Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

SỰ KIỆN 30.4.1975
[Phần 2]


Sự suy yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hoà
Sau này, trong tập hồi ký Mùa Xuân Đại Thắng, Đại tướng Văn Tiến Dũng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã viết: một trong những động cơ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công ở miền Nam là do Mỹ đã giảm viện trợ, khiến cho lực lượng quân lực Việt Nam Cộng hoà (vốn được tổ chức rập khuôn theo lối đánh tốn kém của Mỹ) đã không thể có đủ tài chính để duy trì số lượng lớn vũ khí. Đó là vì “hoả lực không quân đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn; khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ, và nhiên liệu.” Trong khi quân đội Sài Gòn cần 3 tỉ đô mỗi năm để duy trì bộ máy chiến tranh thì đối thủ của họ chỉ cần 10% con số đó để xây dựng một lực lượng quân sự đủ lớn để vừa giữ vững miền Bắc vừa tăng cường quân đội chiến đấu ở miền Nam. Sự suy yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hoà còn do yếu tố tâm lý khi tinh thần của binh lính xuống rất thấp, số lượng đào ngũ tăng mạnh. Ngay cả tại những đơn vị tinh nhuệ của Quân Lực Việt Nam Cộng hoà, tỷ lệ đào ngũ cũng tăng lên mức rất cao. Biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55% mỗi năm), tiếp theo là các đơn vị dù (30%) và thuỷ quân lục chiến (15%).

Tuy nhiên, quân số và vũ khí của Quân lực Việt Nam Cộng hoà vẫn có những sự vượt trội nhất định khi có 1.351.000 quân, 383 xe tăng (162 M48A3, 221 M41) và 1.691 thiết giáp chở quân M-113, không quân vượt trội hoàn toàn với 550 phi cơ A-1H, A-37 và F-5, 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1.000 phi cơ UH-1 và CH-47, khoảng 200 phi cơ O1, O2 và U17, khoảng 150 phi cơ C7, C-47, C-119 và C-130), 1 không đoàn tân trang chế tạo, 4 phi đoàn hoả long, trang bị phi cơ AC-119, AC-130 Spectre Gunship. Ngoài ra còn có phi đoàn trắc giác (tình báo kỹ thuật), phi đoàn quan sát RC-119L và biệt đoàn đặc vụ 314, trong khi đó Quân Giải phóng không thể triển khai lực lượng không quân ở miền Nam và lực lượng tăng thiết giáp cũng tương đối hạn chế.[12] Ngay cả lực lượng bộ binh của quân Giải phóng cũng không thể đạt tới con số 1 triệu quân, kể cả ở thời điểm cao nhất.

Theo hồi ký của Đại tướng Văn Tiến Dũng thì cục diện chiến trường đang chuyển biến ngày càng bất lợi cho quân lực Việt Nam Cộng hoà. Tại Khu 9, các cuộc hành quân lấn chiếm bị thất bại, hơn 2.000 đồn bốt bị phá, 400 ấp chiến lược với gần 800.000 dân bị quân Giải phóng xoá bỏ. Khu 8 có hơn 200 ấp chiến lược với hơn 130.000 dân bị xoá bỏ. Tại Khu 5, quân Giải phóng đã chuyển lên thế tiến công ngày càng mạnh, mở rộng bàn đạp vùng giáp ranh (Nông Sơn, Thượng Đức, Tuy Phước, Minh Long, Giá Vụt), xoá hẳn gần 800 đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 200.000 dân.

Trong hồi ký của mình, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho rằng tinh thần và sức chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hoà giảm sút rõ rệt. Do Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, nhiều binh sĩ mất chỗ dựa tinh thần từ lâu nay (được cường quốc số 1 hỗ trợ), nền kinh tế thì ngày càng khó khăn do kinh tế khủng hoảng và nạn lạm phát 300% trong năm 1974. Có 170.000 lính đào ngũ, rã ngũ trong năm 1974, dù tăng cường thêm lính quân dịch thì tổng số quân vẫn giảm 20.000 so với năm 1973. Cuối 1974, quân Giải phóng chủ lực của miền Đông Nam Bộ phối hợp với lực lượng của địa phương mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long giành thắng lợi lớn. Trong hơn 20 ngày quân Giải phóng đã diệt và bắt trên 5.400 lính, thu 3.000 súng các loại, giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long. Chiến bại này đánh dấu một bước suy sụp mới của quân Sài Gòn. Quân chủ lực của VNCH đã không còn đủ sức hành quân giải toả quy mô lớn để lấy lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng trên các địa bàn giáp ranh, dù Phước Long chỉ cách Sài Gòn 50 km.

Ngay sau thất bại Phước Long, cố vấn Mỹ John Pilger đã tiên liệu trước về sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn sẽ diễn ra trong nay mai. Ông viết:

Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là “thủ đô tiêu dùng” nhưng chẳng hề sản xuất được một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

SỰ KIỆN 30.4.1975
[Phần 3]


DIỄN BIẾN CHÍNH TRỊ VÀ QUÂN SỰ


Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam Cộng hoà
Tổng thống Gerald Ford không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi thêm ngân sách cho chiến trường Việt Nam. Đầu năm 1975, sau hai năm ký hiệp định Paris, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã huy động gần như toàn bộ lực lượng của mình[15] gồm 270 ngàn quân chủ lực cho chiến dịch, mở cuộc tấn công lớn trên toàn miền Nam Việt Nam, bắt đầu là ở Tây Nguyên. Buôn Ma Thuột thất thủ gây chấn động hệ thống phòng thủ của quân đội Việt Nam Cộng hoà và là khởi đầu của những chiến dịch nối tiếp nhau.

Quân lực Việt Nam Cộng hoà đông hơn nhiều với hơn 1,3 triệu quân[16] nhưng tỏ ra bất lực và đề nghị Mỹ chi viện. Ngày 23 tháng 3, Nguyễn Văn Thiệu nhận được thư của Tổng thống Mỹ là Gerald Ford:

Nhà Trắng
Ngày 22 tháng 3 năm 1975
Thưa Tổng thống,
Cuộc tấn công hiện nay của Bắc Việt Nam chống lại quý quốc thật vô cùng xáo trộn khiến riêng cá nhân tôi lo âu. Theo quan điểm của tôi, thì cuộc tấn công của Hà Nội tượng trưng cho một sự việc không kém gì sự huỷ bỏ Hiệp định Paris bằng vũ lực.
Biến chuyển này mang theo hậu quả nghiêm trọng nhất cho cả hai dân tộc chúng ta. Đối với Ngài và nhân dân Ngài thì đây là lúc hy sinh lớn nhất, nó sẽ quyết định chính số phận quý quốc. Tôi tin tưởng rằng dưới quyền lãnh đạo của Ngài, quân lực và nhân dân Việt Nam Cộng Hoà sẽ tiếp tục công cuộc bảo vệ kiên trì chống lại vụ xâm lược mới này. Tôi cũng tin tưởng chắc chắn rằng nếu có được sự yểm trợ bổ túc từ bên ngoài vào thì quý quốc sẽ thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của mình.
Riêng đối với Hoa Kỳ thì vấn đề cũng không kém phần cấp bách.
Khi hành động như thế này, Hà Nội đang tìm cách huỷ diệt tất cả những gì mà chúng ta đã chiến đấu để thành đạt, với phí tổn vô cùng to lớn, suốt mười năm qua.
Sự quyết tâm của Hoa Kỳ để yểm trợ một người bạn đang bị các lực lượng (Bắc Việt) với vũ khí hùng mạnh tấn công, hoàn toàn vi phạm một thoả ước quốc tế (đã được ký kết) long trọng, là một điều hết sức cần thiết.
Riêng tôi, tôi quyết tâm rằng Hoa Kỳ sẽ đứng vững sau lưng Việt Nam Cộng hoà trong giờ phút tối quan trọng này. Với mục đích tôn trọng những bổn phận của Hoa Kỳ trong tình thế này, tôi đang theo dõi những biến chuyển với chủ tâm cao độ nhất và đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn của tôi về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép. Về việc cung ứng viện trợ quân sự đầy đủ cho quân đội Ngài, xin Ngài yên tâm là tôi sẽ cố tâm nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu vật chất của Ngài trên chiến trường.
Trước khi chấm dứt, tôi xin được nhắc lại một lần nữa lòng cảm phục liên tục của tôi đối với quyết tâm của Ngài và đối với sức bền bỉ và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam Cộng Hoà.
Kính thư,
(ký) Gerald R. Ford

Dù là nói tới quyết tâm ủng hộ nhưng người thảo bức thư đã khôn khéo gài vào: "(tôi) đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép”.

Ngày 23 tháng 3, Huế rơi vào tay Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trong khi ở Đà Nẵng, hàng ngàn binh lính tìm cách chạy thoát một cách thiếu tổ chức bằng đường biển khỏi thành phố đang bị bao vây và nã pháo. Trong 4 sư đoàn bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, 4 liên đoàn Biệt động quân, lữ đoàn thiết giáp, sư đoàn không quân, tổng cộng 12 vạn quân và hàng ngàn nhân viên quân sự và địa phương quân, chỉ có 16.000 rút được. Trong số gần 2 triệu dân thường dồn lại tại Đà Nẵng từ cuối tháng 3, chỉ có hơn 50.000 sơ tán được bằng đường thuỷ.Còn lại là 70.000 binh sĩ VNCH bị bắt làm tù binh.[20] Ngoài ra 33 máy bay phản lực A-37 còn nguyên vẹn cùng gần 60 máy bay khác tại căn cứ không quân Phù Cát cũng bị bỏ lại. Trong cuộc sụp đổ của Đà Nẵng, không có một trận chiến nào. Khi Quân Giải phóng tiến vào thành phố, không mấy binh sĩ VNCH đóng quanh thành phố chống cự. Các trung tâm phòng thủ còn lại dọc theo bờ biển cũng nhanh chóng tan vỡ dây chuyền: Quảng Ngãi ngày 24 tháng 3; Quy Nhơn và Nha Trang ngày 1 tháng 4; và cảng Cam Ranh ngày 3 tháng 4.

Ngày 28/3/1975, Tổng tham mưu trưởng lục quân Hoa Kỳ, tướng Frederick C. Weyand, bay sang Sài Gòn khảo sát tình hình để báo cáo cho Tổng thống Mỹ. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ là James R. Schlesinger đã chỉ đạo Weyand không được hứa gì nhiều với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vì không thể đảo ngược được tình thế, ông ta thấy tình hình của quân Việt Nam Cộng hoà đã trở nên quá tồi tệ.

Sau khi tướng Weyand về Mỹ, Bộ trưởng quốc phòng Schlesinger tuyên bố một giả thuyết giật gân, rằng “nếu cộng sản nắm chính quyền thì có thể 200.000 người Việt Nam sẽ bị tàn sát”. Sáng hôm sau, tờ báo Pacific Starsand Stripes (tờ báo của quân đội Mỹ), xuất bản ở Sài Gòn, đăng lại lời tuyên bố ấy bằng chữ đậm. Nhiều người dân ở miền Nam Việt Nam tin lời Schlesinger và hoảng sợ, bỏ nhà cửa để tìm cách chạy trốn (tuy nhiên, cuối cùng không có một cuộc tàn sát nào xảy ra, quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn một cách thuận lợi với sự hỗ trợ của nhiều người dân, nhiều người dân khác thì rất ngạc nhiên vì quân Giải phóng có thái độ mềm mỏng và kỷ luật tốt, họ không hề tiến hành cướp bóc hoặc phá phách như những gì báo chí Mỹ-VNCH tuyên truyền).

Thấy rõ sự thất bại không thể cứu vãn nổi, sau khi xem báo cáo của Weyand, Ngoại trưởng Henry Kissinger đã nguyền rủa: “Sao bọn chúng (Việt Nam Cộng hoà) không chết quách đi. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống vất vưởng hoài”. Phần lớn nhân vật trong Quốc hội và Chính phủ Mỹ phản đối việc đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam. Vấn đề cấp bách hơn lúc này là phải đưa người Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

SỰ KIỆN 30.4.1975
[Phần 4]


Các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hoà bỏ ra nước ngoài

Trong nửa đầu tháng 4, với Quân đoàn 2 của quân Giải phóng từ phía bắc tiến vào và quân đoàn 3 từ Tây Nguyên đổ xuống, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà lần lượt rơi vào tay Quân Giải phóng.

Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 Quân giải phóng định đánh chiếm huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai trên hành tiến - tuyến phòng thủ từ xa cuối cùng của Sài Gòn - nhưng Sư đoàn 18 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã kháng cự ác liệt có tổ chức để giữ vững được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Trận Xuân Lộc đã gây thương vong rất lớn cho cả hai bên.

Ngày 17 tháng 4, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 722 triệu Mỹ kim mà chính phủ Gerald Ford đề nghị. Tuy không ai tin rằng viện trợ Mỹ có thể xoay chuyển tình thế, một số chuyên viên như Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger hy vọng rằng ngân khoản đó có thể giúp Việt Nam Cộng Hoà lấy lại được đủ vị thế về quân sự để thuyết phục đối phương ngừng tiến quân và đàm phán. Hai ngày sau phán quyết này của Thượng viện, giám đốc CIA William Colby nói với tổng thống Ford: “Nam Việt Nam đang đối mặt với thất bại hoàn toàn và nhanh chóng”. Các chuyến bay di tản do CIA tổ chức đã bắt đầu đưa các cộng tác viên người Việt rời Việt Nam, và Sứ quán Mỹ đã bắt đầu đốt tài liệu mật từ trước đó. Ngày 20 tháng 4 các thủ tục pháp luật được đơn giản hoá cho việc sơ tán người Việt bắt đầu có hiệu lực. Việc sơ tán này được thực hiện tại sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, do tướng Homer Smith chỉ huy. Các máy bay C-130 và C-140 liên tục lên xuống vào ban ngày; công việc giấy tờ được tiếp tục suốt đêm. Tướng Smith đã phải dùng đến toàn bộ trung đội Thuỷ quân lục chiến số 43 của Mỹ để giữ trật tự tại Tân Sơn Nhất.

Ngày 20 tháng 4, lực lượng phòng thủ Xuân Lộc của Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị buộc phải rút lui. Khi Xuân Lộc thất thủ, không còn gì có thể cứu vãn chế độ Sài Gòn nữa. Việc bỏ Xuân Lộc khiến Sài Gòn gần như bỏ ngỏ, không còn phòng thủ từ xa nữa; Quân giải phóng áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi. Cùng ngày 20 tháng 4, Đại sứ Mỹ Martin đến phủ Tổng thống thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu từ chức, bởi phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã liên tục tuyên bố sẽ không đàm phán với tổng thống Thiệu.

Do sức ép lớn từ các tướng dưới quyền như Trần Văn Đôn, Cao Văn Viên, thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, bộ trưởng kinh tế Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối ngày 21 tháng 4 năm 1975. Khi từ chức, Nguyễn Văn Thiệu đã xuất hiện trên truyền hình phát biểu suốt 3 giờ đồng hồ để trách móc việc thoái thác trách nhiệm của chính phủ Mỹ. Ông Thiệu đổ lỗi thất bại là do người Mỹ bằng những lời lẽ nửa tức giận, nửa thách thức: “Mỹ đánh không lại Cộng sản nên bỏ mặc Việt Nam Cộng hoà đánh một mình thì làm sao ăn nổi. Có giỏi thì Mỹ vô đây lần nữa…”. Ông Thiệu lên án thẳng Hoa Kỳ là “một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo.”

Cũng trong bài diễn văn từ chức, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mạnh mẽ rằng ông ta sẽ không bỏ chạy mà sẽ tiếp tục cầm súng chiến đấu: “Dù mất một tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội vẫn còn trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kề bên anh em chiến sĩ...”. Tuy nhiên, những tuyên bố đó đã không được Nguyễn Văn Thiệu thực hiện. Sau khi từ chức, ông Thiệu về nhà, đề nghị Mỹ thu xếp một chuyến bay để đưa ông ta và gia đình ra nước ngoài. Chỉ 4 ngày sau, Nguyễn Văn Thiệu đã bí mật lên máy bay thoát khỏi Sài Gòn vào đêm ngày 25/4/1975. Cuộc ra đi của Nguyễn Văn Thiệu diễn ra bí mật trong đêm tối, dưới sự sắp đặt của Thomas Polgar - trưởng CIA ở Sài Gòn Để cho việc ra đi danh chính ngôn thuận, Trần Văn Hương ký quyết định cử Nguyễn Văn Thiệu là đặc sứ của Việt Nam Cộng hoà đến Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (dù thực ra Tưởng Giới Thạch đã chết từ trước đó 3 tuần).

Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam không chấp nhận nói chuyện với ông. Thời điểm 21 tháng 4 khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức có ý nghĩa quyết định. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói rằng “chìa khoá là ngày 21 tháng 4, khi Thiệu từ chức. Khi đó tôi biết rằng chúng tôi phải tấn công ngay lập tức, cướp lấy thời cơ, tất cả chúng tôi cũng đồng ý như vậy.” Đêm hôm đó, tại sở chỉ huy tiền phương tại Lộc Ninh, cách Sài Gòn 75 dặm, tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy các cánh quân Giải phóng tiến về thành phố, ra lệnh bắt đầu cuộc tổng tiến công.

Để đảm bảo áp đảo chắc thắng, Quân Giải Phóng đưa thêm cả Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng tàu biển và hàng không vào chiến trường cho trận cuối cùng có tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài Gòn tương đương 20 sư đoàn, tổ chức thành 5 quân đoàn.

Trong nỗ lực cuối cùng, tướng Nguyễn Cao Kỳ phát biểu trước khoảng 6 nghìn người Thiên Chúa giáo hữu khuynh vào xế trưa ngày 25/4 về chuyện phòng thủ Sài Gòn, rằng “ông ta sẽ ở lại Sài Gòn và chiến đấu cho tới chết, những kẻ chạy theo Mỹ là hèn nhát”. Phụ nữ và trẻ con sẽ được gửi đi đảo Phú Quốc, còn người dân Sài Gòn “sẽ ở lại chiến đấu”. Thậm chí Nguyễn Cao Kỳ còn tuyên bố rằng: Sài Gòn “sẽ trở thành một Leningrad thứ hai” (Leningrad là nơi quân dân Liên Xô đã cầm cự 900 ngày trong vòng vây hãm của kẻ thù). Việc phân phối vũ khí sẽ được ông ta cho làm ngay, mọi người nên ở lại Sài Gòn để chiến đấu. Nhưng tất cả chỉ là những lời nói suông và chẳng được thực hiện một chút nào. Sau khi phát biểu xong, Nguyễn Cao Kỳ bỏ vào sân bay Tân Sơn Nhất để sắp xếp cho các máy bay di tản sang Thái Lan và đồng thời cũng bí mật ra lệnh cho một trực thăng đến đón mình. Sáng ngày 29/4/1975, Nguyễn Cao Kỳ đã dùng trực thăng chạy ra ngoại quốc, bỏ lại sau lưng những lời thề hứa chiến đấu quyết tử mà ông từng hùng hồn tuyên bố trước đó bốn ngày.[33]
WIKIPEDIA
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

SỰ KIỆN 30.4.1975
[Phần 5]


CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH MỞ MÀN


Lúc 17 giờ ngày 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng với 5 quân đoàn ở 5 hướng tấn công: hướng Bắc với Quân đoàn 1, hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3, hướng Tây và Tây Nam với Đoàn 232, hướng Đông với Quân đoàn 4 và hướng đông nam với Quân đoàn 2.

Ngày 27 tháng 4, sân bay quân sự Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn chịu 3 loạt hoả tiễn của Quân giải phóng, lần đầu tiên trong hơn 40 tháng[34] làm nhiều người chết và bị thương, nhà cửa đổ nát. Hai lính Mỹ thiệt mạng do hoả tiễn, là những lính thiệt mạng cuối cùng của Mỹ trong cuộc chiến.

Tại mặt phía Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28 tháng 4, 1975, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô của chính quyền Sài Gòn không còn quân trù bị để phòng thủ. Họ buộc phải rút một liên đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân về quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Quân giải phóng tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã bị chiếm từ rạng sáng ngày 29 tháng 4, 1975.

Các đơn vị nhảy dù phòng ngự tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần Trung tâm Huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lương Bà Quẹo, khu Bình Thới - Ngã ba Bà Quẹo, khu Bảy Hiền - Lăng Cha Cả đã cố gắng ngăn chặn đối phương. Một chiến đoàn thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt cách Nhảy dù tại vòng đai Bộ Tổng Tham mưu do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân và từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa và đánh bật đối phương ra khỏi trận địa.

Tuy nhiên các nỗ lực kháng cự lẻ tẻ này không làm chậm quân Giải phóng được bao nhiêu. Đến cuối ngày 28 tháng 4, tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng ở mọi hướng, quân Giải phóng có thể tiến ngay vào thành phố nhưng họ dừng lại để có thêm thời gian cho giải pháp đàm phán. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống trong ngày 28 tháng 4 năm 1975. Ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.

4 giờ sáng ngày 29/4 tức 16 giờ theo giờ Washington, hoả tiễn và đạn pháo Quân giải phóng đã nã tới tấp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phá huỷ nhiều phi cơ trên mặt đất, vô hiệu hoá phi trường này và gây cho số người Việt đang tụ tập ở đấy sợ hãi trốn chạy, một sự hỗn loạn thực sự.[36]

Tổng thống Ford triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia họp khẩn cấp lúc 19h 30, ông đã yêu cầu Đại sứ Graham Martin phải di tản ngay những người Mỹ còn lại và cả những người Việt Nam càng nhiều càng tốt.

Ở Sài Gòn và phần còn lại của Việt Nam Cộng Hoà, hàng triệu người dân Việt Nam bắt đầu tự đặt cho mình 1 câu hỏi mấu chốt: họ có thể ở lại sống dưới chế độ mới hay là tự tìm cách bỏ ra nước ngoài bằng đường biển.

Trong các ngày 28, 29 tháng 4 từ các hàng không mẫu hạm của Hạm đội số 7 ngoài khơi Thuỷ quân lục chiến Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác chặt chẽ với họ, trong đó có chiến dịch Babylift. Cuộc di tản đã diễn ra trong hỗn loạn vì rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng náo loạn. Lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ đã phải cố gắng mới duy trì được trật tự. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người Việt để ưu tiên người Mỹ vì số lượng phương tiện có hạn. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹ và Việt như một kỷ niệm rất buồn. Đại sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi. Trong số 120.000 người Việt và 20.000 người Mỹ được di tản trong đợt này, không có một người nào bị thiệt mạng do hoạt động quân sự của quân Giải phóng.

Quân giải phóng dừng lại bên ngoài thành phố một ngày để cho người Mỹ di tản hết mới vào. Theo lời tướng Trần Văn Trà, cánh quân của ông đã đợi vì mục đích chính là để giải phóng Sài Gòn chứ không phải để giết người Mỹ và sỉ nhục họ. Ở một cánh quân khác, theo hồi ký của tướng Hoàng Cầm, cánh quân của Quân đoàn 4 mà ông chỉ huy gặp rất nhiều kháng cự trên đường tiến về Sài Gòn và chỉ đánh được đến nơi vừa kịp sáng ngày 30 tháng 4.

Theo hồi ký các tướng tá của quân lực Việt Nam Cộng hoà như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, và cựu dân biểu Lý Quý Chung, thì sáng ngày 28/4, tướng tình báo Pháp Francois Vanussème đã tới gặp tổng thống Dương Văn Minh và đề nghị Việt Nam Cộng hoà kêu gọi Trung Quốc đem quân can thiệp để cứu quân lực Việt Nam Cộng hoà đang trong cơn nguy kịch. Một nhân viên ngoại giao Trung Quốc đề nghị quân lực Việt Nam Cộng hoà hãy cố thủ, án ngữ Vùng 4 Chiến thuật, hứa hẹn Trung Quốc sẽ đem quân đánh vào biên giới miền Bắc Việt Nam để giải vây. Dương Văn Minh vốn đã được Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam thông qua em trai là Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, đại tá Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) và gia đình đã thuyết phục từ trước, đã từ chối và nói:

“Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung Quốc”  


Theo tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hoà, thì Nguyễn Cao Kỳ còn tính làm một cuộc đảo chính chính phủ Dương Văn Minh mới thành lập để nắm quyền và ra lệnh cố thủ. Người Mỹ biết chuyện đó và giám đốc CIA ở Sài Gòn lúc đó là Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được manh động. Nguyễn Cao Kỳ nghe vậy thì dẹp bỏ kế hoạch vì ông ta hiểu rằng: nếu chống lại sách lược của Mỹ thì sẽ mang hoạ vào thân.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

SỰ KIỆN 30.4.1975

[Phần 6]
NGÀY 30 THÁNG 4


Ngày 29 tháng 4, sau sự giận dữ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Schlesiger và cố vấn Henry Kissinger ở Washington vì sự nấn ná của Đại sứ Graham Martin ở Sài Gòn để cố tạo ra vẻ “người Mỹ đàng hoàng ra đi”, Tổng thống Mỹ Gerald Ford ra lệnh dứt khoát: “Chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 30 phút, giờ địa phương, sáng 30 tháng 4”. Tuy nhiên, lệnh vẫn không thi hành kịp do sự chần chừ của Martin, “cuộc tháo chạy” đã diễn ra cho tới khi chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn vào lúc 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4.

8 giờ sáng 30 tháng 4 Tổng thống Dương Văn Minh và Bộ tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hoà hạ lệnh đơn phương ngừng chiến sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn giao chính quyền. Ông tuyên bố

“Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng vì chúng tôi ở đây chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào.”.

Theo phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, lệnh này trên thực tế cũng không còn tác dụng do phần lớn quân lực Việt Nam Cộng Hoà lúc đó đã tan rã, phần nhiều ra hàng hoặc vứt bỏ vũ khí về với gia đình. Do đó khi Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn hầu hết chỉ gặp những ổ kháng cự nhỏ lẻ, thiếu tổ chức. Việc đại uý Phạm Xuân Thệ yêu cầu Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Dương Văn Minh đầu hàng thay vì phương án thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần nhằm buộc Quân lực Việt Nam Cộng hoà trên khắp chiến trường buông súng, tránh thương vong không cần thiết cho cả hai bên lẫn dân thường.

Theo Tổng trưởng Thương mại - Kinh tế Việt Nam Cộng hoà, Nguyễn Văn Diệp, trước khi Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn, tướng tình báo Pháp là Francois Vanuxem của Pháp (lúc đó mới đeo hàm Đại tá) đến gặp các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền - Chủ tịch Thượng viện Sài Gòn và Vũ Văn Mẫu vào sáng 30/4 để đề nghị chính quyền Việt Nam Cộng hoà tiến hành hoãn binh, không đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam mà tiếp tục đưa ra yêu sách thành lập chính phủ liên hiệp. Nếu chính phủ liên hiệp được thành lập, Pháp sẽ giúp chính quyền Việt Nam Cộng hoà nhận được sự bảo trợ của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.

Tuy nhiên, Tổng thống Dương Văn Minh ngay lập tức từ chối do không muốn thêm một lần làm tay sai cho nước ngoài. Động cơ của Pháp lúc đó là muốn chính quyền Sài Gòn ngừng bắn để bảo vệ các tài sản của Pháp tại Sài Gòn tránh khỏi sự tàn phá của việc giao tranh, việc bảo vệ chính quyền Sài Gòn chính là bảo vệ các lợi ích của Pháp. Pháp muốn thiết lập lại ảnh hưởng của họ trên thuộc địa cũ. Trong Bộ Ngoại giao Pháp và các cố vấn ở Phủ Tổng thống có hai xu hướng giải quyết đối với vấn đề Sài Gòn. Một thì ra sức hoạt động cho một sự thu xếp ngừng bắn, một thì chủ trương nên tính chuyện làm ăn với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Thậm chí, Quân Giải phóng bắt đầu chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, Pháp đã cử Đại sứ Pháp tại Hà Nội Philippe Richer tới gặp Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phạm Văn Đồng để bàn cách lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu để dựng lên một chính quyền có thể nói chuyện được với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Tổng thống Dương Văn Minh đã nhìn ra ý đồ của Pháp và không muốn Trung Quốc can thiệp vào quá trình tái thống nhất Việt Nam nên đã từ chối, chấp nhận đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam để nhanh chóng có hoà bình và thống nhất.

Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29/4/1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu...

9 giờ sáng cùng ngày, đúng 3 tiếng đồng hồ sau khi chiếc trực thăng cuối cùng của Mỹ rời nóc toà Đại sứ quán, tướng Trần Văn Trà lệnh cho quân Giải Phóng tiến vào Sài Gòn từ năm hướng. Họ đã tiến nhanh mà không gặp một sự kháng cự có tổ chức nào.

Đại đội 9, Lữ đoàn 273, Quân đoàn 3 gồm 4 xe tăng T-54 nhận nhiệm vụ thần tốc tiến về trung tâm Sài Gòn. Dọc đường, 4 xe tăng gặp nhiều chốt chặn. Sau 30 phút, 4 chiếc xe tăng của đại đội 9 đã tiêu diệt 12 xe tăng - thiết giáp của địch, 12 chiếc khác ra đầu hàng, phía quân Giải phóng bị bắn cháy 1 xe tăng. Sau khi đánh bại quân địch tại các trạm chốt ở khu vực Cầu Sài Gòn, Hàng Xanh, cầu Thị Nghè, 2 xe tăng số hiệu 843 và 390 tiến về Dinh Độc Lập. Xe 843 đi trước do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy.

10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, xe tăng mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập và bị kẹt tại đó. Bùi Quang Thận - Đại đội trưởng, chỉ huy xe 843 - nhảy xuống xe, cầm lá cờ chạy bộ vào. Xe tăng 390 dưới quyền chỉ huy của Vũ Đăng Toàn húc tung cánh cửa chính của dinh.

11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung uý Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hoà trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên.

Cùng lúc này, đại uý trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và biệt động thành Sài Gòn tiến vào dinh Độc Lập bắt Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà là ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn. Dương Văn Minh nói: “Tôi chờ các ông tới để bàn giao chính quyền”, Phạm Xuân Thệ trả lời: “Các ông đã không còn gì để bàn giao. Thay mặt Cách mạng, tôi đề nghị ông ra lệnh đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết”. Dương Văn Minh đồng ý.

Khoảng 12 giờ trưa, đại uý Phạm Xuân Thệ đưa tổng thống Dương Văn Minh, thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe Jeep để đến đài phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở trung tá chính uỷ lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Borries Gallasch (người Đức, báo Der Spiegel) và Hà Huy Đỉnh. Tại đài phát thanh, tổng thống Dương Văn Minh thay mặt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Thay mặt các đơn vị Quân giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Chiến tranh kết thúc.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

SỰ KIỆN 30.4.1975
[Phần 7]
NGÀY 30 THÁNG 4 -[2]


Ông Nguyễn Văn Tàu (sinh năm 1928 ở Bà Rịa - Vũng Tàu), biệt danh Tư Cang, nguyên Chính uỷ Lữ đoàn Biệt động 316, người trực tiếp chiếm giữ, bảo vệ cầu Rạch Chiếc để xe tăng tiến vào giải phóng Sài Gòn năm 1975 kể lại: “Điều kỳ diệu là thành phố còn nguyên vẹn, điện nước đầy đủ. Theo tôi có được điều ấy là do nhân dân. Lòng dân hướng về cách mạng, các đoàn thể được tổ chức chặt chẽ. Khi các cánh quân tiến vào thì quần chúng đã đứng lên diệt ác ôn, giải phóng phường, treo cờ cách mạng. Đó là sự chuẩn bị, gây dựng quần chúng từ mấy chục năm. Phong trào quần chúng ví như thùng thuốc nổ, khi có ngòi nổ đủ sức công phá thì sức mạnh quần chúng bung ra không gì cản nổi. Quân đội như chúng tôi chỉ đóng vai trò ngòi nổ đủ mạnh”.

Trước giờ cáo chung, chính quyền Sài Gòn còn tuyên truyền là quân giải phóng sẽ “dìm Sài Gòn trong biển máu”. Nhưng cuối cùng thì không có cuộc tắm máu nào như thế cả. Ngược lại, những binh sĩ đã hạ vũ khí được tự do đi lại trên đường phố mà không bị truy sát. Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho thấy nhiều người dân đã đón chào và dẫn đường cho quân giải phóng đánh chiếm các mục tiêu trong trưa 30/4/1975 tại Sài Gòn.

Sau khi tin đầu hàng phát đi từ Sài Gòn có năm vị tướng của Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã tự sát vào ngày 30 Tháng Tư, là Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ và Trần Văn Hai.

Theo Jean Louis Margolin, tác giả này xác nhận là không có giết chóc trong ngày quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn nhưng ông đã đưa ra con số 200 ngàn tù binh bị giam giữ theo xác nhận của Phạm Văn Đồng. Ngược lại, một số quan chức Việt Nam Cộng hoà đã cộng tác với chính phủ Cách mạng lâm thời và được giữ chức vụ trong chính phủ mới như Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh... Khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, nhiều cựu binh sĩ VNCH đã được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam gọi tái ngũ để giúp vận hành các loại vũ khí thu được của Mỹ.

Tom Polgar, nhân viên cao cấp toà Đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản, đã ghi lại cảm tưởng của mình vào ngày hôm ấy:

“Đó là một cuộc chiến tranh (chiến tranh Việt Nam) lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử”.

Trong trưa ngày 30/04, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã liên lạc với quân Giải phóng và tuyên bố trên Đài Phát thanh Sài Gòn sau lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh:

“Hôm nay là ngày mơ ước của tất cả chúng ta... Ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam này... Những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả kết quả đó... Hôm nay tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và Chính phủ Cách mạng lâm thời xem những kẻ ra đi là những kẻ phản bội đất nước...Chính phủ Cách mạng lâm thời đến đây với thái độ hoà giải, tốt đẹp. Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi mà ra đi cả. Đây là cơ hội duy nhất và đẹp đẽ nhất để đất nước Việt Nam được thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước suốt mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu và cũng như những người chưa quen của tôi xin ở lại và kết hợp chặt chẽ với Uỷ ban Cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng miền Nam Việt Nam này...”
          
Trước đó, chính quyền Sài Gòn đã tuyên truyền về một cuộc tắm máu của Việt Cộng khi Sài Gòn thất thủ. Do đó, trong sáng 30/04, rất ít người dám ra đường mà chỉ ở trong nhà nghe radio. Tuy nhiên, theo quan sát của các nhà báo quốc tế, tại Sài Gòn và nhiều thành phố khác của miền Nam Việt Nam đã không hề có bất kỳ một cuộc tắm máu nào xảy ra nhưng những gì bộ máy tuyên truyền của chính quyền Việt Nam Cộng hoà cảnh báo. Hoàn toàn không có việc bắn giết, cướp bóc, bạo lực.

Hoạt động nổi dậy dân sự

Song song với các hoạt động quân sự của Quân Giải phóng là hoạt động nổi dậy giành chính quyền của quần chúng nhân dân. Phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã có những hoạt động chuẩn bị để quần chúng nổi dậy ngay từ tháng 3/1975, trong đó xác định lực lượng thanh niên là nòng cốt. Hoạt động nổi dậy sẽ diễn ra ở 05 khu vực, bao gồm:

Khu vực 1 gồm: Ngã Bảy, Bàn Cờ, Vườn Chuối (quận 3) do lực lượng sinh viên học sinh các trường Kỹ thuật Cao Thắng, Gia Long và cơ sở sĩ quan Việt Nam Cộng hoà do Quân Giải phóng đã thực hiện binh vận thành công đã trở thành cở sở cách mạng.

Khu vực 2 gồm: Khánh Hội - Xóm Chiếu thuộc quận 4 và một phần quận Nhì do lực lượng các trường đại học Y, Nha, Dược và Nông súc sản phụ trách.

Khu vực 3 gồm Cầu Kiệu - Võ Dung Nghiệp, ngã tư Phú Nhuận (nay là Phan Đình Phùng) do Đoàn Công tác xã hội sinh viên học sinh Sài Gòn phụ trách.

Khu vực 4 gồm Cầu Bông - chợ Bà Chiểu (nay là đường Đinh Tiên Hoàng) do các cơ sở của các trường nữ, khối trung học tư thục phụ trách.

Khu vực 5 gồm vùng ven Tân Sơn, Tân Phú, Bà Điểm thuộc quận Tân Bình do là nơi quy tụ nhiều đồng bào công giáo nên thanh niên công giáo cùng với các sở, cha xứ... phụ trách.

Để chuẩn bị cho nổi dậy thành công, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã lập các chốt phòng vệ để ngăn cản lực lượng Cảnh sát Việt Nam Cộng hoà biết tin. Đặc biệt, trước khi nổi dậy, một số lượng lớn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã được may cùng với nhiều khẩu hiệu, trong đó nội dung hướng tới là lực lượng Việt Nam Cộng hoà cần đầu hàng ngay để hưởng khoan hồng, Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ bảo đảm đầy đủ tính mạng và tài sản của người dân. Ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, không còn tiếng súng thì người dân bắt đầu đổ ra đường. Lúc này, lực lượng thanh niên tự vệ Giải phóng nhanh chóng giúp Quân Giải phóng tiếp quản các cơ sở chính quyền của Việt Nam Cộng hoà và ổn định trật tự. Bên cạnh đó, người dân Sài Gòn cũng bắt đầu đổ ra đường để chào đón, cầm cờ và dẫn đường cho Quân Giải phóng tiến về Dinh Độc Lập.

Chiến dịch Gió lốc
Chiến dịch Gió lốc là chiến dịch của không quân Mỹ nhằm di tản bằng trực thăng người Mỹ và các quan chức, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hoà ra khỏi Sài Gòn, miền Nam Việt Nam, từ 29 đến 30 tháng 4 năm 1975, những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Hơn 50.000 người đã di tản từ nhiều điểm ở Sài Gòn.

Có 50.493 người (trong đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam) được di tản từ Tân Sơn Nhất. Các phi công đã bay tổng cộng 1.054 giờ và 682 chuyến bay trong suốt chiến dịch. Đây là chiến dịch cuối cùng của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

SỰ KIỆN 30.4.1975
[KẾT]
NGÀY 30 THÁNG 4 -[3]


Kết quả
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 có vai trò rất quan trọng và lâu dài trong lịch sử Việt Nam với kết quả:

Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương, một quá trình chiến tranh hao người tốn của kéo dài 30 năm với những thương vong, tổn thất rất lớn: khoảng 400.000 quân nhân Mỹ và các đồng minh của Mỹ đã chết, khoảng 1,5 triệu lính khác bị thương (trong đó riêng quân Mỹ có 58.191 chết và 304.000 bị thương). Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có gần 1 triệu quân nhân chết (trong đó 240.000 người đến nay vẫn còn trong diện mất tích), 600.000 quân nhân bị thương. Gần 2 triệu dân thường Việt Nam bị chết, hơn 2 triệu dân thường bị thương tật, khoảng 2 triệu người bị phơi nhiễm các loại hoá chất độc hại (ví dụ như chất độc da cam).

Kết thúc sự tồn tại của chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Sự kiện này đã đánh dấu sự thất bại chung cuộc của phía Hoa Kỳ, đồng minh và Việt Nam Cộng hoà trong cuộc chiến tại Việt Nam; chấm dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp trực tiếp bằng quân sự vào Việt Nam trong suốt hơn 100 năm (từ 1858 tới 1975).

Là điều kiện để thống nhất về mặt nhà nước của Việt Nam. Thực hiện quyết định của Hội nghị Hiệp thương chính trị của đại biểu miền Bắc và miền Nam họp ở Sài Gòn tháng 11 năm 1975, ngày 25 tháng 4 năm 1976 toàn quốc tiến hành tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội thống nhất họp tại Hà Nội từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976 đã quyết định tên nước là: Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và đã bầu các thành viên của cơ quan chính quyền nhà nước. Việt Nam đã bước ra khỏi chiến tranh và thực sự trở thành một quốc gia thống nhất.

Trên phương diện quốc tế, sự chấm dứt Chiến tranh Việt Nam với thắng lợi của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đánh dấu sự thắng thế của phe Xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong thập niên 1970 và kết quả là một loạt các phong trào cánh tả thắng thế hoặc lên cầm quyền ở một số nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Kết quả của cuộc chiến đã làm đảo lộn chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ từ chỗ chủ động tấn công phe Xã hội chủ nghĩa sang thế bị động. Điều này kéo dài tới khi Ronald Reagan lên cầm quyền và sự dè dặt trong việc can thiệp quân sự một cách ồ ạt, quy mô lớn chỉ chính thức chấm dứt sau Chiến tranh vùng Vịnh.

Hàng trăm nghìn binh lính thuộc chế độ Việt Nam Cộng hoà phải học tập cải tạo trong các trại cải tạo với thời hạn khác nhau từ vài ngày (đối với những viên chức cấp thấp, không có ảnh hưởng trong xã hội, không có tư tưởng chống Cộng) đến 10 năm (đối với những viên chức, sỹ quan cấp cao và có tư tưởng chống Cộng mạnh mẽ). Một trong các mục đích của học tập cải tạo là thể hiện Chính sách khoan hồng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam khi họ không đưa các cựu binh đối phương ra xét xử các tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người.[52] Đồng thời cũng để chính quyền mới tạm thời ngăn chặn sự chống phá của các thành viên cực đoan của chế độ cũ nhằm giữ ổn định xã hội miền Nam thời kỳ hậu chiến.[53] Sau thời gian đi học tập cải tạo, những người này được phục hồi đầy đủ quyền công dân. Các cơ quan công quyền có trách nhiệm tạo điều kiện để người hoàn thành học tập, cải tạo về được lao động sản xuất để có cuộc sống ổn định lâu dài.
WIKIPEDIA
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

30.4.1975
CHUYỆN 16 TẤN VÀNG
CỦA VIỆT NAM CỘNG HOÀ

**********************
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
CỦA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH


Cuối tháng 4-1975, lẫn trong các đoàn xe tăng, bộ binh giải phóng đổ về Sài Gòn có những người lặng lẽ làm nhiệm vụ đặc biệt.

Trung tuần tháng 4-1975, sau một tuần giao tranh khốc liệt với quân giải phóng do tướng Hoàng Cầm chỉ huy, phòng tuyến Xuân Lộc - hy vọng cuối cùng của quân đội VNCH - đã chuyển sang thế chiến bại.

Tuy nhiên, cùng thời điểm đó ở Sài Gòn, các hoạt động thường nhật của Ngân hàng Quốc gia, đầu não của nền tài chính miền Nam, vẫn bình thường.

Phòng vệ đặc biệt
Buổi chiều hết giờ làm việc, chiếc cổng sắt nặng nề của Ngân hàng Quốc gia ở số 17 Bến Chương Dương đóng chặt lại, tách biệt hẳn với đường phố ồn ào bên ngoài. Vài nhân viên nghiệp vụ không ra về mà ở lại phía trong cánh cửa, tiếp tục vào phiên trực.

Từ khi chiến cuộc diễn biến ngày càng khốc liệt, theo chủ trương của chính quyền Sài Gòn, tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia đã cho thành lập tổ tự vệ riêng của các viên chức nghiệp vụ ngân hàng.

Từ cấp chánh sự vụ trở xuống, không ai được phép vắng mặt trách nhiệm “nhân dân tự vệ”. Thay phiên nhau vài đêm mỗi tháng, họ cũng được phát vài khẩu carbine nhưng chưa bao giờ phải nổ súng.

Cùng gác với họ còn có hai lực lượng chuyên trách khác. Phía ngoài cổng là vành bảo vệ của đội cảnh sát dã chiến.

Từ cuộc chiến đường phố Tết Mậu Thân năm 1968, điểm phòng vệ này còn thường xuyên xuất hiện những chiếc thiết giáp. Nó đậu ở sát bức tường hông toà nhà, khẩu trọng liên chĩa thẳng ra đường sẵn sàng chiến đấu.

Riêng bên trong, ngoài đội “tự vệ” còn có đội bảo vệ đặc biệt của thiếu tá Sang. Ông ta chỉ huy đội cảnh sát phòng vệ lớp thứ hai bên trong toà nhà.

Chiến cuộc 20 năm gần đến hồi kết ở Sài Gòn, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rồi ông Trần Văn Hương, Dương Văn Minh lên thay đều quan tâm bảo vệ toà nhà đặc biệt này.

Họ rất sợ Ngân hàng Quốc gia có vấn đề gì, ảnh hưởng đến cả nền tài chính lẫn tâm lý người dân đô thành, mà đặc biệt là giới thương nhân.

Dưới tầng hầm, kho vàng 16 tấn dự trữ quốc gia vẫn còn nguyên vẹn ở vị trí cũ sau khi kế hoạch chuyển ra nước ngoài bị dừng lại.

Bên cạnh những hộp vàng thoi, các thùng tiền mặt, gồm tất cả tờ 500, 1.000 đồng chuẩn bị phát hành vẫn nằm nguyên dưới lớp niêm phong.

“Huyết mạch” kinh tế miền Nam vẫn hoạt động cho đến gần giờ cuối cùng của Việt Nam cộng hoà, khi những chiếc xe tăng T54 quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập.

“Chứng nhân” 3 thế kỷ
Trong lịch sử, toà nhà Ngân hàng Quốc gia do người Pháp xây dựng này là chi nhánh chính của Ngân hàng Đông Dương ở Sài Gòn.

Ngân hàng này đầu tiên ra đời ở Paris vào tháng 1-1875. Chỉ bốn tháng sau, nó đã hiện diện ở thuộc địa Nam Kỳ, số 22 bến Arroyo Chinois, Cochinchine (số 17 Bến Chương Dương hiện nay).

Đây là một trong những công trình được xây dựng bề thế, kiên cố nhất Sài Gòn lúc bấy giờ gồm năm tầng, trong đó có một tầng hầm được sử dụng làm kho cất vàng dự trữ quốc gia và tiền tệ chưa phát hành.

Những bức tường bằng đá dày bảo đảm chịu được mọi loại súng cầm tay của bộ binh thời đó.

Tầng trệt của toà nhà là văn phòng thống đốc, Nha điện toán, Nha ngân quỹ, phòng giao dịch với các ngân hàng thương mại. Các tầng trên là phòng làm việc của các nha khác như Nha kiểm soát, Nha thanh tra, Nha hối đoái...

Ngày 4-6-1954, Pháp ký hiệp định trao trả độc lập cho Việt Nam.

Bản hiệp ước do thủ tướng Bửu Lộc của chính phủ Bảo Đại và thủ tướng Pháp Joseph Laniel ký ghi nội dung điều khoản 3: Pháp cam kết trao trả lại cho Chính phủ Việt Nam các thẩm quyền và công vụ mà Pháp còn phụ trách.

Trong đó, họ trao trả lại quyền tự chủ tiền tệ, tức giải tán Viện phát hành tiền tệ Đông Dương của mình để trao trả lại quyền phát hành tiền cho Việt Nam.

Sáu tháng sau, ngày 21-12-1954, quốc trưởng Bảo Đại ký dụ số 18 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Viện hối đoái riêng.

Tuy nhiên trong thời gian đầu, tiền Việt Nam vẫn nằm trong khu vực đồng franc có tỉ giá 1 đồng Việt bằng 10 đồng franc.

Ngày 1-1-1955 tại số 17 Bến Chương Dương, Sài Gòn, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam chính thức hoạt động. Đồng bạc Đông Dương (piastres) được thay thế bằng đồng bạc Việt Nam.

Khoảng một năm sau, ngày 17-12-1955, tiền Việt chính thức tách ra khỏi các thoả ước tiền tệ với Pháp trước đó bằng việc thủ tướng Ngô Đình Diệm ký dụ số 15, bắt buộc tất cả hoạt động tiền tệ đều nằm dưới quyền kiểm soát của Ngân hàng Quốc gia.

Không còn nằm trong khu vực tiền Pháp, đồng Việt Nam được ấn định tỉ giá theo đôla Mỹ, thời điểm này 35 đồng bằng 1 USD, 98 đồng bằng 1 bảng Anh và 0,1 đồng bằng 1 franc.

Thống đốc, người có quyền lực cao nhất ở Ngân hàng Quốc gia đầu tiên là ông Dương Tấn Tài, cựu bộ trưởng tài chính của chính phủ Bửu Lộc trước đó.

Thống đốc Tài được đánh giá là người cực kỳ liêm chính. Tuy nhiên, ông không tại vị lâu ở ngân hàng đầu não vì cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm làm cố vấn phủ tổng thống. Người thay chức vụ cũ của ông là tiến sĩ kinh tế Vũ Quốc Thúc.

Suốt 20 năm chiến cuộc kể từ khi đất nước bị chia cắt ở vĩ tuyến 17, Ngân hàng Quốc gia trở thành “chứng nhân” bao cuộc thăng trầm, biến loạn của Sài Gòn. Những thống đốc đầu tiên như tiến sĩ Vũ Quốc Thúc có công đưa nền tài chính miền Nam thoát khỏi cái bóng đô hộ 100 năm của người Pháp.

Nguyên bộ trưởng Trần Hữu Phương lên thay. Kế tiếp ông là những gương mặt rất giỏi như tiến sĩ kinh tế Harvard Nguyễn Xuân Oánh làm thống đốc năm 1964 trong nội các Nguyễn Cao Kỳ.

Sau đó là Nguyễn Hữu Hanh, Nguyễn Văn Dõng. Và thống đốc trẻ tuổi cuối cùng là Lê Quang Uyển ngồi vào chiếc ghế thống đốc năm 36 tuổi, từ năm 1970 cho đến ngày quân giải phóng vào cắm lá cờ mới lên toà nhà này.
------------------------------
Trong cuốn sách Từ toà Bạch Ốc đến dinh Độc Lập, tổng trưởng Nguyễn Tiến Hưng cho rằng Ngân hàng Quốc gia sẽ là mục tiêu sau khi Sài Gòn thất thủ.

Trong cuộc họp nội các ngày 1-4, tổng trưởng Hưng đề xuất bán vàng dự trữ của Ngân hàng Quốc gia để mua đạn dược trong tình hình không thể hi vọng quân viện từ Mỹ.

Cuối cùng, diễn biến chiến sự quá nhanh, việc mua đạn dược không kịp, việc chuyển vàng ra nước ngoài cũng bất thành, trong đó có cả lý do bất đồng của một số nhân vật trong nội các như phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo (Tuổi Trẻ đã đăng chi tiết năm 2006 trong hồ sơ “Câu chuyện 16 tấn vàng ngày 30-4”).

“Có lẽ chính nhờ những điều này mà hầm dự trữ của Ngân hàng Quốc gia vẫn không có gì xáo trộn trong tháng cuối cùng của chính quyền Sài Gòn. Chúng tôi vẫn đến sở làm bình thường. Bản phúc trình thường niên năm 1974 vẫn được trình lên” - ông Huỳnh Bửu Sơn, một viên chức của Ngân hàng Quốc gia cũ, kể lại.

TUỔI TRẺ
https://tuoitre.vn/nhung-...quoc-gia-vnch-1305597.htm

https://static.tuoitre.vn/tto/i/s626/2017/04/28/b2a48dfa.jpg
Ngân hàng Quốc gia VNCH - Ảnh: tư liệu

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

30.4.1975
với
TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH


https://1.bp.blogspot.com/-kiJuVf1-fZ0/YVmCwf_T8tI/AAAAAAACRng/m_3tPl1UkI8JlQ2IXjhojwgJYWNVU9b9gCLcBGAsYHQ/w608-h640/0.91.PNG


Nhà báo Pháp Paul Dreyfus là một trong 25 nhà báo Pháp có mặt tại Sài Gòn vào giờ phút cuối cùng của tháng Tư năm 1975.
Tổng thống Dương Văn Minh (đeo kính, cúi đầu) bị bộ đội cộng sản đưa đi
Trong cuốn sách của mình với tựa đề “và Sài Gòn sụp đổ” (Et Saigon tomba - Collection Témoignages 1975), tác giả đánh giá sự kiện Sài Gòn thất thủ là sự kiện ‘quan trọng nhất’ với hệ thống cộng sản châu Á sau cuộc tiến vào Bắc Kinh năm 1949 của Mao.

Ông thuật lại những cảm nhận cá nhân qua những lần tiếp xúc với đại tướng Dương văn Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam, theo giới thiệu sau qua lời dịch của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris:
Theo Paul Dreyfus, tướng Minh là “một người minh mẫn và nắm vững tình hình”.
Những tâm sự của tướng Minh thời điểm đó mang lại một cách đánh giá đa chiều về nhân vật gây nhiều tranh cãi.
“Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Nhà báo Pháp viết trong cuốn sách:
“Tôi gặp tướng Minh vào ngày thứ hai, trong một villa rộng lớn, yên bình, không bày biện xa hoa, bao bọc xung quanh bởi một vườn hoa, nơi ông sống từ nhiều năm, ở giữa Sài Gòn. Trong một cuộc phỏng vấn kéo dài hơn một giờ, ông nói cho tôi biết cơ hội mỏng manh về đàm phán với phía bên kia ra sao.
Ông mô tả xúc động về tình trạng kiệt quệ của quân đội, những tướng lĩnh mất tinh thần, những kho đạn và chiến cụ gần như trống rỗng, vật tư bị bỏ mặc, bộ máy hành chính bất lực, dân chúng lo lắng và những người của Thiệu không làm gì khác là cất giấu đô la, vàng, trang sức cùng những tác phẩm nghệ thuật của họ...
Tướng Minh có giọng nói chậm rãi và nhẹ nhàng. Cặp mắt không chớp sau cặp kính gọng kim loại, nhưng người ta nhận thấy rõ rệt ông bối rối sâu sắc trước hiện tình đất nước ông.”

Không ra nước ngoài
“Thế nào đi nữa, ông nói với tôi, tôi sẽ không đi đâu cả. Hạnh phúc hay bất hạnh đó vẫn là tổ quốc tôi. Tôi đã sống những năm định cư ở Bangkok. Tôi không thiếu thốn gì. Nhưng tôi cảm thấy rất bất hạnh. Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Cuối cuộc phỏng vấn, tôi hỏi ông thẳng thắn rằng, ông nghĩ sao sắp tới sẽ đóng một vai trò quan trọng của một nhân vật chính trị.
“Nếu để làm bù nhìn, thì chắc chắn không. Nhưng nếu tôi có thể hữu ích hay có thực quyền thì tôi sẽ không từ chối.” Từ cách nhìn của tôi, từ thời điểm này, tướng Minh đã sẵn sàng.
Hôm nay (24/4/1975), ông già không có chút sinh khí (chỉ tổng thống Hương) đã đến gặp tướng Minh nêu ra một vai phụ số hai : đó là chức Thủ tướng. Vai trò mà một người tiền nhiệm vừa bỏ lại sáng nay.”
Minh cự tuyệt, vì ông không có toàn quyền. Ngày mai, ông sẽ có tất cả.
Nếu không, Việt Cộng sẽ bắt đầu đặt quyền cai trị lên Sài Gòn.”

Khi CIA giả danh Khmer Đỏ
“Thứ Sáu 25/4/1975. Sau khi Phnom Penh sụp đổ, CIA sử dụng một đài tiếp vận radio từ Okinawa, hòn đảo lớn phía Nam quần đảo Nhật Bản. Những nhân viên bí mật của Mỹ phát sóng dưới danh nghĩa những người Khmer. Họ đưa tin như từ chức năng quyền lực của Khmer Đỏ.
Đài phát thanh gián điệp này tung những tin thất thiệt, hướng vào cộng đồng dân chúng Campuchia, hy vọng gây những bất ổn cho những chủ nhân mới của đất nước.
Cũng là CIA, trong một buổi phát thanh đội lốt ngôi sao đỏ đã đưa tin, có một cuộc đảo chính tại Hà Nội và họ nói rằng đã có ba sư đoàn Bắc Việt rút về cứu nguy cho miền Bắc.”
Bình luận về việc xuyên tạc này, giám đốc CIA tại Sài Gòn hả hê với những ai muốn nghe:
“Đó thật sự là chương trình duy nhất hoạt động tốt.”
Thật khó tin, nhưng đúng như thế!

Tướng Minh và sứ mệnh bất khả thi
“Tối thứ Bảy, Thượng và Hạ viện nhất trí trao toàn quyền cho tướng Minh hoạt động ngõ hầu mang lại một ‘nền hoà bình trong danh dự’, trong lúc cả tối thứ Bảy và Chủ Nhật đạn pháo nã vào trung tâm quyền lực giữa Sài Gòn.
Người dân thủ đô sống trong thấp thỏm trước những đợt pháo kích ngày càng gia tăng. Những sư đoàn Bắc Việt và Việt Cộng được chiến xa hạng nặng hỗ trợ chỉ còn không đầy 30 km cách thủ đô VNCH. Những tướng lĩnh can đảm nhất cũng nói rằng tất cả đã mất.
“Bộ trưởng Quốc phòng, tướng Trần Văn Đôn u ám trước tấm bản đồ ngày càng đen tối. Các chuyến bay ‘Galaxia’ của không quân Mỹ hối hả chuyển những công dân Hoa Kỳ di tản. Tất cả như trong tình trạng như khi Byzance thất thủ, các chân tay thân cận của Thiệu theo chân chủ chạy trốn với những valy chật căng đô la, nữ trang, vật dụng quý giá, nhà băng đóng cửa , nền kinh tế sụp đổ.
Trong tình thế gần như tuyệt vọng, Lưỡng viện và ông tổng thống mắt loà, chậm chạp với tuổi già vẫn còn loay hoay bàn cãi về thủ tục bàn giao chính quyền cho tướng Minh, mà không ‘vi hiến’.
Trong không khí nghẹt thở, lưỡng viện bỏ phiếu cho giải pháp tình thế hệt như trong buổi đẹp trời của Đệ Tam Cộng hoà. Cuối cùng, sau một ngày điên rồ, khi màn đêm đã buông xuống Sài Gòn, Lưỡng viện Quốc hội nhất trí chuyển giao hoàn toàn quyền lực cho tướng Minh.”
Một người cộng sự thân thiết của tướng Minh đã nói với tôi ngay từ hôm qua không úp mở:
“Chúng tôi nắm một sứ mệnh không thể thực hiện nổi.”

Cuốn sách mô tả tiếp giờ phút tiếp quản:
“Nhóm sĩ quan cấp cao nhảy xuống xe. Xung quanh họ là những binh sĩ đầy súng ống. Họ chạy nhanh qua những bậc thang rộng của Phủ Tổng thống, vượt qua phòng khánh tiết và gặp tướng Minh trong phòng làm việc của ông ta.
‘Tôi đã đợi các ông ở đây’, tướng Minh nói. Buổi sáng cùng ngày, lúc 10 giờ, ông đã cho phát trên radio lời tuyên bố gửi đến đối phương.
Minh từ căn phòng của Phủ Tổng thống đã ra lệnh cho tất cả các đơn vị Nam Việt Nam ngừng bắn. Rất trầm tĩnh, Minh trao đổi với các phụ tá và một vài bộ trưởng mà chỉ trong thời gian ngắn ông đã tìm được ra.
Các chiến binh Bắc Việt ngay lập tức vây quanh ông. Trong số những sĩ quan của đoàn quân chiến thắng có những Việt Cộng hoạt động bí mật tại Sài Gòn, không mặc quân phục, không mang quân hàm, quân hiệu, có người biết rất rõ tướng Minh. "
Ông ta tiến gần và nói:
“Ông đã làm một việc lớn cho Việt Nam, ngăn không cho Sài Gòn bị phá huỷ. Chúng tôi cám ơn ông, tướng Minh.”
Minh đáp lại rằng, ông hy vọng vào sự nghĩa hiệp của người chiến thắng.”

https://1.bp.blogspot.com/-o9tCDQOLuTc/YVmCx2_GncI/AAAAAAACRnk/TZdEIz_-1dIg4-F5KsUvaPEcg8ZRRds2gCLcBGAsYHQ/w640-h390/0.92.PNG


Nhà báo Paul Dreyfus cũng suy tư về chuyện ông Minh đã nghĩ gì:
“Có lúc nào, ở thời khắc ngắn ngủi những ngày trước, tướng Minh đã nghĩ là khả thi thoả thuận được một cuộc đàm phán? Tôi không tin. Trong lần gặp gần nhất với ông, khi chưa nắm bộ máy quyền lực, tôi nhận thấy ông đã nghĩ rằng việc đầu hàng là không tránh khỏi. Song không nghi ngờ gì, tướng Minh hy vọng có thời gian để dàn xếp thể thức ra sao.
“Bằng việc gạt qua cá nhân mình, Minh đã chấp nhận trong con mắt của lịch sử, là một viên tướng đầu hàng không điều kiện, để tránh cho đất nước của ông những đớn đau không cần thiết.
Vai trò của ông đã hết.
Thật ngắn ngủi.
Song chúng ta nợ sự đánh giá lại về một con người tỉnh táo và can đảm này.”
BBC

https://1.bp.blogspot.com/-gIE5BofqyfQ/YVmFNXa3rTI/AAAAAAACRnw/-BSngeMsvxoM5Wx3KFgyKB7kGwTCPfBlgCLcBGAsYHQ/w576-h640/0.93.PNG

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

30.4.1975
CHUYỆN 16 TẤN VÀNG
CỦA VIỆT NAM CỘNG HOÀ

**********************
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
CỦA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH


Cuối tháng 4-1975, lẫn trong các đoàn xe tăng, bộ binh giải phóng đổ về Sài Gòn có những người lặng lẽ làm nhiệm vụ đặc biệt.

Trung tuần tháng 4-1975, sau một tuần giao tranh khốc liệt với quân giải phóng do tướng Hoàng Cầm chỉ huy, phòng tuyến Xuân Lộc - hy vọng cuối cùng của quân đội VNCH - đã chuyển sang thế chiến bại.

Tuy nhiên, cùng thời điểm đó ở Sài Gòn, các hoạt động thường nhật của Ngân hàng Quốc gia, đầu não của nền tài chính miền Nam, vẫn bình thường.

Phòng vệ đặc biệt
Buổi chiều hết giờ làm việc, chiếc cổng sắt nặng nề của Ngân hàng Quốc gia ở số 17 Bến Chương Dương đóng chặt lại, tách biệt hẳn với đường phố ồn ào bên ngoài. Vài nhân viên nghiệp vụ không ra về mà ở lại phía trong cánh cửa, tiếp tục vào phiên trực.

Từ khi chiến cuộc diễn biến ngày càng khốc liệt, theo chủ trương của chính quyền Sài Gòn, tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia đã cho thành lập tổ tự vệ riêng của các viên chức nghiệp vụ ngân hàng.

Từ cấp chánh sự vụ trở xuống, không ai được phép vắng mặt trách nhiệm “nhân dân tự vệ”. Thay phiên nhau vài đêm mỗi tháng, họ cũng được phát vài khẩu carbine nhưng chưa bao giờ phải nổ súng.

Cùng gác với họ còn có hai lực lượng chuyên trách khác. Phía ngoài cổng là vành bảo vệ của đội cảnh sát dã chiến.

Từ cuộc chiến đường phố Tết Mậu Thân năm 1968, điểm phòng vệ này còn thường xuyên xuất hiện những chiếc thiết giáp. Nó đậu ở sát bức tường hông toà nhà, khẩu trọng liên chĩa thẳng ra đường sẵn sàng chiến đấu.

Riêng bên trong, ngoài đội “tự vệ” còn có đội bảo vệ đặc biệt của thiếu tá Sang. Ông ta chỉ huy đội cảnh sát phòng vệ lớp thứ hai bên trong toà nhà.

Chiến cuộc 20 năm gần đến hồi kết ở Sài Gòn, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rồi ông Trần Văn Hương, Dương Văn Minh lên thay đều quan tâm bảo vệ toà nhà đặc biệt này.

Họ rất sợ Ngân hàng Quốc gia có vấn đề gì, ảnh hưởng đến cả nền tài chính lẫn tâm lý người dân đô thành, mà đặc biệt là giới thương nhân.

Dưới tầng hầm, kho vàng 16 tấn dự trữ quốc gia vẫn còn nguyên vẹn ở vị trí cũ sau khi kế hoạch chuyển ra nước ngoài bị dừng lại.

Bên cạnh những hộp vàng thoi, các thùng tiền mặt, gồm tất cả tờ 500, 1.000 đồng chuẩn bị phát hành vẫn nằm nguyên dưới lớp niêm phong.

“Huyết mạch” kinh tế miền Nam vẫn hoạt động cho đến gần giờ cuối cùng của Việt Nam cộng hoà, khi những chiếc xe tăng T54 quân giải phóng tiến vào dinh Độc Lập.

“Chứng nhân” 3 thế kỷ
Trong lịch sử, toà nhà Ngân hàng Quốc gia do người Pháp xây dựng này là chi nhánh chính của Ngân hàng Đông Dương ở Sài Gòn.

Ngân hàng này đầu tiên ra đời ở Paris vào tháng 1-1875. Chỉ bốn tháng sau, nó đã hiện diện ở thuộc địa Nam Kỳ, số 22 bến Arroyo Chinois, Cochinchine (số 17 Bến Chương Dương hiện nay).

Đây là một trong những công trình được xây dựng bề thế, kiên cố nhất Sài Gòn lúc bấy giờ gồm năm tầng, trong đó có một tầng hầm được sử dụng làm kho cất vàng dự trữ quốc gia và tiền tệ chưa phát hành.

Những bức tường bằng đá dày bảo đảm chịu được mọi loại súng cầm tay của bộ binh thời đó.

Tầng trệt của toà nhà là văn phòng thống đốc, Nha điện toán, Nha ngân quỹ, phòng giao dịch với các ngân hàng thương mại. Các tầng trên là phòng làm việc của các nha khác như Nha kiểm soát, Nha thanh tra, Nha hối đoái...

Ngày 4-6-1954, Pháp ký hiệp định trao trả độc lập cho Việt Nam.

Bản hiệp ước do thủ tướng Bửu Lộc của chính phủ Bảo Đại và thủ tướng Pháp Joseph Laniel ký ghi nội dung điều khoản 3: Pháp cam kết trao trả lại cho Chính phủ Việt Nam các thẩm quyền và công vụ mà Pháp còn phụ trách.

Trong đó, họ trao trả lại quyền tự chủ tiền tệ, tức giải tán Viện phát hành tiền tệ Đông Dương của mình để trao trả lại quyền phát hành tiền cho Việt Nam.

Sáu tháng sau, ngày 21-12-1954, quốc trưởng Bảo Đại ký dụ số 18 thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và Viện hối đoái riêng.

Tuy nhiên trong thời gian đầu, tiền Việt Nam vẫn nằm trong khu vực đồng franc có tỉ giá 1 đồng Việt bằng 10 đồng franc.

Ngày 1-1-1955 tại số 17 Bến Chương Dương, Sài Gòn, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam chính thức hoạt động. Đồng bạc Đông Dương (piastres) được thay thế bằng đồng bạc Việt Nam.

Khoảng một năm sau, ngày 17-12-1955, tiền Việt chính thức tách ra khỏi các thoả ước tiền tệ với Pháp trước đó bằng việc thủ tướng Ngô Đình Diệm ký dụ số 15, bắt buộc tất cả hoạt động tiền tệ đều nằm dưới quyền kiểm soát của Ngân hàng Quốc gia.

Không còn nằm trong khu vực tiền Pháp, đồng Việt Nam được ấn định tỉ giá theo đôla Mỹ, thời điểm này 35 đồng bằng 1 USD, 98 đồng bằng 1 bảng Anh và 0,1 đồng bằng 1 franc.

Thống đốc, người có quyền lực cao nhất ở Ngân hàng Quốc gia đầu tiên là ông Dương Tấn Tài, cựu bộ trưởng tài chính của chính phủ Bửu Lộc trước đó.

Thống đốc Tài được đánh giá là người cực kỳ liêm chính. Tuy nhiên, ông không tại vị lâu ở ngân hàng đầu não vì cuối năm 1955, ông được bổ nhiệm làm cố vấn phủ tổng thống. Người thay chức vụ cũ của ông là tiến sĩ kinh tế Vũ Quốc Thúc.

Suốt 20 năm chiến cuộc kể từ khi đất nước bị chia cắt ở vĩ tuyến 17, Ngân hàng Quốc gia trở thành “chứng nhân” bao cuộc thăng trầm, biến loạn của Sài Gòn. Những thống đốc đầu tiên như tiến sĩ Vũ Quốc Thúc có công đưa nền tài chính miền Nam thoát khỏi cái bóng đô hộ 100 năm của người Pháp.

Nguyên bộ trưởng Trần Hữu Phương lên thay. Kế tiếp ông là những gương mặt rất giỏi như tiến sĩ kinh tế Harvard Nguyễn Xuân Oánh làm thống đốc năm 1964 trong nội các Nguyễn Cao Kỳ.

Sau đó là Nguyễn Hữu Hanh, Nguyễn Văn Dõng. Và thống đốc trẻ tuổi cuối cùng là Lê Quang Uyển ngồi vào chiếc ghế thống đốc năm 36 tuổi, từ năm 1970 cho đến ngày quân giải phóng vào cắm lá cờ mới lên toà nhà này.
------------------------------
Trong cuốn sách Từ toà Bạch Ốc đến dinh Độc Lập, tổng trưởng Nguyễn Tiến Hưng cho rằng Ngân hàng Quốc gia sẽ là mục tiêu sau khi Sài Gòn thất thủ.

Trong cuộc họp nội các ngày 1-4, tổng trưởng Hưng đề xuất bán vàng dự trữ của Ngân hàng Quốc gia để mua đạn dược trong tình hình không thể hi vọng quân viện từ Mỹ.

Cuối cùng, diễn biến chiến sự quá nhanh, việc mua đạn dược không kịp, việc chuyển vàng ra nước ngoài cũng bất thành, trong đó có cả lý do bất đồng của một số nhân vật trong nội các như phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo (Tuổi Trẻ đã đăng chi tiết năm 2006 trong hồ sơ “Câu chuyện 16 tấn vàng ngày 30-4”).

“Có lẽ chính nhờ những điều này mà hầm dự trữ của Ngân hàng Quốc gia vẫn không có gì xáo trộn trong tháng cuối cùng của chính quyền Sài Gòn. Chúng tôi vẫn đến sở làm bình thường. Bản phúc trình thường niên năm 1974 vẫn được trình lên” - ông Huỳnh Bửu Sơn, một viên chức của Ngân hàng Quốc gia cũ, kể lại.

TUỔI TRẺ
https://tuoitre.vn/nhung-...quoc-gia-vnch-1305597.htm

https://1.bp.blogspot.com/-1ixt2xYJ0Fw/YVmHCGJ1D7I/AAAAAAACRn4/8mx2IXJwVSkkJu1CIU6p7PLcrva902NvgCLcBGAsYHQ/w640-h464/0.94.PNG

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [29] [30] [31] [32] [33] [34] [35] ... ›Trang sau »Trang cuối