Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 6]


ĐỢT 2


Tại hướng Bắc

Do tiếp cận chiến trường muộn hơn các đơn vị khác, phải đến 16 giờ chiều 27 tháng 4, Quân đoàn 1 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mới đưa được những đơn vị chủ lực của mình bước vào chiến đấu. Trên mũi tấn công chủ yếu, sư đoàn 320B - được tăng cường tiểu đoàn xe tăng 66 của Lữ đoàn 202, một đại đội xe tăng độc lập, một tiểu đoàn công binh công trình, một tiểu đoàn pháo 130 mm, có cụm pháo của lữ đoàn pháo binh 45 (đoàn Tất Thắng) yểm hộ - đã tấn công chi khu Tân Uyên và sân bay Ông Lĩnh, đánh thông đoạn phía đông đường 16, mở đường đột phá sâu vào trung tâm Sài Gòn, tiến đến Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, một trong năm mục tiêu quan trọng nhất của chiến dịch. Một số trận đánh ác liệt nổ ra tại chi khu quân sự Tân Uyên, ngã ba Bình Chuẩn, Thuần Giáo, Búng, Tân Hiệp. Tiểu đoàn bảo an 316 Quân lực Việt Nam Cộng hoà và một trung đội cảnh sát dã chiến tại Tân Uyên đã dựa vào công sự vững chắc, cầm cự được suốt đêm 27 tháng 4. Trên đường tiến, Sư đoàn 320B chỉ để lại một số lực lượng đủ để cô lập các chốt chặn dọc đường của các tiểu đoàn bảo an 317, 321, 346; còn các lực lượng chủ yếu đều nhanh chóng vượt sông Sài Gòn, tiến vào nội đô. Đến sáng 28 tháng 4, viên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 316 và 35 binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hoà còn sống sót đã đầu hàng. Đường tấn công của Quân đoàn 1 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (đường 16) từ Tân Uyên qua Búng đến Lái Thiêu đã được mở thông.

Tại mũi thứ yếu, phát hiện sư đoàn 312 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang bao vây căn cứ Phú Lợi, tiến công Lai Khê; tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh sư đoàn 5 Quân lực Việt Nam Cộng hoà sử dụng chiến đoàn 7, có xe tăng yểm hộ cố giải toả đường 13 và 14, đồng thời tăng cường cho cứ điểm An Lợi. Nhưng khi đoàn xe di chuyển đến khu vực Tam Giáo thì rơi đúng vào mũi tấn công của chủ lực sư đoàn 312, có lữ đoàn xe tăng 202 (thiếu) yểm hộ. Sau khi bị bắn cháy ba chiếc xe đi đầu, chiến đoàn 7 Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã bị tách khỏi chủ lực sư đoàn 5 ở Lai Khê và toàn bộ sư 5 cũng bị cô lập ở phía Bắc Thủ Dầu Một. Trên đường vào nội đô, Quân đoàn 1 còn phải khắc phục các bãi mìn, vật cản chống xe tăng, xe cơ giới, có chỗ rộng đến 100 m, dài hơn 200 m. Đến 15 giờ ngày 29 tháng 4, sau khi gỡ hết các mìn chống tăng, mở đường vòng tránh và sử dụng tù binh dẫn đường, Quân đoàn 1 đã tập kết trước cứ điểm Lái Thiêu và chỉ còn cách trung tâm Sài Gòn - Gia Định khoảng 15 km.

3 giờ sáng 30 tháng 4, sư đoàn 320 tấn công đánh chiếm Lái Thiêu và Trung tâm huấn luyện quân sự Huỳnh Văn Lương, bức hàng hơn 2000 sĩ quan, binh lính Quân lực Việt Nam Cộng hoà, trong đó có viên chỉ huy trưởng trung tâm, trung tá Nguyễn Văn Hinh và trung tá Nguyễn Thái Bình, chỉ huy trưởng chi khu Lái Thiêu. Trước nguy cơ bị tiêu diệt và tan rã, ngày 29 tháng 4, chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh thứ 19 của sư đoàn 5 - Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã tự sát trong căn cứ. Đại tá Nguyễn Mạnh Tường, phó tư lệnh sư đoàn 5, tiểu khu trưởng Bình Dương, các viên trung đoàn trưởng trung đoàn 7, 8, 9 đã kéo cờ trắng xin hàng. 10 giờ sáng 30 tháng 4, sư đoàn 312 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đánh chiếm xong các căn cứ Lai Khê, Bến Cát, Lái Thiêu. Cụm phòng thủ phía Bắc Sài Gòn của Quân lực Việt Nam Cộng hoà tan vỡ.

Từ 9 giờ ngày 30 tháng 4, Quân đoàn 1 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lần lượt đánh chiếm Bộ tư lệnh thiết giáp, Bộ tư lệnh lục quân công xưởng, Tổng kho quân nhu, Tổng y viện Quân lực Việt Nam Cộng hoà, căn cứ 31, căn cứ 60, quận lỵ Gò Vấp, Trung tâm truyền tin điện tử; đánh tan cụm phòng thủ Bắc cầu Bình Triệu do các thiết đoàn 15, 18, 22 của Lữ đoàn 3 kỵ binh và 2 tiểu đoàn dù chốt giữ, thu 144 xe tăng, xe thiết giáp, bắt hơn 1500 tù binh. Lúc 10 giờ 30 phút, sư đoàn 320B đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, sư đoàn 312 đãnh chiếm trụ sở Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hoà. Những mục tiêu quan trọng cuối cùng trong nội đô Sài Gòn được giao cho Quân đoàn 1 chiếm lĩnh đều được giải quyết trong ngày 30 tháng 4. Tại các mục tiêu quan trọng bị đánh chiếm như Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hoà, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hoà, Tổng nha Cảnh sát; Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thu được rất nhiều tài liệu cơ mật của các cơ quan này. Tất cả đều được giao cho Bộ tổng tham mưu Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Công an Giải phóng miền Nam Việt Nam quản lý, khai thác.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 6]


ĐỢT 2


Tại hướng Bắc

Do tiếp cận chiến trường muộn hơn các đơn vị khác, phải đến 16 giờ chiều 27 tháng 4, Quân đoàn 1 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mới đưa được những đơn vị chủ lực của mình bước vào chiến đấu. Trên mũi tấn công chủ yếu, sư đoàn 320B - được tăng cường tiểu đoàn xe tăng 66 của Lữ đoàn 202, một đại đội xe tăng độc lập, một tiểu đoàn công binh công trình, một tiểu đoàn pháo 130 mm, có cụm pháo của lữ đoàn pháo binh 45 (đoàn Tất Thắng) yểm hộ - đã tấn công chi khu Tân Uyên và sân bay Ông Lĩnh, đánh thông đoạn phía đông đường 16, mở đường đột phá sâu vào trung tâm Sài Gòn, tiến đến Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, một trong năm mục tiêu quan trọng nhất của chiến dịch. Một số trận đánh ác liệt nổ ra tại chi khu quân sự Tân Uyên, ngã ba Bình Chuẩn, Thuần Giáo, Búng, Tân Hiệp. Tiểu đoàn bảo an 316 Quân lực Việt Nam Cộng hoà và một trung đội cảnh sát dã chiến tại Tân Uyên đã dựa vào công sự vững chắc, cầm cự được suốt đêm 27 tháng 4. Trên đường tiến, Sư đoàn 320B chỉ để lại một số lực lượng đủ để cô lập các chốt chặn dọc đường của các tiểu đoàn bảo an 317, 321, 346; còn các lực lượng chủ yếu đều nhanh chóng vượt sông Sài Gòn, tiến vào nội đô. Đến sáng 28 tháng 4, viên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 316 và 35 binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hoà còn sống sót đã đầu hàng. Đường tấn công của Quân đoàn 1 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (đường 16) từ Tân Uyên qua Búng đến Lái Thiêu đã được mở thông.

Tại mũi thứ yếu, phát hiện sư đoàn 312 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang bao vây căn cứ Phú Lợi, tiến công Lai Khê; tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh sư đoàn 5 Quân lực Việt Nam Cộng hoà sử dụng chiến đoàn 7, có xe tăng yểm hộ cố giải toả đường 13 và 14, đồng thời tăng cường cho cứ điểm An Lợi. Nhưng khi đoàn xe di chuyển đến khu vực Tam Giáo thì rơi đúng vào mũi tấn công của chủ lực sư đoàn 312, có lữ đoàn xe tăng 202 (thiếu) yểm hộ. Sau khi bị bắn cháy ba chiếc xe đi đầu, chiến đoàn 7 Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã bị tách khỏi chủ lực sư đoàn 5 ở Lai Khê và toàn bộ sư 5 cũng bị cô lập ở phía Bắc Thủ Dầu Một. Trên đường vào nội đô, Quân đoàn 1 còn phải khắc phục các bãi mìn, vật cản chống xe tăng, xe cơ giới, có chỗ rộng đến 100 m, dài hơn 200 m. Đến 15 giờ ngày 29 tháng 4, sau khi gỡ hết các mìn chống tăng, mở đường vòng tránh và sử dụng tù binh dẫn đường, Quân đoàn 1 đã tập kết trước cứ điểm Lái Thiêu và chỉ còn cách trung tâm Sài Gòn - Gia Định khoảng 15 km.

3 giờ sáng 30 tháng 4, sư đoàn 320 tấn công đánh chiếm Lái Thiêu và Trung tâm huấn luyện quân sự Huỳnh Văn Lương, bức hàng hơn 2000 sĩ quan, binh lính Quân lực Việt Nam Cộng hoà, trong đó có viên chỉ huy trưởng trung tâm, trung tá Nguyễn Văn Hinh và trung tá Nguyễn Thái Bình, chỉ huy trưởng chi khu Lái Thiêu. Trước nguy cơ bị tiêu diệt và tan rã, ngày 29 tháng 4, chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh thứ 19 của sư đoàn 5 - Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã tự sát trong căn cứ. Đại tá Nguyễn Mạnh Tường, phó tư lệnh sư đoàn 5, tiểu khu trưởng Bình Dương, các viên trung đoàn trưởng trung đoàn 7, 8, 9 đã kéo cờ trắng xin hàng. 10 giờ sáng 30 tháng 4, sư đoàn 312 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đánh chiếm xong các căn cứ Lai Khê, Bến Cát, Lái Thiêu. Cụm phòng thủ phía Bắc Sài Gòn của Quân lực Việt Nam Cộng hoà tan vỡ.

Từ 9 giờ ngày 30 tháng 4, Quân đoàn 1 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lần lượt đánh chiếm Bộ tư lệnh thiết giáp, Bộ tư lệnh lục quân công xưởng, Tổng kho quân nhu, Tổng y viện Quân lực Việt Nam Cộng hoà, căn cứ 31, căn cứ 60, quận lỵ Gò Vấp, Trung tâm truyền tin điện tử; đánh tan cụm phòng thủ Bắc cầu Bình Triệu do các thiết đoàn 15, 18, 22 của Lữ đoàn 3 kỵ binh và 2 tiểu đoàn dù chốt giữ, thu 144 xe tăng, xe thiết giáp, bắt hơn 1500 tù binh. Lúc 10 giờ 30 phút, sư đoàn 320B đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, sư đoàn 312 đãnh chiếm trụ sở Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hoà. Những mục tiêu quan trọng cuối cùng trong nội đô Sài Gòn được giao cho Quân đoàn 1 chiếm lĩnh đều được giải quyết trong ngày 30 tháng 4. Tại các mục tiêu quan trọng bị đánh chiếm như Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hoà, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hoà, Tổng nha Cảnh sát; Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thu được rất nhiều tài liệu cơ mật của các cơ quan này. Tất cả đều được giao cho Bộ tổng tham mưu Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Công an Giải phóng miền Nam Việt Nam quản lý, khai thác.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 7]


Tại hướng Tây Bắc

Đêm 28 tháng 4, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã điều động Sư đoàn 320A (thiếu) tiềm nhập vào khu vực Củ Chi bằng một cuộc hành quân bí mật ban đêm. Đơn vị này được tăng cường một tiểu đoàn pháo 155 mm, một trung đoàn phòng không. 5 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4, các đơn vị này bất ngờ nổ súng tấn công căn cứ Đồng Dù, sở chỉ huy của Sư đoàn 25 - Quân lực Việt Nam Cộng hoà do chuẩn tướng Lý Tòng Bá làm sư đoàn trưởng. Tại căn cứ này, tướng Bá nắm trong tay hơn 3000 quân, 34 xe tăng, xe bọc thép, 4 khẩu pháo M107 175 mm, 4 khẩu 155 mm, 10 khẩu 105 mm để thực hiện ý đồ tử thủ đến cùng. Sau cuộc pháo kích kéo dài 2 giờ đồng hồ, Sư đoàn 320A và các đơn vị phối thuộc tràn vào căn cứ Đồng Dù. Lúc 8 giờ, ba chiếc xe tăng T-54 được phối thuộc cho sư đoàn 320A bị bắn cháy tại cửa mở nhưng cũng đổi được ba chiếc M-48 của trung đoàn 10 thiết giáp Quân lực Việt Nam Cộng hoà đóng tại căn cứ này. Lúc 9 giờ 30 phút, đại tá Nguyễn Kim Tuấn và Ban Chỉ huy sư đoàn 320A điều trung đoàn 9 và 8 xe tăng còn lại của tiểu đoàn thiết giáp từ lực lượng dự bị tiếp tục tăng cường cho trung đoàn 48 tấn công dứt điểm căn cứ Đồng Dù. Đến 10 giờ 30 phút cùng ngày, các chốt kháng cự của sư đoàn 25 - Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại Đồng Dù lần lượt bị dập tắt. Quân lực Việt Nam Cộng hoà điều trung đoàn 46 từ Trảng Bàng phản kích nhưng đã bị trung đoàn 9 chặn đứng. 11 giờ cùng ngày, sư đoàn 320A hoàn thành việc đánh chiếm căn cứ Đồng Dù. Chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn 25 Lý Tòng Bá và đại tá sư đoàn phó Trần Thăng Chức chạy trốn ra rừng cao su Bắc Hà nhưng đã bị du kích Củ Chi phục bắt.[66] Và ngày này trở thành ngày kỷ niệm giải phóng Củ Chi

Căn cứ Đồng Dù thất thủ làm cho phía sau tuyến phòng thủ vòng ngoài của Quân lực Việt Nam Cộng hoà từ Củ Chi đến Gò Dầu Hạ bị hở sườn, hở lưng. Sư đoàn 316 tại Phước Mỹ, Phước Hiệp, Trảng Bàng chuyển từ thế vây ép sang thế tấn công vào liên đoàn 32 biệt động quân, bắt sống trung tá liên đoàn trưởng Lê Khải Toàn, đồng thời tiêu diệt các lực lượng còn sót lại của sư đoàn 25 Quân lực Việt Nam Cộng hoà và lực lượng biệt động quân trên đường số 1 và 2, chiếm chi khu Trảng Bàng, giải phóng hầu hết tỉnh Tây Ninh. Sư đoàn 10 được tăng cường trung đoàn 64 (từ Sư đoàn 320A), trung đoàn xe tăng 273, trung đoàn đặc công 198 đã chia thành 2 hướng và mở cuộc tấn công từ Củ Chi vào Liên đoàn 9 biệt động quân và hai liên đoàn bảo an tại Hậu Nghĩa, phát triển đến khu vực cầu Bông và chiếm cầu chỉ sau 50 phút giao chiến. Mũi thứ hai của cánh quân này là trung đoàn 28 đánh chiếm cầu Sáng, thành Quan Năm, quận lỵ Hóc Môn, quân trường Quang Trung, đến trưa ngày 29 đã có mặt tại ngã tư Bà Quẹo; trung đoán Gia Định được tăng cường tiểu đoàn 195 gây thiệt hại cho 1 đại đội biệt động quân ờ Tân Thới Thượng, tiến công các chi khu Xuân Thế Thượng, Tân Thới Thất rồi phát triển ra quốc lộ 1, làm chủ Tham Lương. Tại khu nhà máy dệt Vinatexco và ngã tư Bảy Hiền, Quân lực Việt Nam Cộng hoà sử dụng một tiểu đoàn biệt động quân, một tiểu đoàn bảo an và một chi đoàn thiết giáp tổ chức chống cự nhưng bị đánh tan lúc 19 giờ 30 phút cùng ngày sau ba đợt phản kích. Cánh cửa phía Tây Bắc Sài Gòn đã được mở ra.

5 giờ 30 phút sáng 30 tháng 4, sau một trận pháo kích từ tất cả các cỡ súng lớn của quân đoàn, sư đoàn 10 và hai đại đội xe tăng của trung đoàn thiết giáp 273 - Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công sân bay Tân Sơn Nhất, bộ tư lệnh thiết giáp, bộ tư lệnh không quân và sở chỉ huy trung đoàn 5 không quân Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Lữ đoàn dù 4 (thiếu), một tiểu đoàn của liên đoàn bảo an 391 cùng hai đại đội quân cảnh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà lùi về phòng thủ tại khu vực cổng số 5 của sân bay nhưng chỉ chống cự được hơn một giờ và tan rã sau hai đợt tập kích. Đến 10 giờ 30 phút, sư đoàn 10 với sự dẫn đầu của nữ biệt động Nguyễn Thị Trung Tiên đã tiến vào sân bay Tân Sơn Nhất qua hai cổng 4, 5 và hầu như đã chiếm trọn sân bay Tân Sơn Nhất, khu ra đa điều hành không lưu, Sở chỉ huy Sư đoàn 5 không quân, Sở chỉ huy sư đoàn dù, bắt liên lạc với hai phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại trại Davis. Sư đoàn 320A tách trung đoàn 28 sang phối hợp với Quân đoàn 1 đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, điều trung đoàn 64 có một đại đội xe tăng K-63 (PT-85) đi kèm tiến về phía sau Dinh Độc Lập qua đường Lê Văn Duyệt và đường Hồng Thập Tự còn trung đoàn 24 và 2 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn xe tăng 273 thì phối hợp với trung đoàn 48 sư đoàn 320B (Quân đoàn 1) đánh chiếm bộ tổng tham mưu Việt Nam Cộng hoà. Khi các đơn vị này đến nơi thì các đơn vị phái đi trước của lữ đoàn xe tăng 203 và trung đoàn 66 (sư đoàn 304) đã có mặt tại Dinh Độc Lập trước đó 30 phút. Ngoài ra 2 trung đoàn 316 và 320 thì tiếp tục truy quét sư đoàn 25 Quân lực Việt Nam Cộng hoà, giải phóng Củ Chi, Hóc Môn và Tây Ninh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 8]


Tại hướng Đông Bắc

Chướng ngại cuối cùng đối với Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên đường tiến vào Sài Gòn là khu phòng thủ Hố Nai - Long Bình - Tam Hiệp do nhữug lực lượng còn lại của Sư đoàn 18, 2 tiểu đoàn còn lại của Lữ đoàn kỵ binh thiết giáp số 3 và Liên đoàn bảo an 318 phòng thủ. Tại đây, tướng Lê Minh Đảo đã cho đào 4 lớp hào chống tăng, đặt âm các xe tăng trong công sự, hình thành nhiều ổ đề kháng cố định và cơ động. Để giải quyết nhanh cụm phòng thủ này, ngày 29 tháng 4, tướng Hoàng Cầm một mặt sử dụng 1 trung đoàn của sư đoàn 341 và trung đoàn pháo binh 55 dùng hoả lực chế áp các cứ điểm phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, mặt khác điều 2 trung đoàn 266 và 270 phối hợp với sư đoàn 6 vòng qua cụm chốt đánh chiếm sân bay Biên Hoà, Sở chỉ huy Quân đoàn III - Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Sở chỉ huy sư đoàn 3 không quân, trận địa pháo Hốc Bà Thức và tổng kho Long Bình. 4 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) đã có mặt tại cầu cầu Ghềnh. Do cầu yếu (trọng tải 12 tấn/lượt xe), toàn bộ xe tăng của Quân đoàn 4 phải di chuyển qua cầu Xa lộ để vào Sài Gòn. Tại ngã ba Tam Hiệp, tướng Lê Minh Đảo cố gắng lập một cụm chốt phòng ngự nhưng cũng bị đánh tan lúc 11 giờ trưa ngày 30 tháng 4. 12 giờ 30 phút, các đơn vị phái đi trước của trung đoàn 14, sư đoàn 7, Quân đoàn 4 hội quân với trung đoàn 66, sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tại Dinh Độc Lập đúng lúc Tổng thống Dương Văn Minh đã đọc xong lời tuyên bố đầu hàng không điều kiện trên Đài phát thanh Sài Gòn.

Tại hướng Tây Nam
Đêm 29 tháng 4, Sư đoàn 9 đảm nhận mũi tấn công chủ yếu của đoàn 232 cùng với hai tiểu đoàn xe tăng sau khi vượt qua các chướng ngại đồng lầy, sông nước tại Long An đã sử dụng trung đoàn 1 đánh chiếm cầu Bà Lác, ngã năm Vĩnh Lộc, theo đường Lê Văn Duyệt tấn công Bộ tư lệnh Biệt khu Thủ đô; trung đoàn 2 được tăng cường 7 xe tăng T-54, 16 xe bọc thép BTR-60, 2 xe M-113 hình thành mũi tấn công thứ hai vào Bộ tư lệnh Biệt khu Thủ đô qua ngả An Ninh, Mỹ Hạnh. Trung đoàn 3 của sư đoàn này có 3 xe tăng T-54, 6 xe BTR60 đã tiêu diệt sở chỉ huy liên đoàn 8 và tiểu đoàn quân 88 trên tuyến vành đai Đại Hàn; tiếp đó đánh tan tiểu đoàn bảo an 327 ở nam Vĩnh Lộc, diệt chi khu Bà Hom, đánh chiếm trường đua Phú Thọ. Mặc dù bị hai phi đội A-37 của sư đoàn 4 - Không lực Việt Nam Cộng hoà từ Cần Thơ lên đánh bom trúng đội hình đi đầu nhưng các đơn vị này vẫn vây chặt được Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Không còn đường thoát, lúc 10 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát, tư lệnh Biệt khu Thủ đô đã dẫn các thuộc cấp ra đầu hàng và kêu gọi sĩ quan, binh sĩ thuộc quyền hạ vũ khí, chấm dứt kháng cự.

Trong khi đó trung đoàn 24 cùng đặc công diệt đồn Bình Hưng Đông, chiếm giữ cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y, bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia. Trung đoàn 88 diệt chi khu Bà Hom, tiến công đồn Ông Thìn, ngã ba An Phú, khu Nhà Bè. Trung đoàn 16 đánh chiếm ga An Lộc, cầu Bình Điện. Sư đoàn 5 tấn công tiêu diệt và bức hàng toàn bộ sư đoàn 22 và các liên đoàn biệt động quân của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, cùng lực lượng địa phương đánh chiếm thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa. Các đơn vị đặc công chiếm các quận Tân Bình, Bình Chánh và khu Rừng Sát.

Tại hướng Đông Nam

Đây là hướng tấn công chủ yếu của Quân đoàn 2 và đồng thời cũng là hướng phản kích quyết liệt nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hoà để mở đường máu thoát ra biển qua sông Lòng Tàu và căn cứ hải quân Cát Lái. Vì vậy cuộc chiến ở khu vực này cũng diễn ra ác liệt không kém các cuộc chiến tại hướng Đông, Bắc và Tây Bắc Sài Gòn. Sáng 28 tháng 4, những đơn vị còn lại của hai lữ đoàn thuỷ quân lục chiến và chiến đoàn 322 Quân lực Việt Nam Cộng hoà mới được điều từ lực lượng dự bị ra đã dùng hơn 20 tàu đổ bộ của hải quân bất ngờ mở cuộc phản kích vào lữ đoàn pháo binh 164 và Sở chỉ huy sư đoàn 325. Trung đoàn pháo binh 84 (thuộc sư đoàn 325) và trung đoàn cao xạ 824 (sư đoàn phòng không 673) đã lập tức dùng hoả lực pháo bắn thẳng phá vỡ đội hình phản kích của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, bắn chìm 7 tàu của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Đến 15 giờ chiều 28 tháng 4, trung đoàn 101 (sư 325) đã tiếp cận chiến trường, giành lại trận địa, đẩy các lực lượng phản kích của Quân lực Việt Nam Cộng hoà lùi về Cát Lái. Sáng 29 tháng 4, Sư đoàn 304 Quân Giải phóng tổ chức hai mũi đột kích vu hồi gồm trung đoàn 24, trung đoàn 9 và một đại đội xe tăng của Lữ đoàn 203. Đến 10 giờ cùng ngày, các đơn vị này đã dập tắt các ổ đề kháng của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, làm chủ tình hình ở khu vực Nước Trong và ngã ba đường 15.[73] Trưa 29 tháng 4, các tướng Hoàng Cầm (tư lệnh Quân đoàn 4) và Nguyễn Hữu An (tư lệnh Quân đoàn 2) đều nhận được mật lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh: “Tấn công vào nội đô Sài Gòn từ 16 giờ cùng ngày”; sớm hơn sự kiến 12 giờ. 14 giờ chiều 29 tháng 4, Quân đoàn 2 đã đánh chiếm các mục tiêu còn lại tại Nhơn Trạch, bến phà Cát Lái, khu kho hậu cần Thành Tuy Hạ, vượt sông Đồng Nai đánh chiếm căn cứ hải quân Cát Lái.

Tối 29 tháng 4, lực lượng đột kích sâu của Quân đoàn 2 đã sẵn sàng tiến quân từ Long Nha. Cụm quân này gồm có lữ đoàn 203 tăng - thiết giáp đi đầu và giữa đội hình, trung đoàn 66 bộ binh cơ giới (có hơn 50 xe ô tô chở quân), một đại đội bộ binh cơ giới của trung đoàn 18 sử dụng xe thiết giáp V-100, tiểu đoàn 7 cao xạ (trung đoàn 284), một đại đội tên lửa phòng không Strela-2 (Sam-7), tiểu đoàn 4 pháo binh (Lữ đoàn 164), hai đại đội pháo 85 mm (trung đoàn 68, sư đoàn 304), một tiểu đoàn công binh và hai đại đội cầu phà (Lữ đoàn công binh 219). Lực lượng đột kích sâu được lệnh bỏ qua các ổ đề kháng lẻ của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, để lại cho trung đoàn 18 (sư đoàn 325) hành quân theo sau giải quyết. Mục tiêu cuối cùng là tiến thẳng đến Dinh Độc Lập.

Sáng 30 tháng 4, cụm đột kích sâu nhanh chóng dập tắt các ổ đề kháng của Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại cầu Xa Lộ, Căn cứ Rạch Chiếc, căn cứ Nguyễn Huệ, Học viện Cảnh sát, cầu Sài Gòn. Pháo binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà trụ lại tại căn cứ Thủ Đức dùng hoả lực súng cối và súng chống tăng M-72 chặn đánh và chia cắt đội hình tiểu đoàn xe tăng 5 (lữ đoàn 203). Một phân đội của lữ đoàn 203 liền kéo vào tiêu diệt nhóm pháo binh này. Tại đây xe tăng 707 của lữ đoàn đã phải chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và người cuối cùng. Đến 9 giờ sáng 30 tháng 4, sau khi dồn bộ phận còn lại của đối phương vào trong căn cứ Thủ Đức, tiểu đoàn 5 để lại cụm quân này cho trung đoàn 18 (sư đoàn 325) xử lý và đuổi theo các đơn vị đi đầu lúc này đã đến cầu Sài Gòn. Sau khi đánh tan sức kháng cự của 8 xe tăng có sự phối hợp của 6 tàu chiến hải quân Quân lực Việt Nam Cộng hoà đậu tại Tân Cảng, cụm đột kích sâu nhanh chóng vượt qua cầu Sài Gòn tiến vào đường Hồng Thập Tự, nhưng cũng mất 4 xe tăng và tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhã của lữ đoàn xe tăng 203 hi sinh.

Sau khi tiêu diệt cụm chốt cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại cầu Thị Nghè gồm 4 xe tăng và 6 lô cốt chỉ trong vòng 15 phút, tiểu đoàn xe tăng 1 (lữ đoàn 203) đã tiếp cận cổng Dinh Độc Lập qua ngả Thảo Cầm Viên. Xe tăng 843 lao vào húc cánh cổng phụ bên trái của dinh nhưng bị kẹt lại. Còn xe tăng 390 do Chính trị viên Đại đội Vũ Đăng Toàn chỉ huy húc đổ cánh cổng chính và tiến vào sân Dinh Độc Lập. Đại đội trưởng Bùi Quang Thận ra khỏi xe 843, lấy lá cờ trên xe của mình đem vào treo lên cột cờ trên nóc Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.

Ít phút sau, đại uý Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó trung đoàn 66 và hai đại đội bộ binh đã có mặt tại Dinh Độc Lập. Toàn bộ nội các của chính quyền Việt Nam Cộng hoà có mặt tại dinh lúc đó gồm: Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, Phó thủ tướng Bùi Tường Huân, Tổng trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, Tổng trưởng thông tin Lý Quý Chung, Tổng trưởng Thương mại và Kỹ nghệ Nguyễn Văn Diệp, Tổng trưởng Tài chính Lê Quang Trường, Thứ trưởng thông tin Nguyễn Văn Ba, Thứ trưởng quốc phòng Bùi Thế Dũng, Phụ tá tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh, Chánh văn phòng Phủ thủ tướng Vũ trang Chiêm.[79] Tại đây, ông Dương Văn Minh nói: “Chúng tôi chờ cách mạng đến để bàn giao chính quyền”. Ông Phạm Xuân Thệ tuyên bố: “Các ông chẳng còn gì để bàn giao, các ông phải đầu hàng vô điều kiện”. 11 giờ 45 phút 30 tháng 4 năm 1975, ông Phạm Xuân Thệ và các sĩ quan dưới quyền đã đưa ông Dương Văn Minh ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 9]


CÁC DIỄN BIẾN CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO

Cho đến ngày 21 tháng 4, khi các tuyến phòng thủ Phan Rang và Xuân Lộc lần lượt sụp đổ, Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức và bay sang Đài Loan, nhường lại ghế Tổng thống Việt Nam Cộng hoà cho Trần Văn Hương, người Pháp vẫn tin rằng họ có thể dàn xếp được một giải pháp chính trị. Tại Paris, ông Jean Sauvagnargues, Bộ trưởng ngoại giao Cộng hoà Pháp đã nhiều lần triệu kiến đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Phạm Văn Ba và Trưởng đoàn đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Nam Việt Nam Võ Văn Sung đến trụ sở Bộ Ngoại giao để tham vấn và liên tiếp đưa ra các đề nghị về một giải pháp chính trị. Phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố đàm phán chỉ bắt đầu khi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi. Phía Pháp đồng thuận và chuẩn bị phương án đưa Dương Văn Minh lên thay để tạo điều kiện cho đàm phán được tiến hành. Tại Sài Gòn, ngay khi bắt đầu chiến dịch di tản người Mỹ khỏi miền Nam, đại sứ Hoa Kỳ Martin cũng tìm gặp trao đổi với đại sứ Pháp Jean Marie Merillon về khả năng mở ra một giải pháp chính trị. Ngày 21 tháng 4, hai ông này đã gặp Nguyễn Văn Thiệu để bàn về việc đưa Dương Văn Minh lên ghế tổng thống nhưng Nguyễn Văn Thiệu lại yêu cầu “làm đúng Hiến pháp”. Điều đó có nghĩa là Phó Tổng thống Trần Văn Hương sẽ lên thay. Và cả hai vị đại sứ Hoa Kỳ và Pháp chấp nhận một giải pháp trung gian với chức vụ thủ tướng được trao cho Dương Văn Minh. Mặc dù không thể lật ngược dược tình huống nhưng việc chậm trễ khi đưa ông Dương Văn Minh lên ghế tổng thống đã không cho các quan chức CIA ở Sài Gòn thêm bất cứ một cơ hội nào để thực hiện một giải pháp thương lượng.

Trong lúc vội vã tìm kiếm sự ủng hộ của “lực lượng thứ ba” để làm một giải pháp thương lượng, ngày 28 tháng 4, ông Dương Văn Minh đã bổ nhiệm ông Triệu Quốc Mạnh là người được phía Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam cài vào “lực lượng thứ ba” vào chức vụ Giám đốc Cảnh sát Đô thành. Lấy cớ thực hiện ý định của tổng thống, ông Mạnh đã giải tán các phòng cảnh sát đặc biệt, các bộ chỉ huy cảnh sát các quận và các tổ chức cảnh sát ở cơ sở. Ông còn lệnh cho các đồn cảnh sát không được nổ súng và cho phép các sĩ quan cảnh sát được về nhà để lo cho gia đình. Những hoạt động của ông Triệu Quốc Mạnh đã vô hiệu hoá gần như toàn bộ lực lượng cảnh sát tại Sài Gòn từ ngày 29 tháng 4.

19 giờ ngày 28 tháng 4, ngay sau khi tân tổng thống Dương Văn Minh vừa thu âm xong bản tuyên bố của mình với yêu cầu cả hai bên ngưng bắn, thương lượng để bàn giao chính quyền thì ông Vanussème, tuỳ viên quân sự và an ninh của Đại sứ quán Pháp tại Sài Gòn xuất hiện. Ông này yêu cầu ngưng phát cuộn băng và đưa ra một đề nghị khiến ông Dương Văn Minh cũng phải kinh ngạc vì sợ mình nghe nhầm. Đề nghị đó là: chính quyền mới do ông Dương Văn Minh đứng đầu hãy ra tuyên bố chống Liên Xô và kêu gọi Bắc Kinh can thiệp, ngăn chặn cộng sản Việt Nam tiến vào Sài Gòn. Ông ta nói có những nguồn tin ở Washington, Paris và Bắc Kinh cho biết Trung Quốc không ủng hộ một thắng lợi hoàn toàn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Vanusseme còn nói cứng: “Trung Quốc sẽ vào và các ông sẽ đứng vững”. Tuy nhiên, do không biết thực hư ra sao nên ông Dương Văn Minh đã lấy cớ không còn thời gian và Sài Gòn không có liên lạc trực tiếp với Bắc Kinh để từ chối đề nghị của Vanussème. Sau khi Vanussème đi khỏi, Dương Văn Minh tâm sự với mấy người thân hữu: “Mình đã bỏ Pháp đi theo Mỹ, bây giờ nó lại xui mình đi theo Tàu. Thật là chán quá”.

Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4, ông ra lệnh cho phát cuộn băng đã ghi âm với lời kêu gọi “những người anh em ở phía bên kia ngừng bắn để thu xếp một giải pháp bàn giao chính quyền” nhưng Đài phát thanh Hà Nội cũng như những đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ở Paris vẫn chỉ có một yêu cầu là phía Việt Nam Cộng hoà phải đầu hàng không điều kiện. Sau này, khi trả lời phỏng vấn của một số nhà báo tại Sài Gòn về quyết định đầu hàng ngày 30 tháng 4 của mình, ông Dương Văn Minh cho rằng: Sài Gòn và xã hội miền Nam đã mục ruỗng, nhất là càng về cuối thì tình hình càng trở nên hỗn loạn, không sao kiểm soát được... Trước sức mạnh vũ bão của Quân giải phóng, Quân lực Việt Nam Cộng hoà không còn đủ sức chống cự, chỉ có quyết định đầu hàng không điều kiện là điều hợp thời duy nhất mà thôi. Tại Hội nghị La Celle Saint Cloud, phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố: “Xây dựng miền Nam Việt Nam hoà bình, độc lập, hoà hợp dân tộc, dân chủ, trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc” khi được hỏi về chủ trương của họ sau khi Việt Nam Cộng hoà đầu hàng.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 10]


CÁC DIỄN BIẾN TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG


Kế hoạch mật khu phá sản



Trong các diễn biến của Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Quân đoàn IV Việt Nam Cộng hoà tại đồng bằng Sông Cửu Long là đơn vị ít chịu thiệt hại nhất. Ngay sau các cuộc thất thủ tại Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, theo lệnh của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân đoàn đã hoàn chỉnh kế hoạch lập “mật khu” để giữ đồng bằng sông Cửu Long làm căn cứ tiếp tục chống cự nếu Sài Gòn thất thủ. Tướng Nam hy vọng với ba sư đoàn bộ binh 7, 9, 21 còn tương đối nguyên vẹn trong tay, gần nửa triệu địa phương quân và phòng vệ dân sự, cộng với các lực lượng còn sống sót rút từ các quân khu đã thất thủ về, ông ta có thể lập được vành đai Alpha xung quanh thành phố Cần Thơ, trung tâm chỉ huy của Quân đoàn. Trong trường hợp không giữ được Cần Thơ, tướng Nam còn có phương án dựa vào tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia với dãy núi Thất Sơn và các vùng có đông tín đồ Phật giáo Hoà Hảo, có hàng trăm hang động hiểm trở để cầm cự lâu dài và chờ thời cơ phản công. Trong tháng 4 năm 1975, một số công trình kiên cố dự định sử dụng cho Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà rút về đây đã được xây dựng. Các tướng Lê Minh Đảo và Lê Văn Hưng cũng đặt nhiều hy vọng vào kế hoạch này khi từ chối lời mời của tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị các ông này quay về Sài Gòn hợp tác với tướng Dương Văn Minh.

Tuy nhiên, kế hoạch này đã không thể thực hiện được do một số tướng tá cấp dưới đã bỏ chạy, bộ máy chỉ huy của Quân đoàn IV đã rối loạn đến mức không thể điều khiển được các đơn vị dưới quyền trong khi các lực lượng cách mạng đang ở thế áp đảo. Đến 10 giờ ngày 30 tháng 4, (trước lúc khởi sự 4 giờ), viên chuẩn tướng tham mưu trưởng quân đoàn và viên đại tá phụ trách an ninh chịu trách nhiệm giao nhiệm vụ cho các cấp đã bỏ trốn cùng vợ con qua ngả sông Hậu ra biển. Cùng đi còn có viên thiếu tá chánh văn phòng tiểu khu Phong Dinh. 18 giờ chiều 30 tháng 4, một số thân hào, nhân sĩ Cần Thơ đã có mặt tại cổng tư dinh của tướng Lê Văn Hưng tại Cần Thơ yêu cầu ông ta hãy vì dân chúng mà đừng ra lệnh phản công vì sợ rằng nếu Quân lực Việt Nam Cộng hoà phản công, Cần Thơ sẽ bị pháo binh đối phương bắn nát như An Lộc năm 1972. 18 giờ 45 phút chiều 30 tháng 4, tướng Nam điện cho tướng Hưng thông báo việc ông ta đã cho phát cuộn băng lời kêu gọi của mình trên đài phát thanh Cần Thơ. Nhưng việc này đã không được thực hiện do Đài phát thanh đã bị một đơn vị biệt động Quân giải phóng do thiếu tá Hoàng Văn Thạch chỉ huy giành quyền kiểm soát trước đó một giờ. Thay vào đó, cuốn băng ghi lại lời kêu gọi đầu hàng của tướng Dương Văn Minh hồi 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4 được phát lên sóng của đài Cần Thơ. Chiều tối 30 tháng 4, tướng Lê Văn Hưng tự sát tại tư dinh. Nửa đêm 30 tháng 4, tướng Nguyễn Khoa Nam ra lệnh dỡ bỏ các bản đồ, kế hoạch, mật hiệu hành quân dưới tầng hầm của Sở chỉ huy Quân đoàn IV Quân lực Việt Nam Cộng hoà và tự sát ngay trong phòng làm việc rạng sáng này 1 tháng 5 năm 1975. Kế hoạch “mật khu” của Quân đoàn IV phá sản.

Từ 26 tháng 4 đến 2 tháng 5, các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Quân khu 8 đã tổ chức nhiều mũi tấn công vào các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại đồng bằng sông Cửu Long, phối hợp với sự nổi dậy của dân chúng trong vùng. Ngày 27 tháng 4, sư đoàn 7 Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị sư đoàn 8 Quân Giải phóng bao vây tại căn cứ Đồng Tâm, chịu để mất thành phố Mỹ Tho cách đó khoảng vài dặm. Trong các ngày 29 và 30 tháng 4, các tiểu khu Định Tường, Kiến Tường, Sa Đéc lần lượt bị giành quyền kiểm soát bởi lực lượng vũ trang địa phương. Thậm chí Quân lực Việt Nam Cộng hoà và chính quyền địa phương của họ tại tỉnh Gò Công đã hạ vũ khí đầu hàng trước cuộc biểu tình của dân chúng chỉ có một đội tự vệ võ trang hỗ trợ.

Tại Khu 9, tình hình cũng diễn biến rất nhanh chóng. Ngày 30 tháng 4, tại Bến Tre, ba tiểu đoàn bảo an 401, 418 và 593 Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị các tiểu đoàn địa phương 263 và 596 của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đánh thiệt hại nặng trong một cuộc phản kích định chiếm lại chi khu Lương Qưới. Đến ngày 1 tháng 5, chính quyền toàn tỉnh Bến Tre (Kiến Hoà) rơi vào tay các lực lượng cách mạng. Đêm 29 tháng 4, sư đoàn 4 (chủ lực khu 9) đã bao vây và giành quyền kiểm soát sân bay Trà Nóc. Sư đoàn 4 không quân và tiểu đoàn bảo vệ sân bay không kháng cự và đầu hàng tại chỗ. Đến chiều tối ngày 30 tháng 4, hầu hết các cứ điểm quan trọng còn lại của Quân lực Việt Nam Cộng hoà trong vành đai Alpha như căn cứ Bình Thuỷ, sân bay Lộ Tẻ, nha cảnh sát, Bộ tư lệnh Vùng chiến thuật IV, đài phát thanh, dinh tỉnh trưởng Phong Dinh bị Quân Giải phóng giành quyền kiểm soát. Sáng 30 tháng 4, tại Vĩnh Long, trung đoàn 18 (sư đoàn 21, Quân lực Việt Nam Cộng hoà) đầu hàng và tan rã tại chỗ. Viên đại tá tỉnh trưởng ra hàng sáng ngày 1 tháng 5. Tại Trà Vinh, 11 giờ ngày 30 tháng 4, viên tỉnh trưởng và hơn 100 binh lính còn lại cũng hạ vũ khí đầu hàng. 11 giờ ngày 1 tháng 5, toàn bộ Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại Long Xuyên hạ vũ khí trước sức ép của trung đoàn 101 (sư đoàn 4 - chủ lực khu 9) có một tiểu đoàn thiết giáp M113 tăng cường. Tại Sóc Trăng, ngày 30 tháng 4, bốn tiểu đoàn Phú Lợi 1, 2, 3, 4 của tỉnh đội Sóc Trăng lần lượt giành quyền kiểm soát trại Lý Thường Liệt, sân bay Vọng Hoàn, chi khu Khánh Hưng, khu Hoàng Diệu, Ty cảnh sát. Lúc 14 giờ cùng ngày, hơn 100 binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại dinh tỉnh trưởng kéo cờ trắng ra hàng. Tại Bạc Liêu, sáng 30 tháng 4, viên tỉnh trưởng và bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hoà tại đây đã chấp nhận đầu hàng trước cuộc biểu tình của gần một vạn người dân trước toà thị chính Bạc Liêu. 22 giờ đêm 30 tháng 4, bốn tiểu đoàn chủ lực khu 9 (Quân Giải phóng) đã giành quyền kiểm soát toàn bộ tỉnh Rạch Giá. 10 giờ 30 phút sáng ngày 1 tháng 5, các lực lượng vũ trang cách mạng địa phương đã làm chủ thị xã và toàn tỉnh Cà Mau.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[Phần 11]


Đánh đuổi quân Khmer đỏ trên vùng giáp biên giới

Tuy không nằm trong kế hoạch chiến dịch Hồ Chí Minh nhưng các hoạt động đánh đuổi quân Khmer đỏ ra khỏi các vùng đất liền Việt Nam ở Tây Nam Bộ bị họ lấn chiếm cũng là một trong các hoạt động quân sự để chiến dịch này có được kết quả hoàn chỉnh, bảo vệ vững chắc lãnh thổ vừa mới được thống nhất của Việt Nam.

Ngay sau khi Quân lực Việt Nam Cộng hoà tại đồng bằng sông Cửu Long tan rã và đầu hàng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, từ ngày 3 đến ngày 12 tháng 5 năm 1975, chính quyền Khmer đỏ đã lợi dụng “khoảng trống về quyền lực” tại các địa phương trên khu vực biên giới giữa các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc của Việt Nam giáp với các tỉnh Takeo và Campot của Campuchia, sử dụng quân chính quy mở các cuộc tấn công lấn chiếm nhiều địa điểm của Việt Nam. Đặc biệt là khu vực Ba Chúc (huyện Tri Tôn), Phú Cường, Phú Hiệp (huyện Tịnh Biên), thị xã Châu Đốc, huyện lỵ An Phú; quân Khmer đỏ đã sát hại trên 500 thường dân Việt Nam, kể cả một số cựu quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã buông súng, rời bỏ quân ngũ; bắn vào những thường dân Việt Nam từ Campuchia chạy trốn khỏi chế độ Khmer đỏ về Việt Nam. Tại Tây Ninh, quân Khmer đỏ cũng tấn công lấn chiếm nhiều địa điểm tại Xa Mát, Ta Nốt, Lò Gò (huyện Tân Biên), Phước Thạnh, Phước Tân, (huyện Châu Thành), Cây Me, Mộc Bài (huyện Bến Cầu) sát hại hàng trăm thường dân Việt Nam.

Song song với các chiến dịch chiếm lại các đảo Phú Quốc, Thổ Chu, Polou Wai, quần đảo Nam Du trên Vịnh Thái Lan, Bộ tư lệnh Quân khu 9 đã sử dụng sư đoàn 4 bộ binh được tăng cường trung đoàn hải quân đánh bộ 101 từ Bộ tư lệnh hải quân mở cuộc phản công đẩy lùi quân Khmer đỏ. Ngày 7 tháng 5, giải phóng Châu Đốc. Đến đầu tháng 6, các đơn vị này đã giải phóng toàn bộ khu vực biên giới thuộc tỉnh An Giang bị quân Khmer đỏ lấn chiếm; loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn quân chính quy Khmer đỏ, thu giữ một khẩu pháo 105 mm, hai khẩu súng cối 82 và 60 mm, tám đại liên 12,7 mm, hơn 40 súng bộ binh các loại. Sau khi giành lại chủ quyền lãnh thổ, các đơn vị này đã tổ chức rào dây thép gai trên 40 km đường biên giới và bố trí phòng thủ tại chỗ đề phòng quân Khmer đỏ tiếp tục lấn chiếm.

WIKIPEDIA
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH
[KẾT]


KẾT QUẢ


Chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến dịch quân sự lớn nhất của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong toàn bộ cuộc Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc thắng lợi với sự tan rã hoàn toàn của quân đội và chế độ Việt Nam Cộng hoà, toàn bộ lực lượng cố vấn quân sự còn lại của Mỹ ở Việt Nam phải rút chạy. Kết quả của chiến dịch này là sự thống nhất, độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ trên đất liền, vùng trời, vùng biển của Việt Nam sau hơn 100 năm bị nước ngoài xâm lược chiếm đóng và chia cắt.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân Giải phóng đã làm tan rã toàn bộ lực lượng chủ lực, địa phương, cảnh sát thuộc Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hoà và lực lượng dự bị là tàn quân của Quân đoàn 1 và 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hoà rút về, tổng cộng trên 45 vạn quân. Thu 500 khẩu pháo, hơn 400 xe tăng, xe thiết giáp, 800 máy bay, 600 tàu chiến, 270.000 khẩu súng các loại, 3000 xe quân sự và toàn bộ kho tàng.[97]

Trên phương tiện thông tin đại chúng, sự kết thúc chiến dịch này được truyền đi bằng một bức điện từ Bưu điện trung tâm Sài Gòn bởi một phóng viên UPI đến hơn 7500 máy teletype trên toàn cầu:

“ZCZC VHAO 25 NXI (stop) Hoả tốc… (stop) Sài Gòn-Chính phủ Sài Gòn đầu hàng. (stop) NTL 1131 Sáng”

Và một bức điện cụ thể hơn sau đó 60 giây để xác nhận:

“ZCZ NNN (stop) Bản tin… (stop) Hoà bình-30/4 (stop) của Alan Dawson - UPI (stop) Sài Gòn-30 tháng 4 (stop) Tổng thống Dương Văn Minh hôm nay ra thông báo Nam Việt Nam đầu hàng và ra lệnh binh sĩ thuộc chính quyền ngừng chiến đấu. (stop) NTL 1132 Sáng.      ”
— Alan Dawson

Đằng sau bức điện đơn giản nhưng được cả thế giới quan tâm ấy là kết quả của một chiến dịch đã đặt dấu chấm hết cho cuộc Chiến tranh Việt Nam; một cuộc chiến mà vì nó, đã làm hao hụt hơn 360.000 quân nhân Mỹ, trong đó có 58.191 quân nhân chết; (chưa kể thương vong của các đội quân đồng minh của Mỹ là Việt Nam Cộng hoà, Hàn Quốc, Úc, New Zealand). Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có hơn khoảng 850.000 quân nhân hy sinh, trong đó khoảng 200.000 người đến nay vẫn còn trong diện mất tích, gần 600.000 quân nhân bị thương. Ngoài ra, gần 2 triệu dân thường Việt Nam bị chết, hơn 2 triệu dân thường mang thương tật suốt đời, khoảng 2 triệu người bị phơi nhiễm các loại hoá chất độc hại do Mỹ rải xuống.

Ảnh hưởng quốc tế sau đó

Quốc trưởng Vương quốc Campuchia Norodom Sihanouk, Thủ tướng Chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc Campuchia Penn Nouth, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Ilyich Brezhnev, Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Cuba Fidel Castro, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Lào yêu nước Souphanouvong, Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Anbani Enver Hoxha, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Bungari Todor Zhivkov, Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan Edward Gierek, Bí thư thứ nhất Đảng Xã hội Thống nhất Đức Erich Honecker, Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Hunggari János Kádár, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Rumani Nicolae Ceauşescu, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Tiệp Khắc Gustáv Husák, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Mông Cổ Yumjaagiin Tsedenbal, Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên, Chủ tịch nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành... đã gửi điện chúc mừng Việt Nam.

Bộ ngoại giao Thái Lan, Ngoại trưởng Philippine, Quyền Thủ tướng Sri Lanka, Thủ tướng Thuỵ Điển, Chủ tịch Tổ chức Giải phóng Palestin Yasser Arafat, Chủ tịch Algérie Houari Boumédiènne, Tổng thống Tanzania Julius Nyerere, Tổng thống Bangladesh Sheikh Mujibur Rahman, Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Ai Cập, Bộ trưởng thông tin và truyền thông Ấn Độ, Đảng cộng sản Rumani, Pháp, Ý, Nhật Bản, Mỹ, Triều Tiên,...có lời chúc mừng. Một số cuộc mít tinh được tổ chức ở một số nước (Congo-Brazzaville, Jamaica...)

Chính phủ liên hiệp dân tộc lâm thời Lào, chính phủ Thái Lan, Thuỵ Điển, Phần Lan, Ấn Độ, Đan Mạch, Pakistan, Jamaica, Cyprus, Nigieria, Kuwait, Nhật Bản, Úc, Nepal, New Zealand, Anh, Ý, Pháp, Bỉ, Canada... đã công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền nam Việt Nam (nửa đầu tháng 5). Ấn Độ từ 15/5 lập quan hệ ngoại giao với chính phủ cách mạng lâm thời. Ngày 18/5 Jordan công nhận Chính phủ lâm thời Cộng hoà miền nam Việt Nam. Việt Nam Dân chủ cộng hoà thiết lập quan hệ ngoại giao với Nepal, Mozambique, Mexico, Miến Điện (tháng 5).

Thượng nghị sĩ Michael Mansfield, thủ lĩnh đảng Dân chủ tại Thượng viện Mỹ phát biểu: “Chúng ta cần phải từ bỏ ý nghĩ chúng ta có thể là anh cả hoặc bố lớn của toàn thế giới còn lại...”. Thượng nghị sĩ George McGovern phát biểu: “Tôi cho rằng sự dính líu của chúng ta ở Đông Dương là một sự tìm kiếm đáng ghê sợ trong chính sách của Mỹ trong nhiều năm nay”. Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger cho rằng “Tôi nghĩ rằng có lẽ việc đưa các lực lượng quân sự Mỹ vào là biện pháp giải quyết tồi nhất vì điều đó có nghĩa là đưa một yếu tố ngoại lai vào”. Hạ viện Mỹ ngày 1/5 với 246 phiếu thuận 162 phiếu chống đã bác bỏ đề nghị chi 372 triệu USD của tổng thống dành cho di tản những người tị nạn ở Đông Dương[103]. Ngày 11/5 khoảng 75.000 người Mỹ tổ chức míttinh tại một công viên tại New York chào mừng thắng lợi của các nước Đông Dương. Trước đó ngày 4/5, khoảng 500 người Mỹ tại Boston tổ chức mít tinh chào mừng thắng lợi của Việt Nam.

Tại Campuchia, ngày 14/5 máy bay, tàu chiến Mỹ tại cảng Sihanoukville, ven biển Campuchia bị Quân giải phóng Campuchia đánh thiệt hại gần 100 lính bị chết, thương, mất tích. Tại Lào, ngày 9/5 hơn 5.000 học sinh, công nhân, viên chức biểu tình tại Viêng Chăn tố cáo phe cực hữu, đòi cách chức các bộ trưởng, thứ trưởng phe cánh hữu. Sisouk na Champassak từ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, cùng các bộ trưởng, thứ trưởng phe cánh hữu thân Mỹ, tướng Vàng Pao (tư lệnh quân khu 2), Phoui Sananikone, cựu Chủ tịch Quốc hội... lần lượt chạy sang Thái Lan. Tại Thái Lan, từ 14 đến 18/5, hàng vạn sinh viên đại học và nhân dân Băng Cốc biểu tình trước Đại sứ quán Mỹ đòi rút lính Mỹ tại Thái Lan về nước

WIKIPEDIA

https://1.bp.blogspot.com/-edY2MKeCeNY/XLWLLiNZ4pI/AAAAAAACAS4/8jD_W-RNgC4D10k3lDeP1m0kzpYI77BuACLcBGAs/s320/9.1.PNG

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

BẢN TIN CUỐI CÙNG
CỦA ĐÀI PHÁT THANH SÀI GÒN
NGÀY 29.4.1975


BẢN PHÁT THANH VNCH-29.4-1975


https://1.bp.blogspot.com/-nyxmlcuDnto/YU6pq4jbk7I/AAAAAAACRlw/3NhtAaGxtdk_JA-4CRiZeeteecEtGGDKQCLcBGAsYHQ/w640-h518/12.PNG

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

SỰ KIỆN 30.4.1975
[Phần 1]


Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, thường được gọi là Ngày 30 tháng Tư, Ngày giải phóng miền Nam, Thống nhất Đất nước (tên gọi tại Việt Nam) hoặc ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ (Fall of Saigon) (cách gọi của báo chí phương Tây), hoặc Ngày Quốc Hận và Tháng Tư Đen trong cộng đồng người Việt chống Cộng ở nước ngoài, là sự kiện chấm dứt Chiến tranh Việt Nam khi Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam tiến vào thành phố Sài Gòn, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Dương Văn Minh cùng nội các tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các lực lượng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày này là kết quả trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975 và là cột mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Sài Gòn sau đó được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên của cố Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hồ Chí Minh. Sự kiện 30 tháng 4 diễn ra sau khi tất cả công dân và lính Mỹ cùng với hàng ngàn người Việt ở miền Nam Việt Nam di tản khỏi Sài Gòn. Vì nhiều người đã di tản và chính phủ Việt Nam Xã hội chủ nghĩa đã áp dụng quy định mới về hộ khẩu góp phần làm cho dân số thành phố giảm xuống sau đó, tuy nhiên tỷ lệ giảm không nhiều (tốc độ giảm trung bình là 10.000 người mỗi năm trong khi dân số Sài Gòn là gần 4 triệu người, nhưng đến năm 1979, dân số lại bắt đầu tăng trở lại).

CÁC SỰ KIỆN DẪN ĐẾN 30 THÁNG 4


Sau Hiệp định Paris tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hoà suy giảm nghiêm trọng, nhất là sau khi Richard Nixon từ chức vì vụ Watergate, vào tháng 8 năm 1974. Sự suy sụp này còn do các mục tiêu tác chiến không thể hoàn thành như đã định cũng như những thất bại liên tiếp trên chiến trường.

Hoa Kỳ giảm viện trợ
Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng hoà đã dần bị cắt giảm:
Tài khoá 1973: 2,1 tỷ USD
Tài khoá 1974: 1,4 tỷ USD
Tài khoá 1975: 0,7 tỷ USD

Theo lời kể của ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng trưởng Kế hoạch của chính phủ Việt Nam Cộng hoà lúc bấy giờ, thì Giáo sư Warren Nutter là cựu Phụ tá Tổng trưởng quốc phòng, đặc trách phần tài chính của chương trình “Việt Nam hoá”. Khi dự điểm tâm với Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu vào sáng ngày 23 tháng 8 năm 1974 tại Dinh Độc Lập, ông Thiệu bày tỏ sự lo ngại về viện trợ:

Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo.
Giáo sư Nutter cũng rất bối rối và giải thích hành động của Quốc hội:

Quốc hội Hoa Kỳ đôi khi hành động vô trách nhiệm như vậy… Cái Trung tâm Tài nguyên Đông Dương (Indochina Resource Center, 1 trung tâm của những người phản chiến) đang hết sức tìm cách tiêu diệt quý quốc.

Nền kinh tế và chi tiêu của Việt Nam Cộng hoà duy trì được chủ yếu nhờ viện trợ Mỹ. Nền công nghiệp miền Nam nhỏ bé, nông nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Lạm phát phi mã xảy ra cùng với tệ tham nhũng, lợi dụng chức quyền càng làm cho nền kinh tế thêm tồi tệ. Ông Bùi Diễm, đại sứ Việt Nam Cộng hoà tại Hoa Kỳ, nhận định tình hình kinh tế và quân sự của miền Nam Việt Nam rất xấu khiến người dân không hài lòng với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tiền lương quân nhân không đủ sống do đó tình hình chính trị cũng xấu theo. Nạn đào ngũ là một vấn đề nghiêm trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Riêng từ tháng 4 tới tháng 12/1974, có 176.000 lính đào ngũ. Tại các lực lượng tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55%), tiếp theo là các đơn vị dù (30%) và thuỷ quân lục chiến (15%). Trong khi đó, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã duy trì một lợi thế tâm lý mạnh mẽ, với những người lính tràn đầy tinh thần sẵn sàng hy sinh mục đích cá nhân để cống hiến cho nỗ lực chiến tranh của tập thể, đó là ưu thế quyết định của họ.[9] Bên cạnh đó, họ đã cố gắng duy trì nỗ lực chiến tranh giải phóng đất nước suốt 30 năm và không có lý do gì để từ bỏ nó khi mà quân đội của mình ngày càng hùng mạnh và chiếm được thế thượng phong. Mọi người lính và chỉ huy quân Giải phóng đều cho rằng ngày chiến thắng đã cận kề, chỉ còn cách họ một trận đánh cuối cùng.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [28] [29] [30] [31] [32] [33] [34] ... ›Trang sau »Trang cuối