Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [31] [32] [33] [34] [35] [36] [37] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

16 TẤN VÀNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HOÀ-[2]



Tin đồn về Nguyễn Văn Thiệu
Từ đầu tháng 4 năm 1975, khi Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn tại vị, một số tờ báo phương Tây đã bắt đầu đăng tải tin về kế hoạch chuyển 16 tấn vàng ra nước ngoài với sự ám chỉ về một âm mưu chiếm đoạt của ông. Báo chí Việt Nam Cộng hoà cũng đưa tin về sự kiện này. Tuy có báo đăng tuyên bố cải chính của chính phủ Việt Nam Cộng hoà, nhưng sau khi ông Thiệu đã ra đi, ngày 28 tháng 4, báo “Độc Lập” khác của Việt Nam Cộng hoà đăng một bản tin về chuyến ra đi của ông Nguyễn Văn Thiệu với chi tiết: “Tin Reuters ghi nhận liền sau khi đoàn người Nguyễn Văn Thiệu cùng tuỳ tùng xuống phi cơ và được đưa vào phòng khách danh dự, một số hàng hơn 10 tấn cũng đã được cất xuống theo”.[5] Các báo chí viết tường thuật nói ông Thiệu đã bỏ trốn với một số lượng vàng lớn lấy đi từ ngân khố của chính phủ Việt Nam Cộng hoà.

Dựa trên thông tin đọc từ báo chí nước ngoài, trong hồi ký “Đại thắng mùa xuân”, Đại tướng Văn Tiến Dũng cũng cho rằng Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam.

Theo báo Tuổi Trẻ, “có quá ít tài liệu trong nước đề cập một cách chính xác và đầy đủ về chuyện này sau năm 1975”, cũng theo tờ báo này, “Trong một cuốn sách khá nổi tiếng đã được tái bản khá nhiều lần trong hơn 20 năm qua (ở Việt Nam), người ta đọc được một đoạn “có vẻ chắc chắn” như sau: “Thiệu và Khiêm đáp máy bay rời Sài Gòn sang Đài Loan, nơi anh ruột của Thiệu đang còn làm đại sứ (tức ông Nguyễn Văn Kiểu). Thiệu mang theo năm vali chứa đầy đôla. Trước đó, Thiệu đã mướn một chiếc máy bay chở hành khách cỡ lớn của Mỹ, đưa khỏi Việt Nam 17 tấn vàng bạc, châu báu, tài sản quý mà gia đình y đã vơ vét được sau hai nhiệm kỳ làm tổng thống””.

Theo Luật sư Lê Quang Định, từ sau năm 1975, “rất nhiều ấn phẩm trong nước đã thay nhau đổ tội và kết án ông trong “vụ án” bịa đặt này với những “bằng chứng” chắc chắn như thể chính các tác giả đều tận mắt trông thấy”. Mọi nguồn thông tin đều không bênh vực cho ông Thiệu, ông ra đi mang theo một cái án là kẻ ăn cắp tài sản quốc gia.

Trong nhiều năm sau chiến tranh, những người biết rõ số phận của 16 tấn vàng tại các cơ quan chức năng nhà nước đã không quan tâm đến việc đính chính tin đồn. Sau này, thông tin cải chính được phổ biến rộng rãi qua loạt phóng sự điều tra của báo Tuổi Trẻ. Khi được hỏi tại sao lâu nay Nhà nước Việt Nam không đính chính, ông Lữ Minh Châu, cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trả lời: “Mình biết rất rõ là số vàng đó vẫn còn, đã được kiểm kê cẩn thận và đưa vào tài sản quốc gia, nhưng không đính chính vì đó là tin đồn đăng trên báo chí, có ai đặt câu hỏi chính thức với Nhà nước đâu”.

Thực tế, Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chưa hề đưa ra bất cứ tuyên bố chính thức nào cáo buộc Nguyễn Văn Thiệu chuyển 16 tấn vàng ra nước ngoài. Tất cả những tin đồn về Nguyễn Văn Thiệu và 16 tấn vàng đều xuất phát từ báo chí quốc tế và từ các binh lính, sĩ quân, công chức Việt Nam Cộng hoà bất mãn với ông Thiệu.

GIẢI ĐÁP


Sau hơn 30 năm, tháng 12 năm 2005 hồ sơ mật được phép giải mã, chính phủ Anh công bố Hồ sơ Bộ Ngoại giao trong đó có phần nói về chuyện vị lãnh đạo của chính quyền Việt Nam Cộng hoà chuyển sang sống tại khu ngoại ô của Luân Đôn như thế nào. Tuy nhiên, hồ sơ này không nói đến số vàng nào được ông Thiệu mang tới Anh.

Trả lời phỏng vấn BBC ngày 29 Tháng 12 năm 2005, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng nói rằng số tiền vàng này chưa mang ra khỏi Việt Nam, nhưng ông không phải là nhân chứng của vụ việc nên không rõ chi tiết. Nhiều người đặt câu hỏi về việc ông Thiệu có mang vàng ra ngoài hay không và nếu không thì số vàng giờ ở đâu.

Trong loạt phóng sự điều tra được đăng từ ngày 26 tháng 04 năm 2006, báo Tuổi Trẻ đã phỏng vấn các nhân chứng trực tiếp liên quan đến 16 tấn vàng, làm rõ rằng cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu chưa mang số vàng này ra nước ngoài. Tuy nhiên, ông đã qua đời từ trước đó, vào năm 2001.

Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người giữ chìa khoá kho vàng và là thành viên ban lãnh đạo Nha Phát hành Ngân hàng Quốc gia thời điểm tháng 4 năm 1975, thì số lượng tiền vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách tới từng chi tiết nhỏ.

Về việc giải đáp tin đồn Nguyễn Văn Thiệu chuyển 16 tấn vàng ra nước ngoài, Luật sư Lê Công Định viết: “tìm ra tận cùng của sự thật, báo Tuổi Trẻ đã làm được một việc thiện xét từ góc độ lương tri”.

Những va-ly hành lý bị nghi chứa vàng của cá nhân Nguyễn Văn Thiệu
Việc ông Nguyễn Văn Thiệu không chuyển kịp 16 tấn vàng ra nước ngoài đã được giải đáp. Tuy nhiên, vẫn còn lời kể của những nhân chứng về các va-ly hành lý cá nhân mà ông mang theo khi rời Việt Nam vào đêm ngày 25/4. Theo đó, các vali này có chứa hàng chục kg vàng, trị giá nhiều triệu USD, là tài sản mà ông Thiệu thu được khi làm Tổng thống. Khi đó, Nguyễn Văn Thiệu rời khỏi Sài Gòn trong một chiếc Mercedes bịt kín, do một đoàn xe CIA hộ tống dưới quyền chỉ huy của Frank Snepp (theo cf George J. Church, “Saigon: The final 10 days”, Time Magazine, 4/24/1995), ra phi trường, có đại sứ Martin đứng chờ, để đi Đài Loan trên chiếc máy bay C-130 sơn đen. Theo lời kể của Frank Snepp, những sĩ quan đi cùng đoàn với Nguyễn Văn Thiệu xách xuống mấy chiếc vali có vẻ rất nặng, họ đề nghị Frank Sneep mở cốp sau, để họ chất vali vào. Theo Frank Snepp, thì “khi họ đặt vali xuống, có tiếng kim loại va vào nhau”[19]. Morley Safer, nhân viên CIA có mặt trong chuyến bay, cũng xác nhận rằng “những vali đó chứa đầy một thứ kim loại nặng”[20]

Theo Gabriel Kolkothì khi rời Việt Nam vào đêm ngày 25/4, ông Thiệu có mang theo “hai va-li lớn đầy vàng”.
Theo David Lamb của tờ Los Angeles Times, ông Thiệu ra đi “với số vàng trị giá 15 triệu đôla” (and USD 15 million in gold).

Thông tin thêm
Bảng kê thoi vàng đựng trong các tủ sắt

Hầm số 3
Tủ số 40: 82 thoi
Tủ số 41: 80 thoi
Tủ số 42: 80 thoi
Tủ số 43: 80 thoi
Tủ số 44: 80 thoi
Tủ số 45: 80 thoi
Tủ số 46: 80 thoi
Tủ số 47: 73 thoi
633 thoi

Hầm số 6
Tủ số 202: 35 thoi
Tủ số 203: 80 thoi
Tủ số 204: 80 thoi
Tủ số 205: 80 thoi
Tủ số 206: 79 thoi
Tủ số 207: 89 thoi
Tủ số 215: 88 thoi
Tủ số 216: 70 thoi
601 thoi

Tổng cộng: 1.234 thoi vàng
(Nguồn: Nha Phát hành, tháng 4-1975)

5,7 tấn vàng gửi tại ngân hàng Thuỵ Sĩ

Vàng của Việt Nam Cộng hoà để lại có hai nguồn. Thứ nhất là nguồn trong nước với 16 tấn vàng dự trữ ở tầng hầm Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Thứ hai là 5,7 tấn vàng do Việt Nam Cộng hoà ký gửi ở ngân hàng Bank fur Internationnalen Zahlung Sausgleih ở Thuỵ Sĩ.  Sau đó 5,7 tấn vàng được đưa về ngân hàng quốc gia Tiệp Khắc an toàn. Số vàng này được Việt Nam nhờ Tiệp Khắc bán để lấy ngoại tệ.

WIKIPEDIA
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

NGÂN HÀNG THU HỒI  5.7 TẤN VÀNG TỪ THUỴ SỸ


Hồi tôi làm tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước, có Việt kiều về nước đã hỏi thẳng tôi rằng: Sau ngày 30-4-1975, chính quyền Việt Nam cộng hoà để lại nhiều thứ. Đôla ở ngân hàng Mỹ, vàng đầy trong kho bạc Bến Chương Dương. Cơ sở hạ tầng miền Nam cũng còn gần như nguyên vẹn.

Thành phố Sài Gòn thì vẫn 100% như cũ, kể cả hàng chục ngàn doanh nhân, hàng chục ngàn cơ sở doanh nghiệp lớn nhỏ chẳng cái nào bị đốt phá.

Vậy tại sao sau ngày 30-4 nước mình lại khó khăn như vậy? - những ngày cuối đời, ông Lữ Minh Châu đã tâm sự với người viết như thế...

Những khó khăn
Đó là hệ quả Mỹ không chỉ cắt hoàn toàn viện trợ mà còn cấm vận khắc nghiệt, đặc biệt là miền Nam vốn đã sử dụng phương tiện sản xuất của Mỹ và phương Tây nên không có phụ tùng để tiếp tục hoạt động. Năm 1977 đến lượt Trung Quốc cắt viện trợ.

Liên Xô và Đông Âu dù vẫn còn giúp đỡ vài năm nữa, nhưng do trượt giá đồng tiền của họ nên lượng hàng hoá, nguyên liệu thực về nước chỉ còn phân nửa trước đây.

Tình hình như vậy làm sao tránh khỏi khó khăn? Ngay cả Việt Nam cộng hoà gần đến hồi kết thúc cuộc chiến cũng khẩn thiết, van nài vay thêm tiền từ Mỹ.

1 tỉ USD không có, 700 triệu USD không ra, cuối cùng 300 triệu USD cũng không được, phải đôn đáo qua cả Ả Rập để tìm hi vọng cuối cùng mà vẫn bất thành.

Ý kiến cho rằng do chính sách cứng rắn cải tạo, quốc hữu hoá nền kinh tế miền Nam sau năm 1975 đã làm đất nước rơi vào khó khăn là đúng nhưng chưa đầy đủ.

Còn rất nhiều nguyên nhân khó khăn khác, chưa kể hai cuộc chiến biên giới nổ ra khốc liệt sau đó.

Ông Ba Châu tâm sự mình gắn với ngành tài chính - ngân hàng từ trước tháng 4-1975 đến gần 20 năm sau đó, nên là chứng nhân trong cuộc của nhiều vấn đề.

“Cuộc chiến vừa kết thúc, chúng tôi đã lật từng sổ sách, chứng từ, kiểm tra từng kho quỹ, tầng hầm ngân hàng để tìm nguồn khôi phục đất nước sau chiến tranh. Thấy thỏi vàng nào cũng mừng. Tìm ra đồng đôla nào cũng vui. Trung ương cử người vào giám sát chặt chẽ và chúng tôi vẫn liên tục báo cáo ra Hà Nội” - ông Ba Châu kể.

Riêng vàng của Việt Nam cộng hoà lúc ấy để lại có hai nguồn. Thứ nhất là nguồn trong nước với 16 tấn vàng dự trữ ở tầng hầm Ngân hàng Quốc gia.

Về sau, lượng vàng này được đưa qua Liên Xô bán cùng với các loại vàng có trong nước gồm tất cả 40 tấn, để trả nợ và giải quyết các nhu cầu khó khăn (Tuổi Trẻ đã đăng chi tiết trong hồ sơ “Vượt qua đêm dài đói kém”).

Thứ hai là 5,7 tấn vàng do Việt Nam cộng hoà ký gửi ở Thuỵ Sĩ. Theo ông Ba Châu, số vàng dự trữ này vô cùng quý giá với tình hình của đất nước lúc bấy giờ. Nó cần được bán ra để giải quyết các khó khăn cấp bách.

Thu hồi và... bán
Tuy nhiên, chuyện bán vàng dự trữ quốc gia không hề đơn giản, nhanh chóng như nhiều người tưởng. Nó được trung ương đặt lên đặt xuống, cân nhắc rất nhiều.

Ông Dễ (nguyên phó tổng giám đốc Vietcombank) kể có lần ông nghe cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “Khó khăn quá, không còn cách gì khác thì phải bán vàng thôi. Sau này mình có điều kiện, mình sẽ mua lại”.

Theo ông Dễ, sở dĩ 5,7 tấn vàng từ Thuỵ Sĩ không được bán ở thị trường quen thuộc Liên Xô vì đã bán ở quốc gia này 40 tấn vàng rồi.

Tuy nhiên, nếu để yên ở ngân hàng Thuỵ Sĩ thì cũng không yên tâm trước các biện pháp cấm vận ngày càng khắt khe của Mỹ.

Sau năm 1975, chính quyền nước này đã phong toả hơn 97 triệu USD của Việt Nam cộng hoà gửi ở các nước. Rất có thể Thuỵ Sĩ, một nước trung lập, rồi cũng có thể phải chịu áp lực từ Mỹ, gây khó khăn cho Việt Nam.

Các cuộc họp của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Vietcombank đã đặt vấn đề phải xử lý an toàn 5,7 tấn vàng này.

Cân nhắc ban đầu là chuyển về nước, nhưng trước tình hình khó khăn nên buộc phải tìm cách bán. Khả năng bán ở Liên Xô cũng được xem xét, nhưng cuối cùng quyết định chuyển về ngân hàng Tiệp Khắc.

Theo ông Dễ, có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân “chia nhỏ ra thì hay hơn dồn tất cả vào một chỗ”.

Đầu tiên, ông Dễ và các cán bộ nghiệp vụ của Vietcombank tiến hành đàm phán với Bank fur Internationnalen Zahlung Sausgleih, ngân hàng Thuỵ Sĩ đang giữ 5,7 tấn vàng của Việt Nam gửi.

Công việc hơi tốn thời gian và đòi hỏi nhiều chi tiết, nhưng cuối cùng cũng hoàn tất vì trước đó Việt Nam đã chứng minh quyền thừa kế hợp pháp ở các tổ chức tài chính quốc tế.

Sau đó, họ làm việc với ngân hàng quốc gia Tiệp Khắc đề nghị tiếp nhận số vàng Việt Nam chuyển đến từ Thuỵ Sĩ.

Giai đoạn đàm phán này diễn ra nhanh gọn hơn nhiều, vì Tiệp Khắc đã có mối quan hệ từ lâu với chính phủ Hà Nội và viện trợ cho Việt Nam rất nhiều trong chiến tranh.

Các thủ tục chuyển giao quốc tế hoàn tất. 5,7 tấn vàng được đưa về ngân hàng quốc gia Tiệp Khắc an toàn. Số vàng này được Việt Nam nhờ Tiệp Khắc bán để lấy ngoại tệ.

Còn nửa tấn cuối cùng thì chính trường Tiệp Khắc xảy ra bất ổn, nhưng Vietcombank đã kịp thời chuyển về nước an toàn.

Riêng 2,7 tấn vàng còn lại chưa bán hết ở Liên Xô cũng được chuyển về Việt Nam trước khi nước này xảy ra thay đổi chính trị.

Đặc biệt, số ngoại tệ khả dụng của Việt Nam cộng hoà gửi ở nước ngoài cũng được Vietcombank tiến hành các thủ tục rút dần về nước để giải quyết tình trạng khan hiếm ngoại tệ nghiêm trọng.

Riêng hơn 93 triệu USD bị Mỹ phong toả cũng được thu hồi sau khi Mỹ bãi bỏ chính sách cấm vận với Việt Nam.

Theo ông Nguyễn Duy Lộ, nguyên phó tổng giám đốc Vietcombank, Việt Nam không chỉ thu hồi được tất cả số tiền gốc ngoại tệ ký gửi ở nước ngoài mà còn lấy được cả lãi với tổng số lên đến gần 396 triệu USD.

Đó cũng được xem là một thắng lợi lớn của những nhà hoạt động ngân hàng ở Việt Nam sau khi tiếp quản ngành ngân hàng mà VNCH để lại...

----------------------------------
Nguyên phó tổng giám đốc Vietcombank Nguyễn Văn Dễ là người trực tiếp thu hồi 5,7 tấn vàng gửi ở Thuỵ Sĩ.
Ông kể: “Cuộc tiếp quản hệ thống ngân hàng miền Nam sau tháng 4-1975 đã đạt kết quả tốt đẹp.

Chính nghiệp vụ sổ sách chặt chẽ, khoa học của các ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Quốc gia VNCH trước năm 1975 đã giúp chúng tôi nắm được chính xác tất cả tài sản quốc gia mà chính quyền miền Nam để lại.

Chúng tôi có thể biết rõ lượng ngoại tệ và vàng còn bao nhiêu, đang nằm ở ngân hàng nào, nước nào, số nào bị Mỹ phong toả, số nào có thể rút ra ngay được”.

Ngay từ tháng 9-1975, Việt Nam đã cử đại diện tham dự các hội nghị thường niên của tổ chức tiền tệ IMF, WB, ADB.

Được Nhà nước uỷ nhiệm thực hiện quyền thừa kế từ chính quyền trước, đoàn đã chuẩn bị tất cả tài liệu, số liệu để đàm phán thu hồi quyền lợi.

TUỔI TRẺ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

THƯƠNG VỤ ĐẶC BIỆT: BÁN VÀNG


Sau loạt bài “Câu chuyện 16 tấn vàng ngày 30-4-1975” đăng trên Tuổi Trẻ tháng 4-2006, nhiều bạn đọc đã đặt câu hỏi: 16 tấn vàng của chính quyền Sài Gòn để lại được sử dụng thế nào? .

Nguyên thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN Lữ Minh Châu đã trả lời câu hỏi này: “Nó đã được bán ra quốc tế trong tổng số hơn 40 tấn vàng để giải quyết những vấn đề khó khăn cấp bách của quốc gia, trong đó có miếng ăn của người dân”.

Đến nay những người trong cuộc vẫn còn nhớ rất rõ thương vụ đặc biệt này.
AUDIO : Những đoạn liên quan đến việc bán 40 tấn vàng trong cuốn sách Lịch sử Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
https://tuoitre.vn/thuong...-biet-ban-vang-731957.htm
Qua kênh Liên Xô
“Chuyến hàng đầu tiên rời Hà Nội ngày 1-12-1979, số lượng 101 hòm, nặng 4.455kg... Sau đó là những hợp đồng giao vàng tái chế, vay mượn, cầm cố bán vàng với số lượng hơn 40 tấn, thu được trên 500 triệu USD”- đó là một đoạn trích phát biểu của ông Nguyễn Văn Dễ, nguyên tổng giám đốc Ngân hàng Vietcombank, được ghi lại trong cuốn Lịch sử Ngân hàng Ngoại thương VN.

Trao đổi trực tiếp với người viết, ông Dễ tâm sự sau năm 1975 VN rất cần ngoại tệ để giải quyết những nhu cầu cấp bách của quốc gia như mua lương thực, nguyên liệu, trả nợ quốc tế đến hạn phải trả... Đặc biệt là miếng ăn của người dân thiếu hụt đến mức phải ăn trực tiếp cả hạt bo bo chưa kịp xay xát, loại lúa mì, lúa mạch phẩm cấp thấp. Các lãnh đạo chủ chốt của Chính phủ đều phải dành nhiều thời gian chạy gạo cho thấy tình hình hết sức khẩn cấp...

Để tháo gỡ các vấn đề này, nội lực nông nghiệp trong nước lúc ấy không đáp ứng nổi, đòi hỏi phải trông ra nguồn lương thực quốc tế. Nhưng có mua nợ thì cũng phải trả, và lấy ngoại tệ ở đâu ra? Giải pháp khả thi nhất bấy giờ là bán vàng lấy ngoại tệ. Tuy nhiên, thương vụ đặc biệt này hoàn toàn không đơn giản như nhiều người nghĩ, kể cả một số cán bộ cấp cao. Bởi nguồn vàng của miền Nam thì có nhưng lại “kẹt” ở xuất xứ của VN cộng hoà, nhất là lại đang trong giai đoạn cấm vận gay gắt của Mỹ.

Cuốn Lịch sử Ngân hàng Ngoại thương ghi lại: “Kho vàng lúc ấy như sau: ngoài số vàng không đáng kể của miền Bắc (đơn vị tạ), Ngân hàng Nhà nước đã tiếp nhận vàng của chính quyền Sài Gòn và vàng của các nguồn khác. Cơ cấu của kho vàng rất không “đồng bộ”: vàng thỏi của Anh mỗi thỏi nặng 12,7kg, vàng thỏi của Mỹ mỗi thỏi nặng 10kg. Các thỏi đều có mã riêng, nhãn hiệu, xuất xứ. Ngoài vàng thỏi còn có các loại vàng lá Kim Thành, các loại vàng vụn (kể cả nhẫn, vòng, kiềng)”.

“Ban đầu những người có trách nhiệm đều nghĩ đơn giản: ta có vàng, đem bán lấy ngoại tệ, việc đó đâu có khó. Nhưng ngay tại phiên giao dịch đầu tiên có tính chất thăm dò với Liên Xô, các bạn Liên Xô cho biết hàng hoá trên thị trường vàng quốc tế phải là những thỏi vàng chuẩn của Anh, Mỹ hoặc Liên Xô. Các loại vàng thỏi Anh, Mỹ... có xuất xứ tại VN không thể tiêu thụ trên thị trường vì có quá nhiều rủi ro do chính sách cấm vận của Mỹ đối với VN”.

Nhắc lại thế bí này, ông Dễ kể VN và Liên Xô đã bàn bạc với nhau và thống nhất phải tái chế vàng theo tiêu chuẩn của Liên Xô, mỗi thỏi 1kg. Khoảng cuối năm 1979, theo lệnh của Chính phủ và sự uỷ nhiệm của Ngân hàng Nhà nước, Vietcombank ký với Liên Xô các hợp đồng tái chế vàng, vay mượn cầm cố vàng và tiêu thụ vàng trên thị trường thế giới.

“Liên Xô lúc ấy rất thân thiện, giúp đỡ VN. Tôi bay sang đó liên tục và thường chỉ có món quà duy nhất là mấy chai Nếp Mới mà họ gọi là vodka VN” - ông Dễ nhớ phía Liên Xô cung cấp các hòm thép tiêu chuẩn ngân hàng của họ. Việc chuyên chở vàng được thực hiện bằng máy bay thương mại Liên Xô, nhưng quá trình thực hiện được bảo mật để hành khách không được biết loại hàng đặc biệt này.

Những kiện hàng bí mật trên Aeroflot
Là người tham gia nhiệm vụ này ở đoạn trong nước, nguyên phó tổng giám đốc Vietcombank Nguyễn Duy Lộ cũng không quên: “Ông Dễ phụ trách đoạn ở Liên Xô. Còn tôi là thành viên hội đồng kiểm kê quốc gia lo những việc trong nước như kiểm kê số lượng vàng, đóng hòm theo tiêu chuẩn và niêm phong. Vàng từ kho ngân hàng được bảo mật chở ra sân bay Nội Bài. Công tác bảo vệ rất kín. Tôi kiểm tra niêm phong, hoàn tất thủ tục xong mới chuyển ra máy bay của Hãng hàng không Liên Xô. Ngay cả nhân viên sân bay cũng ít người được biết loại hàng đặc biệt này”.

Khi các hòm vàng được đưa lên máy bay, ông Nguyễn Văn Dễ lúc ấy là phó tổng giám đốc Vietcombank có nhiệm vụ trực tiếp theo chuyến bay của Hãng hàng không Aeroflot. Ông được cấp hộ chiếu ngoại giao đi Liên Xô bất cứ lúc nào cũng được để lo đàm phán, ký kết hợp đồng giao hàng, tái chế vay cầm cố bằng vàng, bán hàng với Ngân hàng Ngoại thương Liên Xô. Máy bay hạ cánh, ngân hàng phía Liên Xô có xe bọc thép đón sẵn. Họ không mở hòm, kiểm đếm số lượng vàng trong đó mà chỉ niêm phong rồi tiếp tục chuyển về kho bảo mật.

Nhiều năm sau, ông Dễ vẫn nhớ rất chi tiết: “Tất cả khoảng hơn 40 tấn, trong đó có 16 tấn vàng thỏi tiếp quản của ngân hàng VN cộng hoà, còn lại là các loại vàng khác nhau từ những nguồn khác. Ngay sau chuyến đầu tiên chuyển đi 4.455kg trong 101 hòm vào ngày 1-12-1979, Chính phủ VN đã gửi công hàm đến Liên Xô đề nghị vay 100 triệu USD để dự phòng thanh toán nợ đến hạn trong khi chưa có nguồn thu xuất khẩu”.

Chính ông Dễ được Bộ Ngoại giao uỷ nhiệm ký hợp đồng vay ngoại tệ này. Phía Liên Xô đồng ý cho vay, nhưng phải theo thông lệ thương mại quốc tế vì họ cũng không có ngoại tệ dư thừa, phải huy động từ thị trường tự do.Theo đó, VN chỉ có thể được vay với điều kiện thế chấp bằng chính số lượng vàng chuyển sang Liên Xô. Hiệp định vay 100 triệu USD thế chấp bằng vàng đã hoàn tất vào khoảng tháng 3-1980.

“Sở dĩ VN phải vay nóng ngoại tệ như vậy bởi lượng vàng chuyển sang tái chế ở Liên Xô không kịp đem ra thị trường bán, trong đó có Thuỵ Sĩ. Các nhu cầu cấp bách của quốc gia gồm cả vấn đề nóng bỏng lương thực cho người dân đòi hỏi phải có ngoại tệ ngay. Sau đó VN dùng tiền bán vàng trả lại cho Liên Xô”.

Hầu như tháng nào ông Dễ cũng bay sang Liên Xô. Hơn 40 tấn vàng được chuyển đi nhiều đợt. Nhiệm vụ bảo vệ của VN chỉ đảm trách đến khi đưa lên máy bay Liên Xô, sau đó thuộc trách nhiệm của họ. Khoảng năm 1988, Vietcombank đã chuyển về nước lại khoảng 2,7 tấn vàng còn gửi tại Liên Xô do tình hình bất ổn của họ. Đặc biệt, khoảng 5,7 tấn vàng gửi tại Ngân hàng Thuỵ Sĩ cũng được VN chuyển về Tiệp Khắc. Họ đã bán giúp để VN lấy ngoại tệ sử dụng cho nhu cầu quốc dân. Trước khi Tiệp Khắc gặp biến động chính trị, khoảng 500kg vàng VN còn lại ở nước họ cũng được chuyển kịp thời về nước.
-----------------------------------
Năm 1979, chở 40 tấn vàng đi bán để giải quyết khó khăn cấp bách và để mua gạo. Nhưng 10 năm sau, năm 1989, VN đã nhập vàng về, gấp 4 lần số chở đi bán.Và một đề xuất của bộ trưởng thương mại mà lúc ấy nhiều người cho là “bị điên”: VN xuất khẩu gạo!

TUỔI TRẺ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

ĐÀI SÀI GÒN 30.4.1975 PHÁT ĐI NHỮNG GÌ?


Những hình ảnh cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam kéo dài 30 năm.
Những năm gần đây trong nước nổ ra tranh cãi về những chuyện xảy ra ở Dinh Độc Lập trong những giờ phút đầu tiên khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, hơn một giờ sau khi đài Sài Gòn truyền đi lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh vào lúc 10 giờ 25 phút sáng ngày 30/4/1975.

Đến hơn 2 giờ chiều ngày hôm đó mới có chương trình phát thanh đầu tiên với phát biểu đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh và lời chấp nhận đầu hàng của Chính uỷ Bùi Văn Tùng. Sự kiện này xảy ra sau khi bộ đội vào Dinh Độc Lập và đã áp giải Tổng thống Minh và Thủ tướng Mẫu đến đài Sài Gòn tuyên bố đầu hàng.

Sau tuyên bố đầu hàng, những sự việc xảy ra tại đài phát thanh Sài Gòn có liên quan đến một số lãnh đạo sinh viên, trí thức, đoàn thể và đặc biệt là Trịnh Công Sơn vì ông là một nhạc sĩ nổi tiếng đã phát biểu và hát “Nối vòng tay lớn” trên đài vào giờ phút lịch sử sang trang.

Tuy nhiên nội dung các phát biểu trong chương trình phát thanh đầu tiên của “Đài Sài Gòn Giải phóng” khi được ghi lại có một số khác biệt mà bài viết này trình bày những tài liệu ghi nhận được chung quanh.

Phát biểu về đầu hàng
Theo bài hồi ức của ông Nguyễn Hữu Thái trên tạp chí Xưa&Nay (số 234, tháng 4.2005) lời chấp nhận đầu hàng của chính uỷ Bùi Văn Tùng như sau:

“Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố Thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của ông Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn”.

Trong phần này, nghe âm thanh ghi lại thì Chính uỷ Bùi Văn Tùng gọi “tướng” Dương Văn Minh. Còn trong bài ghi là “ông” Dương Văn Minh. Trên mạng BBC Việt ngữ ngày 29.04.2005 có trích báo Tuổi Trẻ ngày 23.03.2005 với lời của cựu Chính uỷ Bùi Văn Tùng như sau: “Tôi thảo cho ông Dương Văn Minh lời đầu hàng.

Sau khi ông đọc xong thì tôi đọc lời tuyên bố: ‘Chúng tôi đại diện lực lượng quân giải phóng miền Nam VN long trọng tuyên bố TP Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của ông Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn...’.”

Bài hồi ức trên tạp chí Xưa&Nay số tháng 4.2005 cũng dùng chữ “ông” trước danh xưng Dương Văn Minh, thay vì chữ “tướng”. Theo ông Thái thì ông có băng ghi âm những phát biểu này là do nhà sử học Nguyễn Nhã tặng. Có hai băng ghi âm khác nhau? Hay vì nghe không rõ nên ghi nhầm ở đây?

Lời chấp nhận đầu hàng này cũng đã được hãng thông tấn AP, qua bản tin của kí giả George Esper gửi đi và đăng trên nhật báo New York Times ngày 1.5.1975 đã ghi nguyên văn, trong đó có chữ Gen. - tiếng Anh nghĩa là “tướng” - với nội dung rất đúng lời của chính uỷ Bùi Văn Tùng như ghi ra từ băng. Tuần báo TIME ngày 12.05.1975 trong một bài tường thuật cũng ghi lời chấp nhận đầu hàng của “tướng” Dương Văn Minh.

Về thứ tự những phát biểu, bài hồi ức của ông Thái ghi là Tổng thống Minh, Thủ tướng Mậu, Chính uỷ Tùng. Nhưng sau đó trong một bài viết khác, tựa “Góp phần làm sáng tỏ sự kiện lịch sử 30/4/1975” [Xưa&Nay số 264, tháng 7.2006] ông lại đảo lộn thứ tự các phát biểu thành: Tổng thống Minh, Chính uỷ Tùng rồi mới đến Thủ tướng Mẫu. Như thế thứ tự thật sự của các tuyên bố ghi trong băng mà nhà sử học Nguyễn Nhã đã tặng ông như thế nào?

Trịnh Công Sơn trên đài
Tác giả cũng đặt câu hỏi về sự kiện nhạc sỹ Trịnh Công Sơn (trái) hát trực tiếp tại Đài Sài Gòn hôm 30/4.
Sự kiện Trịnh Công Sơn phát biểu kêu gọi mọi người ở lại hợp tác với chính quyền mới và hát trên đài, đặc biệt là ca khúc “Nối vòng tay lớn” được rất nhiều người miền Nam biết đến vào thời điểm đó, điều này cũng có những sự không thống nhất, như ai đưa Trịnh Công Sơn đến đài, hay có người đã nghe Trịnh Công Sơn hát với tiếng đàn, có người nói không có đàn ghi-ta.

Câu hỏi chính là từ khoảng 10 giờ 30 sáng, sau khi phát đi lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh cho đến khoảng 2 giờ 30 chiều là lúc đài phát đi lệnh đầu hàng của Tổng thống Minh, trong 4 giờ đồng hồ đó, đài Sài Gòn có phát thanh gì không.

Theo nhiều kí giả nước ngoài, trong đó có David Butler tác giả quyển The Fall of Saigon thì khoảng thời gian đó đài im lặng.

Theo Đoàn Văn Toại ghi trong tác phẩm The Vietnamese Gulag, lúc đó ông có mặt tại đài và đã kêu Trịnh Công Sơn đem băng nhạc với những ca khúc về hoà bình của ông đến để phát đi trên sóng. Theo ông Hoàng Xuân Sơn, một người quen đã được Trịnh Công Sơn ghé qua nhà kêu lên đài hát với ông nhưng ông không đi. Ông Hoàng Xuân Sơn kể là khi nhạc sĩ rời nhà ông, bên ngoài đường có ông Nguyễn Hữu Thái và bộ đội đưa nhạc sĩ đi.

Hoàn toàn im tiếng
Ca khúc “Nối vòng tay lớn” được phát chính xác vào thời điểm nào trên Đài Sài Gòn hôm 30 tháng Tư là một dấu hỏi khác.
Như thế thì có thể đài đã phát đi những bài ca của Trịnh Công Sơn có trong những băng nhạc đã được phát hành đầu thập niên 1970.

Thời gian bốn giờ đồng hồ trên đài Sài Gòn giữa hai phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh đến nay vẫn còn là một điều chưa mấy ai rõ là có phát nhạc gì không hay hoàn toàn im tiếng.

Sau hai giờ chiều, với chương trình của tiếng nói cách mạng đầu tiên do ông Nguyễn Hữu Thái điều hợp và được phát đi, sau các phát biểu về đầu hàng, ông Nguyễn Hữu Thái giới thiệu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và nhạc sĩ đã phát biểu rồi hát.

Ông Thái viết trong hồi ức: “Thấy trong đám đông ùa đến đài có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, sinh viên Huỳnh Ngọc Chênh đưa anh vào và tất cả cùng anh hát vang bài “Nối vòng tay lớn”. Không có đàn trống, chúng tôi vỗ tay, khỏ nhịp lên bàn cùng nhau hát vang: Rừng núi dang tay nối lại biển xa.

Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà…

Ông viết tiếp: “Đây là bài hát đầu tiên được phát trên sóng của đài phát thanh Sài Gòn ngày giải phóng”.

Bài viết của ông Thái không ghi lời phát biểu của Trịnh Công Sơn, cũng không ghi trọn vẹn lời ca mà nhạc sĩ cùng một vài người nữa đã đồng ca và câu hát cuối ông ghi lại trong hồi ức cũng không như phần âm thanh ghi nhận. Theo băng, đó là “Biển xanh sông gấm nối liền một vòng Việt Nam”. “Việt Nam” khác với “tử sinh” như ghi trong bài viết của Nguyễn Hữu Thái.

Về phát biểu của Trịnh Công Sơn, tạp chí mạng honvietquochoc.com.vn của Hội Nhà văn Việt Nam ngày 18.8.2010 có bài của Thanh Huyền tựa: “Trịnh Công Sơn hát ‘Nối vòng tay lớn’” cũng ghi lại lời phát biểu của nhạc sĩ, nguyên văn giống như trong băng đã phổ biến, nhưng cắt bỏ một câu quan trọng có lẽ vì là vấn đề “nhạy cảm” trong nước. Đó là câu: “Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.”

Phần lời ca, tác giả Thanh Huyền ghi lại đầy đủ, nhưng câu cuối cùng cũng ghi “tử sinh”, giống như trong hồi ức của ông Thái. Có hai băng khác nhau chăng?

Dịp 30.4 năm ngoái, tác giả Hoài Hương có phỏng vấn một số nhân vật lịch sử mà trang thông tin anhbasam.wordpress.com có ghi lại lời Thiếu tướng Hoàng Trọng Tình, cựu Phó Chính uỷ Quân khu 4 đã kể: “… Sau khi TT. Dương Văn Minh đọc xong lời tuyên bố, trở lại Dinh Độc Lập, chúng tôi mới cho anh em sinh viên Sài Gòn thuộc Tổng đội Sinh viên Sài Gòn vào đàn hát các bài ca cách mạng. Trước giờ mọi người nói vào lúc TT. Dương Văn Minh đọc lời tuyên bố đã có anh em sinh viên Sài Gòn có mặt là sai. Lúc đó không có một thường dân nào hết.”

Tác giả Hoài Hương ghi lại như thế. Vậy giữa tướng Hoàng Trọng Tình và Đoàn Văn Toại, một cựu lãnh đạo sinh viên chống chính quyền Sài Gòn, ai đúng, ai sai?

BÙI VĂN PHÚ
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

VIỆT NAM CỘNG HOÀ
VÀ NHỮNG ĐỊNH MỆNH XUI XẺO-[1]


Tổng thống Đệ nhất Cộng hoà Đại Hàn Lý Thừa Vãn và Tổng thống Đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm vào năm 1958
Nhìn lại lịch sử, chúng tôi thấy câu ngạn ngữ “hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai” sao nó đúng quá: tai bay vạ gió thì luôn theo nhau mà đến với Việt Nam Cộng Hoà, còn những cái may mắn thì ít khi nó trở lại.

Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm: sau bao nhiêu gian lao với Pháp, ông đã khai sinh ra nền Cộng Hoà.

Sau đó xây dựng được những thành tích vẻ vang của “Năm Năm Vàng Son 1955-1960,” (độc giả xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 13). Nhưng vừa tới năm 1961 thì ông phải đối đầu ngay với những giao động khôn lường: nửa năm đầu thì Tổng thống John F. Kennedy hết sức ủng hộ, tới nửa năm sau, bang giao Việt - Mỹ rơi vào khủng hoảng.

Sau cùng thì trong bối cảnh dầu sôi lửa bỏng vào dịp Lễ Phật Đản thứ 2507 (ngày 8/5/1963), TT Kennedy gửi ông Henry Cabot Lodge sang làm Đại sứ thay thế ĐS Frederick Nolting về hưu.

Nolting là người ủng hộ ông Diệm. Ông Lodge là người mưu mô, nham hiểm, có nhiều thành kiến về ông Diệm. Vì tham vọng muốn lập thành tích để ra ứng cứ tổng thống vào năm 1964 cho nên ông đã dùng đủ mọi mưu lược triệt tiêu Tổng thống Diệm với hậu quả là phá nát nền Đệ Nhất Cộng Hoà mùa Thu 1963. Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY I.

Tới Đệ Nhị Cộng Hoà, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại gặp ngay một tay HENRY nữa - Henry A. Kissinger. Về ông này, ta có thể đặt câu hỏi: ở một cường quốc vĩ đại như Hoa Kỳ, biết bao nhiêu người vừa tài, vừa đức, vừa có tâm, vừa có tầm mà lại không lên được tới địa vị quyền hành như ông Kissinger?

Ông này còn mưu lược, gian dối hơn Cabot Lodge gấp mấy lần. Kissinger đã đạo diễn chính sách của Hoa Kỳ về Việt Nam trong gần sáu năm rưỡi, tức là trên hai phần ba thời gian của Đệ Nhị Cộng Hoà.

Cái nguy hiểm cho cả Mỹ lẫn Miền Nam là ông này thích hành động bí mật và một mình.

Trong một cuộc phỏng vấn với nữ ký giả người Ý, bà Oriana Fallaci, ông giải thích rằng sở dĩ ông có sức mạnh là nhờ ở lối hành động một mình:

“Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một mình. Người Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ thích hình ảnh một gã chăn bò dẫn đầu một toán di dân, một mình trên lưng ngựa, đi đầu, thủng thẳng tiến vào một tỉnh lỵ, một thị xã; chỉ mình với ngựa thôi, không có gì khác. Có thể là không có cả súng nữa, là vì gã ta không cần bắn. Gã chỉ hành động bằng cách là ở đúng chỗ, vào đúng lúc, thế thôi. Nói gọn hơn, gã là một cao bồi miền Tây.”

Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY II.

Nhân dịp 30 tháng Tư, chúng tôi xin chia sẻ với đồng hương một vài cảm nghĩ về số phận long đong của cả hai nền Cộng Hoà vào lúc hoàng hôn thê lương ảm đạm.

Khi Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đổ

Những cái xui xẻo đã xảy ra liên tục cho Tổng thống Ngô Đình Diệm trong ba ngày cuối cùng của cuộc đời ông (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 22).

Ngày 3/03/1963 Toà Bạch Ốc gửi mật điện chỉ thị cho Đại sứ Lodge là: “phải thông báo đầy đủ cho Tướng Harkins (tư lệnh quân đội Mỹ ở Miền Nam) trong mọi giai đoạn, và sử dụng những khuyến cáo của cả Harkins lẫn Smith,” và “tất cả chỉ thị cho Conein (người trung gian với nhóm tướng lãnh đảo chính) cũng phải được thông qua ý kiến của Harkins và Smith.” Nhưng vào những giờ phút chót, ông Lodge đã trái lệnh Tổng thống, không chịu bàn bạc, thông báo gì với ông Harkins (vì Harkins hết sức bênh vực TT Diệm);


Cố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại cùng anh ông, Tổng thống Đệ nhất Cộng hoà năm 1963
Cùng ngày 30/03, Đại sứ Lodge hoãn chuyến đi Washington. Ông đã định đi vào ngày 31 tháng 10. Chỉ thị từ Washington là khi ông Lodge đi vắng thì Tướng Harkins sẽ thay thế ông để điều khiển ở Sàigòn. Nếu ông Harkins ở lại thì khó có thể đảo chính. Sau cùng, Washington lại quyết định cho phép ông Lodge hoãn chuyến đi vài ngày. Lodge muốn ở lại Sàigòn để theo rõi đảo chính ngày hôm sau.

Ngày 31 tháng 10 là ngày trước đảo chính. Vì ngày đảo chính (mồng 1 tháng 11) là ngày Lễ Các Thánh, ngày lễ của người Công giáo, nên ông Diệm có thể đi kinh lý hoặc thăm viếng chỗ này chỗ kia. Cho nên Tướng Trần Văn Đôn đề nghị với TT Diệm là ông nên tiếp xã giao Đô đốc Harry Felt (Tư lệnh quân lực Mỹ Thái Bình Dương) vừa tới Sàigòn. Đề nghị như vậy là để có cớ thuyết phục TT Diệm ở lại Dinh Gia Long trong ngày đảo chính cho chắc ăn.

Chính ông Đôn đã viết lại trong cuốn hồi ký Our Endless War - Inside Vietnam:

“Sáng ngày 31 tháng 10, tôi vào dinh gặp Tổng thống Diệm để hỏi về vấn đề Đô đốc Felt đến Sàigòn, và dò hỏi xem có phải vì ông không có mặt ở Sàigòn vào ngày mai nên không tiếp ông Felt được hay không? Ông Diệm ngạc nhiên vì không biết tin ông Felt tới Sàigòn.”

Vì Tướng Đôn đề nghị, TT Diệm đã quyết định ở lại Sài gòn để tiếp Đô đốc Felt vào ngày 1/11.

Buổi sáng ngày 1 tháng 11, khi TT Diệm tiếp hai ông Felt và Lodge, ông bất chợt hỏi ông Lodge rằng ông biết đang có âm mưu đảo chính nhưng không biết rõ tướng tá nào muốn đảo chính. Ông Lodge trả lời một cách quanh co: “Tôi không nghĩ rằng Tổng thống phải lo ngại gì cả.” Như vậy là để đánh lừa ông Diệm;

Một chuyện nữa hết sức quan trọng, đó là cuối cùng, như đã đề cập trên đây, Tổng thống Diệm đã muốn làm một nghĩa cử ôn hoà với cả Đại sứ Lodge, cả Tổng thống Hoa kỳ. Vì biết ông Lodge sắp lên đường về Washington, ông dặn ông Lodge là khi về tới Washington thì nên gặp hai ông Colby (trưởng trạm CIA ở Sàigòn trước đây) và Nolting (cựu Đại sứ) để bàn bạc về vấn đề giải quyết chuyện ông Nhu cho ổn thoả.

Rồi ông gửi một thông điệp cho TT Kennedy nói:

“Tôi bằng lòng chấp nhận tất cả những đề nghị của Tổng thống Kennedy một cách hết sức nghiêm chỉnh, và muốn thực sự thi hành những điều này, chỉ còn vấn đề thời gian tính.”


Tổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày 22/11 cũng trong năm 1963 ở Dalla
Chắc ông Lodge cũng còn một chút lương tâm và cho rằng như vậy là đã có thể đi tới chỗ hoà hoãn với ông Diệm được rồi, nên ông có báo cáo về Washington thông điệp này.

Thế nhưng, vô tình hay hữu ý, theo Mark Moyar thì ông Lodge lại gửi điện tín này theo thủ tục ‘ưu tiên thấp nhất’ nên khi thông điệp này tới Washington thì tiếng súng đã bắt đầu nổ ở Sàigòn rồi. Theo một tác giả khác, James W. Douglas trong cuốn JFK and The Unspeakable thì Lodge đã trì hoãn để khi Kennedy nhận được điện tín này thì đã quá trễ.

Ngày 1 tháng 11 cũng là ngày sinh nhật của Đại tá Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh Hải quân, là người trung thành với TT Diệm và đã cứu ông trong dịp đảo chính tháng 2 năm 1962.

Sau khi chơi quần vợt với một số đồng đội, họ mời ông dùng cơm trưa để mừng sinh nhật thứ 36 của ông. Thoạt đầu, ông đã từ chối. Buổi sáng hôm ấy, ông cũng đã chột dạ vì thấy có những cuộc chuyển quân hơi lạ nên muốn theo dõi để báo cáo cho ông Diệm. Nhưng rồi viên sĩ quan phụ tá cố nài ép nên ông nể lòng. Lúc đang trên đường đi tới một quán nhậu ở ngoại ô Sàigòn, ông đã bị sát hại. Như vậy là ông Quyền đã đi trước và dọn đường tới nghĩa trang cho hai ông Diệm-Nhu.

Theo tác giả Mark Moyar (trong cuốn Triumph Forsaken) thì “khi cuộc đảo chính sắp bắt đầu, một viên sĩ quan chỉ huy lữ đoàn Lực lượng Đặc biệt đề nghị với Tổng thống Diệm cho ông dùng xe thiết giáp tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính để bắt trọn ổ số Tướng lãnh đang họp hành. Thành công là chắc chắn, viên sĩ quan cố thuyết phục ông Diệm, vì chỉ có một số lính đang tập sự đứng gác ở Tổng Tham Mưu, và đúng như vậy.

Nếu những tướng chủ mưu bị bắt thì quân đội đảo chính tất sẽ bị rối loạn.

Nhưng TT Diệm không cho phép, ông nói: “Quân đội phải tiết kiệm súng đạn để chống Cộng, và tránh đổ máu,” rồi thêm: “Chỉ cần bảo vệ Dinh Gia Long, nhà Bưu điện và Tổng Nha Ngân khố.”
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

VIỆT NAM CỘNG HOÀ
VÀ NHỮNG ĐỊNH MỆNH XUI XẺO-[2]


Như đề cập trên đây, sau khi tiếng súng đảo chính đã vang dội, Tổng thống Diệm gọi giây nói cho Đại sứ Lodge vào lúc 4 giờ 30 chiều (ngày 1 tháng 11) để hỏi về thái độ của Hoa kỳ. Ông Lodge trả lời lơ mơ là ông không biết gì để nói nhưng có đề nghị với ông Diệm là sẽ cho xe cắm cờ Mỹ đến Dinh Gia Long đưa ông Diệm ra phi trường, rồi dùng máy bay riêng của đại sứ để chở ông ra khỏi nước, nhưng TT Diệm từ chối. Nhưng trái với điều mà nhiều tác giả đã viết, cuộc điện đàm này không phải là trao đổi cuối cùng giữa hai người. Vẫn còn một cú điện thoại khác nữa.

Cú điện thoại thứ hai là lúc ở tại nhà thờ Cha Tam, ông Diệm đã gọi ông Lodge để yêu cầu giúp đỡ phương tiện để ra đi, vì ông Lodge đã hứa rằng “Nếu tôi có thể làm được gì để giúp cho an toàn của Ngài thì Ngài cứ gọi tôi.” Nhưng bây giờ ông Lodge lại trả lời là Toà Đại sứ Mỹ chỉ có thể cho ông trú ẩn và bất cứ điều gì khác, nhưng không thể giúp phương tiện chuyên chở ông ra khỏi nước. Như vậy là trái hẳn với đề nghị của ông Lodge chiều hôm trước. Ông Mike Dunn, Phụ tá trưởng của đại sứ - là người đứng bên ông Lodge khi ông này nói diện thoại với ông Diệm - đã xin tự nguyện đến chở hai ông Diệm, Nhu đi để bảo vệ cho hai ông, nhưng ông Lodge đã không đồng ý! “Tôi thật ngạc nhiên là ta đã không làm gì để giúp cho hai anh em họ Ngô,” ông Dunn phàn nàn.

Một nhân chứng nữa cũng khẳng định về việc này là nhà báo Joseph Fried của tờ New York Daily News trong một báo cáo vào ngày 5 tháng 11, 1963.

Sau khi ông Lodge từ chối giúp đỡ, Tổng thống Diệm hoàn toàn thất vọng, khoảng 7 giờ sáng ngày mồng 2 ông quyết định gọi điện thoại cho Bộ Chỉ huy Đảo Chánh thông báo là ông đã ra lệnh cho lính phòng vệ Phủ tổng thống ngưng bắn và ông đầu hàng vô điều kiện.

Đây là một việc không may mắn nhất cho TT Diệm vì cho tới ngày đảo chính, nhóm tướng lãnh vẫn còn nghi ngờ nhau, chưa có sự tin tưởng và đồng ý hoàn toàn. Chính TT Thiệu đã kể lại (với Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân) là “nếu ông Diệm và ông Nhu không ra trình diện (gọi điện thoại) vào sáng ngày 2 tháng 11, chỉ cần nán lại tới trưa cùng ngày thì các tướng lãnh sẽ lên máy bay chạy hết vì lo sợ và nghi ngờ lẫn nhau” là đã mắc mưu ông Nhu.

Trước đó, trong giai đoạn chuẩn bị đảo chính, Tướng Paul Harkins, Tư lệnh Mỹ ở Việt Nam cũng báo cáo về cho tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Tham Mưu Liên Quân về nhóm tướng lãnh:


Bà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái trong một chuyến công du nước ngoài
“Tôi thấy chúng ta có một tổ chức của nhóm người thật hoang mang trong đó mọi người nghi ngờ mọi người khác.”

Các tướng lãnh yêu cầu Conein sắp xếp máy bay, nhưng CIA trả lời là cần 24 giờ thì mới thu xếp được, nhưng thật ra là đã có sẵn một chiếc máy bay ở Sàigòn để chở Đại sứ Lodge về Washington và ông này đã hoãn chuyến đi. Dù sao, khi nghe thấy nói đến 24 giờ, Tướng Minh gắt lên “Chúng tôi không giữ họ lâu thêm được nữa.”

Sau này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó là Đại tá) còn kể lại với chúng tôi rằng:

“Khi được lệnh đánh Dinh Gia Long, ông đã có ý định tìm TT Diệm và mời ông lên xe jeep mở mui để về Bộ TTM rồi đưa ông đi ra ngoại quốc, nhưng khi chiếm Dinh xong thì thấy ông Diệm đã đi rồi. Ông Thiệu thêm: “Nếu như TT Diệm đi xe jeep mui trần như vậy thì không ai dám sát hại ông...”

Đến khi ông Thiệu được tin TT Diệm gọi điện thoại về Bộ Tổng Tham Mưu, ông còn đề nghị với Tướng Minh để cho ông đi đón TT Diệm từ nhà thờ Cha Tam, nhưng ông Minh gạt đi và nói “Khỏi phải lo, đã có người rồi.”

Bất hạnh cuối cùng của Đệ Nhị Cộng Hoà

Tháng 2/1972, TT Nixon đi Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao. Dịp này ông đã đảo ngược “chính sách ngăn chặn Trung Quốc” (containment of China). Khi mở cửa Bắc Kinh thì ông đóng cửa Sàigòn, và khi bắt tay với ông Mao thì buông ngay tay ông Thiệu (như chúng tôi đã viết trong cuốn Tâm Tư Tổng Thống Thiệu).

Sau đó Nixon - Kissinger áp lực Miền Nam ký Hiệp Định Paris (1/1973). Từ đó những cái xui xui xẻo tới dồn dập:

Ngược lại với những cam kết của TT Nixon là sẽ tiếp tục viện trợ, VNCH vừa ký kết một hiệp định hết sức bất lợi thì lại bị cắt xén viện trợ thật bất ngờ và thật nhanh;

Còn được chút ít viện trợ thì lại bị ngay cú ‘sốc’ siêu lạm phát (do chiến tranh Israel - Ai Cập vào tháng 10/1973) làm tiêu hao mãi lực của viện trợ. Một thùng dầu thô đang từ 4USD vọt lên 12 USD.

Tới khi viên trợ bị cắt hết, Miền Nam xoay xở đi vay Quốc Vương xứ Saudi để mua tiếp liệu. Vua Saud al Faisal vừa đồng ý cho vay 300 triệu USD thì lại bị người cháu ruột hạ sát thê thảm ngay trong hoàng cung. Ông nằm xuống vào đúng ngày cố đô Huế bị bỏ ngỏ.


Tổng thống Johnson và Tổng thống Thiệu tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Việt 20/07/1968 ở Honolulu
Trên chiến trường, lúc bị tấn công, Ban Mê Thuột gọi không quân đến yểm trợ. Phi vụ vừa tới thả bom thì một trái rơi trúng ngay Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23;

Mất Ban Mê Thuột, có lệnh rút Pleiku. Ngày 18 tháng 3, quân dân hoảng hốt rút trên con đường 7B đẫm máu. Vừa về tới Phú Bổn thì bị kẹt ngay vì công binh chưa làm xong cây cầu nổi như đã dự tính: đoàn người di tản chịu thêm một trận pháo kích bên bờ sông Ea Pha. Sau này Tổng Thống Thiệu kể lại cho tôi rằng ông vẫn còn thắc mắc về chuyện tại sao Công Binh không làm xong cái cầu nổi? Đại tướng Viên cũng cho rằng “Sư đoàn 320 của cộng sản sẽ không bao giờ truy kích kịp đoàn quân nếu chúng ta có được cầu qua sông thiết lập đúng lúc, và giữ đuợc trật tự trong đoàn dân quân di tản.” Vì cầu không xong, cho nên:

Hai ngày sau mới rời đuợc Hậu Bổn. Đoàn dân quân vừa tiến được chừng 20 cây số là khựng ngay, vì “trước mặt đoàn di tản là Phú Túc đả bị địch chiếm.”

Khi không quân tới cứu,“một trái bom nữa rơi vào đoàn quân đi đầu, gây thương vong cho gần một tiểu đoàn Biệt Động Quân.”

Tôi đang dự một buổi họp đầy căng thẳng tại Dinh Độc Lập sau cuộc rút lui thảm hại này thì Đại Tá Cầm (Chánh Văn phòng Tổng Thống) bước vào đưa một tin bất hạnh: ông Paul Léandri, trưởng phòng thông tấn xã Agence France Presse ở Sàigòn bị cảnh sát bắn chết.
Léandri loan tin “có số lính người Thượng (Montagnards) đã nổi loạn ở Hậu Bổn, chống lại quân đội VNCH’. Nha Cảnh Sát mời ông đến để thẩm vấn. Sau vài tiếng đồng hồ bị giữ lại, Leandri bỗng nhiên bước ra khỏi phòng, nhảy lên xe và lái vút đi. Khi cảnh sát huýt còi ngừng, ông cứ tiếp tục phóng. Cảnh sát rút súng bắn vài phát vào bánh xe để giữ lại. Chẳng may một viên đạn lạc trúng ngay vao người. Leandri gục chết tại chỗ.

Phóng viên ngoại quốc vô cùng phẫn uất, phản kháng kịch liệt. Trong một tình hình vô cùng bất lợi cho Miền Nam về tất cả mọi phương diện quân sự, chính trị, kinh tế, và bộ mặt Miền Nam đã bị bôi nhọ bởi những hình ảnh dã man, độc tài, tham nhũng, bây giờ hình ảnh Leandri bị bắn gục chết lại phóng đi khắp thế giới! Tổng Thống Thiệu nghe tin này đã tái mặt. Ông liền chấm dứt, bước ra khỏi phòng họp.

Mấy ngày hôm sau, trong một phiên họp khác ở Văn Phòng Thủ Tướng, lại có tin chiếc máy bay vận chuyển C-5A chở đám trẻ em mồ côi vừa cất cánh ở Tân Sơn Nhất đã bị nổ tan. Chết trên 200 trăm em bé! Vào chính lúc đó lại đang có những chống đối ngay tại Washington về việc di tản người Việt Nam bằng máy bay Mỹ.

Ôi sao tin tức nó dồn dập, bi đát đến thế vào lúc con thuyền Miền Nam nghiêng ngửa sắp chìm đắm!

Suy gẫm như vậy, nhiều nguời trong đó có tác giả, cũng chỉ còn có cách là nghĩ đến chữ ‘mệnh’.

...Ngày nay nhìn lại, riêng phần tác giả thì cũng chỉ có một mong ước, đó là những thế hệ con cháu được sống trong thời đại kỹ thuật, có nhiều phương tiện và hoàn cảnh thuận lợi để liên lạc nên sẽ có thể gần gũi nhau hơn, thông cảm nhau hơn để rồi từng bước có thể giúp cho vận mệnh đất nước trở nên tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn.

Chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là niềm hy vọng của đại đa số người dân Việt Nam hôm nay.

Tiến sỹ NGUYỄN TIẾN HƯNG
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

SAU 1975, CẢ NƯỚC VIỆT NAM ĐÓI NẶNG


Người tỵ nạn VNCH bỏ chạy khỏi Đà Nẵng - ảnh tư liệu
Tình hình kinh tế VNCH vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 năm 1975 bị xáo trộn nghiêm trọng vì chiến sự.

Tính đến 8/04, VNCH đã mất toàn bộ Quân khu I, II và một phần Quân khu III, chỉ còn kiểm soát vùng bắc Sài Gòn và Quân khu IV, tức đồng bằng Mekong.

Chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đột nhiên phải đón hàng triệu người tỵ nạn bỏ chạy về phía Nam sau khi Huế, Đà Nẵng và các đô thị Cao nguyên và vùng duyên hải rơi vào tay lực lượng miền Bắc.

Chỉ con số người tỵ nạn đăng ký vào các trại cứu trợ thuộc Quân khu III và IV, ở Bình Dương, Biên Hoà, Bình Tuy, Phước Tuy, Sài Gòn, Tây Ninh, Vũng Tàu, Châu Đốc, Kiên Giang, Kiến Tường, Phú Quốc, Vĩnh Bình và Vĩnh Long, là 356 nghìn.

Bên cạnh đó là hàng trăm nghìn người bị mất nhà cửa trong ngay hai vùng chiến thuật 3 và 4 do các cuộc tấn công của đối phương.

Nhưng kinh tế của phần còn lại mà VNCH kiểm soát vẫn khá vững, ít ra là còn thực phẩm, theo một báo cáo của CIA ‘The Economic Situation in South Vietnam’ - March 1975’ được giải mật tháng 1/2005.

Tất nhiên, có những bất ổn về tiền tệ: giá vàng và đô la Mỹ tăng mạnh vì lo ngại phải di tản, và Sài Gòn đã mất toàn bộ khu vực kinh tế Cao nguyên, nguồn xuất khẩu gỗ, lâm sản và các tỉnh Bắc Trung Bộ, nhưng vụ mùa 1974-75 có thu hoạch tốt, và VNCH dư gạo để nuôi quân, nuôi dân, gồm cả người tỵ nạn.

“Sài Gòn vẫn kiểm soát vựa lúa ở đồng bằng sông Mekong, cung cấp gạo cho số dân còn do VNCH kiểm soát, gồm cả người tỵ nạn. Vụ mùa 1974-75 lại bội thu, và các thuyền chở lúa gạo, rau trái tiếp tục cập vào Sài Gòn, không hề bị phe cộng sản ngăn cản. Ngành đánh cá của Nam Việt Nam cung ứng cho Sài Gòn và để xuất khẩu, cũng còn nguyên vẹn.”

Dù nguồn rau xanh đã mất vì không còn Đà Lạt, thịt và cá từ miền Tây vẫn cung cấp đều cho Sài Gòn và các đô thị khác.

Tuy nhiên, phúc trình này đã cảnh báo rằng “nếu phe cộng sản chặn bắt các chuyến vận tải vào Sài Gòn, hoặc chính phủ phải rút quân để bảo vệ thủ đô, thì tình hình có thể không còn tốt như thế”.

Sau ngày 30/04/1975
Bức tranh kinh tế của nước Việt Nam thống nhất một hai năm sau khi chiến sự kết thúc lại hoàn toàn khác: cả hai miền thiếu lương thực trầm trọng.

Một phúc trình khác của CIA vào tháng 10/1978 nói có ba lý do cho việc thiếu gạo này.
1.
Viện trợ, gồm cả gạo của Bắc Kinh cho Hà Nội, để bù vào con số thiếu kinh niên là 800 nghìn tới 1 triệu tấn/năm, bị giảm từ 1974 và cắt hẳn năm 1978.
2.
Thu hoạch lúa của cả hai miền Nam và Bắc đều giảm, vì lý do khách quan, như thiên tai (lụt to ở đồng bằng sông Cửu Long), và sâu bệnh.
3.
Các chính sách sai lầm nghiêm trọng của chính phủ với nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Nếu lấy năm 1974, khi hai miền chưa ghép làm một, là điểm quy chiếu, thì các vấn đề lương thực của miền Bắc (VNDCCH cũ) là không đổi, tức là luôn thiếu.

Sản lượng lương thực, trong đó phần lớn là lúa gạo (chừng 5 triệu tấn/năm), cũng đã luôn thấp hơn miền Nam (VNCH cũ), và trong suốt một thập niên chiến tranh, Hà Nội phải nhập, hoặc nhận viện trợ gạo, lúa mì từ các đồng minh XHCN.

Sau ngày 30/04/1975, Tướng Trần Văn Trà (giữa, đeo kiếng) nắm chức Chủ tịch Uỷ ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định của chính phủ Cách mạng Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Hai miền thống nhất chính thức vào tháng 7/1976.
Vựa lúa VNCH trong khi đó vào năm 1974 đã đem về 7,1 triệu tấn, một con số kỷ lục.
Ngoài diện tích điền sản lớn hơn miền Bắc, còn có ba lý do để lúa ở miền Nam đạt năng suất tốt: dùng giống cao sản, phân hoá học, và có máy móc hiện đại hơn.

Như thế, sản lượng lúa năm 1974 của cả nước là 12,1 triệu tấn (7,1 của miền Nam, 5 triệu của miền Bắc).

Sau 30/04/1975, sản xuất lúa gạo bắt đầu tụt dốc ở miền Nam.

Giới trẻ với niềm vui ngày 2/09/1976 trên đường phố Sài Gòn đã được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh
Việc cắt đứt quan hệ với các nước Phương Tây và tư bản châu Á khiến nguồn phân hoá học không còn, và ngay lập tức năng suất lúa gạo bị giảm.

Xáo trộn về thị trường vì quản lý nặng tay cũng khiến chuỗi cung ứng lúa gạo cho đô thị bị ngưng trệ, vì chừng 160 nghìn người Hoa ở Chợ Lớn tìm cách ra đi.

Việc ngăn sông cấm chợ và lời đe doạ tịch thu ruộng đất, trang trại, vườn rau chính quyền mới đưa ra khiến nông dân mất hứng thú sản xuất.

Chính sách ‘Kinh tế mới’ đem chừng 1,5 triệu người vào các vùng xa đô thị để khai phá, nhằm tăng đất canh tác, có đem lại kết quả về con số.

Chừng 400 nghìn hectare đất nông nghiệp được mở ra, nhưng sản xuất không tiến được vì người ta bỏ trốn về thành phố, vì thiếu thiết bị sản xuất, và phân bón.

Tinh thần làm việc cũng không cao, vì khu kinh tế mới, như lời một nhà báo nước ngoài đến thăm, “không khác gì trại tù Siberia”.

Trận lụt năm 1978 cũng khiến nền kinh tế thêm điêu đứng, sâu rầy cũng phá hoại hoa màu, nhưng yếu tố con người vẫn là chính.

Năm 1977, cả nước chỉ thu hoạch có 11,2 triệu tấn lúa, thấp hơn kế hoạch nhà nước đề ra 1,8 triệu tấn, và kém chỉ tiêu năm 1976 chừng 800 nghìn tấn.

Đó là chưa kể miền Bắc vẫn tiếp tục cần tới 1 triệu tấn gạo từ viện trợ bên ngoài mà nay không còn.

Vì thế, không lạ là từ sau 1975, nhà nước tung ra phong trào ăn độn, với bo bo, khoai mì (sắn), và khoai tây được trồng đại trà bù vào cơm ăn hàng ngày.

Trong việc này, Việt Nam có thành tích đáng kể, theo báo cáo của CIA.

“Các loại ngũ cốc như củ mì, ngô và khoai tây đã tăng từ 900 nghìn tấn năm 1975, lên 1,2 triệu tấn năm 1976 và 1,8 triệu vào năm 1977.”

Một chỉ số ‘có tăng’ khác là vào hai năm 1976 và 1977, số đầu gia súc, nhất là heo, bị nông dân giết mổ nhiều hơn...vì không muốn bị nhà nước tịch thu.

Hệ quả của việc này là sau đó, đàn gia súc miền Nam không phục hồi được, giống như tình hình chung của nền nông nghiệp.

Căng thẳng với Campuchia khiến chương trình Kinh tế mới và việc khai thác nông nghiệp các vùng xa đô thị bị ngưng trệ, rồi chết hẳn.

“Các đơn vị quân đội chủ lực vốn thường được điều vào làm phần một của công tác xây dựng khu Kinh tế mới như dọn mặt bằng, xây mương máng, nay phải chuyển ra biên giới đối mặt với các hoạt động thù địch. Những vụ chạm súng sau đó đã phá nhiều khu kinh tế mới ở Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang, buộc chính quyền phải giảm tốc độ của chương trình đưa người vào các vùng thưa dân giáp biên với Campuchia...”

Chỉ tiêu ‘tự lực về lương thực’ cả nước cho năm 1980 đã hoàn toàn tuột khỏi tầm tay của nhà nước.

Nhưng các vấn đề của nông nghiệp chưa có hướng giải quyết thì bộ máy đã bắt đầu chuyển tầm ngắm vào các khu vực khác của nền kinh tế.

Đó là cải tạo công thương’ ở đô thị từ tháng 3/1978, áp dụng chế độ tem phiếu ngay cả ở TPHCM và thử nghiệm ‘hợp tác hoá’ ở nông thôn.

Nhưng đó là cả một câu chuyện khác và vào thời điểm này, người miền Nam, không chỉ còn là người Hoa, đã bắt đầu tìm cách di tản.

Công dân VN cao niên từ TPHCM đáp xuống sân bay TAA Mascot, Úc sau chuyến bay từ Darwin vào một ngày tháng 6/1977. Làn sóng người Việt Nam bỏ đi bắt đầu sau 1975, đa số vượt biên bằng thuyền.
BBC

https://3.bp.blogspot.com/-ph9FT9JP-Fk/XLWPwU2iMZI/AAAAAAACATs/trDe2f7hSXQddwcIpltQodZjhRiDuYfqgCLcBGAs/s640/1.2.jpg

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

https://lh3.googleusercontent.com/-xS0NEtjK_Tk/YW2QzHb94EI/AAAAAAACRrg/yXj6pOexb3EmvgkEbaXRt1plYH3OFDr_QCLcBGAsYHQ/image.png


DANH NHÂN
CHỐNG TÀU


https://lh3.googleusercontent.com/-N3wReO79ZJI/YW2Q4eS2lWI/AAAAAAACRrk/OUMLTCQFoGcksJWXxAVMEwGA417Y9oNIACLcBGAsYHQ/w640-h454/image.png


https://2.bp.blogspot.com/-uyWgaJdONrc/Wa_k7HS2t3I/AAAAAAABF5g/esHiGfeFyGkuLWpTaRqYamuwWM57dxHtQCLcBGAs/w640-h360/103.jpg

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

TRẦN QUÔC TOẢN


Mỗi chúng ta khi đọc văn, học sử Việt Nam thời nhà Trần đều tự hào về một giai đoạn lịch sử hào hùng với những con người vĩ đại đã lập nên những chiến công hiển hách để bảo vệ đất nước trước nạn ngoại xâm. Nếu bảo kể tên tuổi, tiểu sử các vị vua, các vương hầu, võ tướng nhà Trần trong nửa  sau thế kỷ XIII thì ai cũng có thể tường tận tiểu sử nhiều người: Vua Trần Thánh Tông, Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn…

Nhưng thử đề nghị nêu tiểu sử người anh hùng tuổi thiếu niên Trần Quốc Toản thì có lẽ tất cả sẽ lúng túng và chỉ có thể viết được tên, ghi lại được các chiến công, còn tiểu sử chi tiết thì… chịu. Đã có biết bao tác phẩm văn, sử viết về Trần Quốc Toản nhưng cũng chưa nói được gì thêm điều đó. Thành thử, xung quanh thân thế, sự nghiệp Trần Quốc Toản trên 7 thế kỷ nay bao phủ một màn huyền thoại đến nỗi có ý kiến đặt vấn đề rằng đó có thể chỉ là một hình tượng văn học được dựng lên để làm phong phú thêm tác phẩm.

Chỗ khuyết thiếu trong tiểu sử Trần Quốc Toản có thể một phần do nhà chép sử, cũng có thể do hoàn cảnh đất nước nhiều thế kỷ luôn luôn ở trong tình trạng có chiến tranh nên không thể lưu trữ và giữ gìn toàn vẹn các sử liệu. Tư liệu lịch sử thành văn có thể chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng những di tích, di vật – những sử liệu sống, có thể bổ sung để lưu danh những người có công với nước. Về làng Sặt (nay là thôn Trang Liệt, xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) chúng ta có thể bổ sung thêm nhiều tư liệu giúp điền khuyết tiểu sử Trần Quốc Toản, thêm vào đó là tận mắt chứng kiến các di tích, di vật liên quan đến gia đình Trần Quốc Toản còn hiện hữu ở đó. Trần Quốc Toản sinh năm Mậu Thìn (1268) tại trang Bà Liệt, làng Sặt, là con trai của Trần Bà Liệt và là cháu nội của Thượng hoàng Trần Thừa (1184 – ?).

Trần Bà Liệt là một đô vật nổi danh khắp xứ Đông Ngàn (nay là Từ Sơn), trấn Kinh Bắc, được nhân dân suy tôn là “Đô Liệt”, sau được sung quân phục vụ triều Trần, trở thành võ tướng. Khi quân Nguyên Mông có âm mưu xâm lược nước ta thì ông được vua Trần Thánh Tông (1258 – 1278) phong chức Hoài Đức vương, chỉ huy một đạo quân phòng thủ. Chi tiết này rất quan trọng để khẳng định nguồn gốc xuất thân của Trần Quốc Toản.

Ngoài các chi tiết đã biết, chúng ta phải làm phép so sánh với các sự kiện lịch sử đương thời để lý giải, cắt nghĩa, từ đó dựng được tiểu sử chân xác của Trần Quốc Toản. Chàng là con nhà võ, ham học sử, đọc sách nên tinh thông cả võ nghệ và giỏi văn chương, xứng đáng là bậc hậu thế tài danh của nhà Trần. Tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282), khi vua Trần triệu tập Hội nghị Bình Than (tên bến ở sông Lục Đầu, thuộc xã Trần Xá, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) bàn kế đánh giặc, Trần Quốc Toản mới 15 tuổi (theo cách tính tuổi theo âm lịch); theo đó, có thể suy ra Trần Quốc Toản sinh năm 1268. Thế là có thêm một căn cứ chính xác.

Các sự kiện tiếp sau thì nhưng chúng ta đã biết: Do Trần Quốc Toản còn nhỏ, vua không cho dự bàn việc nước, chỉ khen ngợi và ban cho một quả cam; Trần Quốc Toản vì mải nghĩ việc lớn, vừa căm thù giặc vừa thẹn mình chưa được coi là người lớn, đã bóp nát quả cam trong tay lúc nào không biết. Chi tiết này đã được các tác phẩm văn học khai thác, trở thành chi tiết không thể thiếu khi nói về Trần Quốc Toản. Trần Quốc Toản đã bí mật tập quân, rèn binh, sắm vũ khí… được hơn một nghìn nghĩa binh trẻ tuổi, dựng cờ “Phá cường địch, báo Hoàng ân” chờ ngày diệt giặc.

Năm 1285, khi quân Nguyên kéo sang, Trần Quốc Toản đã chỉ huy quân sĩ anh dũng đánh địch. Chàng đã lập được nhiều chiến công với các chiến thắng Tây Kết (trên sông Hồng, thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), Như Nguyệt (nằm trong đoạn Thị Cầu, Bắc Ninh hiện nay)… Đội quân của chàng được triều đình công nhận và tước danh Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản được phong trong chiến trận. Trung tuần tháng 6 năm 1285, trong trận chiến đấu với bọn tàn quân giặc ở sông Như Nguyệt, Trần Quốc Toản anh dũng hy sinh khi mới 18 tuổi (cũng theo cách tính tuổi theo âm lịch). Chính vua Trần Nhân Tông đã làm văn tế, truy vong tước vương (Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển V, chép rất rõ điều này). Căn cứ sự kiện trên, có thể khẳng định thêm một lần nữa: Năm sinh – năm mất của Trần Quốc Toản là 1268 – 1285.

Nói thêm về quê hương Trần Quốc Toản: Hầu như chưa có tư liệu tin cậy về quê nội của người anh hùng. Làng Sặt là quê mẹ của Trần Bà Liệt, cũng tức là quê ngoại của Trần Quốc Toản. Hiện ở đó còn dấu tích khu ruộng 41 mẫu, xưa kia là “Rừng Sặt”, nơi có “Trần triều sơn lăng”, từng được ghi trong địa bạ. Hương ước của làng cũng quy định khu ruộng đó được dành riêng để trồng cây lấy gỗ phục vụ việc kiến thiết và tu sửa đình chùa. Đình làng Sặt thờ Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. Khi Trần Bà Liệt mất, thi hài ông được đưa về an táng tại đây.

Theo đó, có thể khẳng định làng Sặt là đất thang mộc của nhà Trần, nơi có gia trang của Hoài Đức Vương Trần Bà Liệt. Làng Trang Liệt hôm nay là làng Văn hoá cấp Quốc gia, một địa chỉ văn hoá được đón nhiều đoàn khách về tham quan, học tập, cổ vũ cho một vùng quê văn hiến đang phát triển trong thời đại mới, cùng góp phần bồi đắp truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Đỗ Quốc Bảo
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

PHẢI CHĂNG TRẦN QUỐC TOẢN
LÀ CON CỦA TRẦN BÀ LIỆT?


Vừa qua, tạp chí Xưa & Nay, số 265,tháng 8-2006 đăng bài: “Có thể điền khuyết tiểu sử Trần Quốc Toản?” của ông Đỗ Quốc Bảo và tác giả đã cho rằng, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản là con trai của Hoài Đức Vương Trần Bà Liệt. Ông Đỗ Quốc Bảo cho biết có kết luận trên là căn cứ vào những “di tích, di vật – những sử liệu sống” đang hiện hữu ở làng Sặt, thôn Trang Liệt, xã Đông Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Rất tiếc là sau khi đọc kỹ toàn bộ bài viết của ông Đỗ Quốc Bảo, chúng tôi không thấy được những căn cứ rõ ràng nào để có thể nhất trí với kết luận của tác giả.

Trong bài viết, ông Bảo chưa cho biết cụ thể những di tích, di vật ở làng Sặt là những gì? Chúng có liên quan tới các nhân vật Trần Bà Liệt, Trần Quốc Toản như thế nào? Chỉ ở gần cuối bài viết, tác giả mới cho biết, ở đình làng Sặt có thờ Thượng tướng, Thái sư Trần Quang Khải (!).

Trong những bộ sử lớn của nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư (TT) và Việt sử thông giám cương mục (CM) chỉ duy nhất một lần nói đến nhân vật Trần Bà Liệt. TT cho biết, khi còn hàn vi, Thượng hoàng Trần Thừa (sinh năm 1183, mất năm 1234), có con trai với người đàn bà ở thôn Bà Liệt, thuộc huyện Tây Chân (nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), nhưng ngài không nhận; Sau này lớn lên, người con trai đó có dung mạo khôi ngô, giỏi võ nghệ và sung vào đội đánh vật của triều đình. Một lần thi đấu, chàng trai bị đối thủ quật ngã và bị bóp cổ gần tắc thở, thấy vậy Thượng hoàng bật thét lên “Nó là con ta đó!”. Nhận lại con, Thượng hoàng lấy tên thôn gọi người đó là Trần Bà Liệt và phong tước hiệu là Hoài Đức Vương.

Sự việc này xảy ra vào đầu năm 1232, và nếu cho rằng “Đô Liệt” là chàng trai mới lớn, khoảng độ 19 – 20 tuổi (nhà Trần làm sổ hộ khẩu, xếp con trai dưới 19 tuổi là Tiểu Hoàng nam, từ 20 tuổi đến 59 tuổi là Đại Hoàng nam), thì Trần Bà Liệt được sinh vào khoảng những năm 1213 – 1214. Cũng dựa vào sử và đoán rằng, khi Trần Quốc Toản nổi giận bóp nát quả cam ở bến Bình Than vào mùa đông năm 1282 (vì bị coi là còn nhỏ nên không được dự bàn việc đánh giặc), mới 14 – 15 tuổi thì năm sinh của Hoài Văn hầu sẽ là năm 1267 hoặc 1268. Và nếu cho rằng, Trần Quốc Toản là con của Trần Bà Liệt thì đến năm 53 – 54 tuổi, Trần Bà Liệt mới có con là Trần Quốc Toản. Xin lưu ý rằng, vào thời đó hầu hết đàn ông, đặc biệt là tầng lớp quan lại và giàu có thường lấy vợ rất sớm, và mới 17, 18 tuổi họ đã có con. Vậy tới tuổi già, Trần Bà Liệt mới có được Trần Quốc Toản cũng là chuyện lạ.

Cũng theo sử sách, chúng ta được biết những người con trai của Thượng hoàng Trần Thừa gồm có:

– Trần Liễu (1210 – 1251), 41 tuổi thọ, là thân sinh của các vị: Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, Hưng Ninh vương Trần Tung, Vũ Thành vương Trần Doãn, Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang (mang danh là con trưởng của vua Thái Tông Trần Cảnh sau khi mẹ là công chúa Thuận Thiên họ Lý, buộc phải rời chồng là Trần Liễu để trở thành vợ của vua em).

– Trần Bà Liệt (1213 – ?).

– Trần Cảnh (1218 – 1277) tuổi thọ 59, tức là Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của nhà Trần, ngài là thân sinh của các vị: Trần Hoảng (Trần Thánh Tông), Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, Vũ Uy vương Trần Duy và Trần Nhật Vĩnh (có thể mang tước Chiêu Thành vương).

– Khâm Thiên đại vương Trần Nhật Hiệu (1224 – 1268), tuổi thọ 44.

Như vậy là vua Thái Tông Trần Cảnh chỉ có 3 người anh em trai theo sử sách thì nhà vua là người rất yêu thương quý trọng những người anh em của mình, ngài luôn chú tâm cất nhắc và tôn vinh với những chức tước rất lớn cho họ; cụ thể là với Trần Liễu – người anh khác mẹ, có tính khí táo tợn, ngông cuồng phạm nhiều tội lỗi nặng nhưng nhà vua vẫn kiên nhẫn bảo vệ và tôn kính. Ngài đã từng phong cho Trần Liễu làm Thái uý phụ chính, chức quan hàng đầu được nắm binh quyền và cũng từng phong cho người anh này tước Hiển hoàng, một tước hiệu chỉ dành cho các bậc cha chú của nhà vua. Đối với người em là Trần Nhật Hiệu, mới có 2 tuổi đã được nhà vua phong tước Khâm Thiên đại vương, và khi 34 tuổi đã được làm Thái uý, cầm đầu đạo quân tinh nhuệ “Tinh Cương” để chống giặc Mông Cổ năm 1285. Mặc dù Nhật Hiệu lộ rõ là bất tài, hèn kém, vô dụng nhưng sau này, nhà vua vẫn ưu ái cho làm Tướng quốc Thái uý (vua cho làm Thái sư, đứng đầu các quan nhưng Nhật Hiệu xấu hổ không dám nhận).

Với nhà vua giàu lòng ưu ái quý trọng anh em như vậy thì lẽ nào Trần Bà Liệt, một người có tinh thần thượng võ lại không được nhà vua chú ý cất nhắc, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến đầu tiên chống quân Mông Cổ, triều đình rất cần các quan, tướng, đặc biệt là các vị thân vương nắm giữ những trọng trách cũng như cầm đầu các đạo quân lớn để chống giặc dữ. Cũng cần biết thêm là vào thời điểm này, nếu còn sống thì Trần Bà Liệt đang ở độ tuổi 44, 45, độ tuổi sung mãn nhất của một đời người.

Với những suy nghĩ trên, chúng tôi đoán rằng Hoài Đức vương Trần Bà Liệt đã mất sớm, mất trước khi có cuộc xâm lăng của giặc Mông Cổ năm 1258. Và như vậy thì không thể có chuyện Trần Quốc Toản là con trai của Trần Bà Liệt.

Nhân đây cũng cần nêu một vấn đề dễ gây lấn cấn cho người đọc, đó là việc trùng lặp chữ “Hoài” trong tước hiệu của Trần Bà Liệt và Trần Quốc Toản. “Hoài” theo nhiều từ điển cũng như nhận thức có tính phổ thông trong xã hội là ước vọng, là hướng về điều gì đó; ở phương Đông thời trung đại, các thủ lĩnh khởi nghiệp thường tự xưng là Hoài Nhân, Hoài Nghĩa, Hoài Đức… nhằm thể hiện cái “Đạo”, cái ước vọng, lý tưởng tranh đấu của mình (cũng có thể là thủ đoạn mị dân). Và đối với một triều đình, nhà vua phong tước vương, tước hầu có chữ “Hoài” thường là thể hiện sự khuyên nhủ, mong muốn hoặc nhắc nhở đối với kẻ bầy tôi còn có những điều gì đó phải biết tự răn mình.

Và ở lịch sử nước ta, đầu nhà Trần đã có Nguyễn Nộn, một thủ lĩnh cát cứ đối chọi với triều Trần đã tự xưng là Hoài Vương và sau này, để chiêu dụ ông ta, nhà Trần dã phong cho Nguyễn Nộn là Hoài Đạo Hiếu Vũ vương; Trần Liễu với tước Hiển Hoàng nhưng phạm lỗi đã bị giáng xuống làm Hoài vương; một người trạc tuổi Trần Quốc Toản cũng không được họp bàn việc quân ở bến Bình Than là Trần Kiệt cũng mang tước hiệu là Hoài Nhân vương… Như vậy, ở trong triều đình nhà Trần không chỉ duy nhất Trần Bà Liệt có tước hiệu mang chữ “Hoài”. Mặt khác, cũng cần biết rằng, trong một gia đình hoàng thân nhà Trần không nhất thiết chữ đầu trong tước hiệu của người con phải là chữ đầu trong tước hiệu của người cha, ví như con trai của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải là Trần Đạo Tái lại mang tước hiệu Văn Túc vương. Nêu những ý kiến trên, chúng tôi cho rằng khi tìm hiểu nguồn gốc mà cụ thể là người cha của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản thì không nhất thiết phải tìm người trước đó có tước hiệu mang chữ “Hoài”.

Cũng qua việc đoán định năm sinh của Trần Quốc Toản (1267, 1268), chúng tôi cho rằng, trong dòng họ Trần (mà lấy Trần Thừa là bậc đầu tiên) thì Trần Quốc Toản không thể ở bậc thứ ba, hàng cháu của Thượng hoàng Trần Thừa như ông Đỗ Quốc Bảo đã kết luận, mà có lẽ phải đặt Trần Quốc Toản ở bậc thứ tư, tức là hàng cháu của vua Thái Tông Trần Cảnh, hàng chít của Thượng hoàng Trần Thừa và như vậy người cha của Trần Quốc Toản phải ở bậc thứ ba, cùng hàng với các vị Trần Hoảng (Trần Thánh Tông), Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải.

Hoàng Dzự
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [31] [32] [33] [34] [35] [36] [37] ... ›Trang sau »Trang cuối