thác sâu nước gầm
Suối đông lạnh, đàn lặng câm
Nét sầu phảng phất, vẻ trầm bi ai
Bâng khuâng lòng khách ngậm ngùi
Bỗng âm oà vỡ tả tơi ngọc bình
Vó câu dồn dập đao binh
Giữa đàn tay ngọc thình lình phất lên
Âm như xé lụa giữa đêm
Đông, tây tĩnh lặng... khắp thuyền ngẩn ngơ
Trên sông trăng bạc dật dờ
Nhẹ cài que gẩy vào khe dây đàn
Đứng lên khép nép dịu dàng
Nguồn cơn nàng kể rõ ràng đầu đuôi:
"Chốn thành đô thiếp ra đời
"Chính quê xưa vốn là người Hà-Mô
"Thạo tỳ bà thuở mười ba
"Nhất danh đào hát chẳng là thua ai
"Ngón đàn át cả Thiện tài
"Thu còn ghen nét trang đài thắm xinh
"Ngũ Lăng tài tử nặng tình
"Lụa đào trao tặng quanh mình biết bao
"Hoa vàng, vành lược cài đầu
"Gẫy theo nhịp gõ, rượu mầu vương y
"Vui triền miên tuổi xuân thì
"Thu trong, xuân mát qua đi chẳng cần
"Bỗng người em phải tòng quân
"Người dì vắn số, muôn phần xót xa
"Xuân tàn, sớm lại, chiều qua
"Ngựa xe thưa thớt, cửa nhà vắng tanh
"Về chiều kết nghĩa tơ mành
"Chồng người buôn bán, nhẹ tình biệt ly
"Phù Lương tháng trước chàng đi
"Thuyền không lẻ bóng sầu bi não nùng
"Nhìn trăng lạnh lẽo trên sông
"Tơ vương lại thuở má hồng xa xưa
"Xót thương thân phận đong đưa
"Nhạt nhòa má phấn hoen mờ lệ sa"
Đã buồn theo tiếng tỳ bà
Càng thêm se sắt nghe qua chuyện nàng
Cùng thân lưu lạc trên đường
Chả cần quen biết cũng vương nặng tình
"Tròn năm ta đã rời kinh
"Tủi buồn nằm bệnh nơi thành Tầm Dương
"Chốn này hẻo lánh nhiễu nhương
"Quanh năm đàn nhạc chả thường được nghe
"Cạnh sông Bồn ẩm, trũng kia
"Trúc gầy, lau úm còn gì nữa đâu
"Sớm khuya nghe mãi thêm rầu
"Quyên kêu, vượn hú nỗi sầu khó vơi
"Sông xuân, hoa sớm, trăng ngời
"Một thân quạnh quẽ đầy vơi chén nồng
"Giá đừng hát núi, sáo đồng
"Líu lo thì hẳn bớt không bực mình
"Đêm nay nghe khúc nhạc tình
"Tưởng như từ chốn thiên đình vọng ra
"Xin nàng hãy niệm tình ta
"Đàn thêm khúc nữa gọi là tri âm
"Bài Tỳ Bà tạ tình thâm"
Cảm lời nàng đứng lặng câm tần ngần
Trầm ngâm tay vuốt dây đàn
Âm nghe ray rứt chứa chan giọt sầu
Khách nghe mắt lệ rầu rầu
Áo xanh Tư Mã Giang Châu ướt dầm.

Ảnh đại diện

Bạch tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh (Sầm Tham): Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn

Cỏ tàn tạ giữa heo may
Xứ Hồ tháng tám tuyết bay ngập trời
Gió Xuân chỉ một đêm thôi
Ngàn hoa lê nở khắp nơi lan tràn
Hoa bay bám ướt rèm màn
Áo cừu, chăn gấm chẳng làm ấm thân
Giương cung thiếu sức, soãi gân
Giáp y lạnh toát vẫn quanh thân mình
Ven bờ băng đá mông mênh
Mây mù ảm đạm xây thành trời xa
Tiệc chia tay đãi khách về
Tì bà, Khương sáo, tỉ tê đàn Hồ
Tuyết rơi chiều xuống lờ mờ
Cờ hồng đóng đá cứng đơ lạnh lùng
Buổi Luân Đài tiễn bước ông
Thiên Sơn băng giá, khắp vùng tuyết sa
Đường khúc khuỷu nhận chẳng ra
Mờ mờ dấu ngựa bước qua lu dân.

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]