Đăng bởi Vanachi vào 11/09/2008 11:43, đã sửa 3 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 25/11/2023 19:31

洛神賦

黃初三年,余朝京師,還濟洛川。
古人有言,斯水之神名曰宓妃。
感宋玉對楚王說神女之事,遂作斯賦。

其詞曰:
余從京域,
言歸東藩。
背伊闕,轘轅,
經通谷,陵景山。
日既西傾,
車殆馬煩。
爾乃稅駕乎蘅皋,
秣駟乎芝田。
容與乎陽林,
流盼乎洛川。
於是精移神駭,
忽焉思散。
俯則未察,
仰以殊觀。
睹一麗人,
於岩之畔。
乃援御者而告之曰:
「爾有覿於彼者乎?
彼何人斯,若此之艷也!」
御者對曰:
「臣聞河洛之神,
名曰宓妃。
然則君王之所見也,
無乃是乎!
其狀若何?
臣愿聞之。」

余告之曰:
其形也,
翩若驚鴻,
婉若遊龍。
榮曜秋菊,
華茂春松。
仿佛兮若輕雲之蔽月,
飄颻兮若流風之迴雪。
遠而望之,皎若太陽昇朝霞,
迫而察之,灼若芙蓉出淥波。
穠纖得中,
修短合度。
肩若削成,
腰如束素。
延頸秀項,
皓質呈露。
芳澤無加,
鉛華弗御。
雲髻峨峨,
修眉連娟。
丹唇外朗,
皓齒內鮮。
明眸善睞,
靨輔承權。
瑰姿艷逸,
儀靜體閑。
柔情綽態,
媚於語言。
奇服曠世,
骨像應圖。
披羅衣文璀燦兮,
珥瑤碧之華琚。
戴金翠之首飾,
綴明珠以耀軀。
踐遠遊之文履,
曳霧綃之輕裾。
微幽蘭之芳藹兮,
步踟蹰於山隅。
於是忽焉縱體,
以遨以嬉。
左倚采旄,
右陰桂旗。
攘皓腕於神滸兮,
採湍瀨之玄芝。

余情悅其淑美兮,
心振蕩而不怡。
無良媒以接歡兮,
托微波而通辭。
愿誠素之先達兮,
解玉佩以要之。
嗟佳人之信修兮,
羌習禮而明詩。
抗瓊珶以和予兮,
指潛淵而為期。
執眷眷之款實兮,
懼斯靈之我欺。
感交甫之棄言兮,
悵猶豫而狐疑。
收和顏而靜志兮,
申禮防以自持。

於是洛靈感焉,
徙倚徬徨。
神光离合,
乍陰乍陽。
竦輕軀以鶴立,
若將飛而未翔。
踐椒途之郁烈,
步蘅薄而流芳。
超長吟以永慕兮,
聲哀厲而彌長。
爾乃眾靈雜沓,
命儔嘯侶。
或戲清流,
或翔神渚,
或採明珠,
或拾翠羽。
從南湘之二妃,
攜漢濱之遊女。
嘆匏瓜之無匹兮,
詠牽牛之獨處。
揚輕袿之猗靡兮,
翳修袖以延佇。
體迅飛鳧,
飄忽若神。
陵波微步,
羅襪生塵。
動無常則,若危若安,
進止難期,若往若還。
轉盼流精,
光潤玉顏。
含辭未吐,
氣若幽蘭。
華容婀娜,
令我忘餐。

於是屏翳收風,
川後靜波。
馮夷鳴鼓,
女媧清歌。
騰文魚以警乘,
鳴玉鑾以偕逝。
六龍儼其齊首,
戴雲車之容裔。
鯨鯢踴而夾轂,
水禽翔而為衛。
於是越北沚,
過南岡,
紆素領,
迴清揚。
動朱唇以徐言,
陳交接之大綱。
恨人神之道殊兮,
怨盛年之莫當。
抗羅袂以掩涕兮,
淚流襟之浪浪。
悼良會之永絕兮,
哀一逝而異鄉。
無微情以效愛兮,
獻江南之明璫。
雖潛處於太陰,
長寄心於君王。
忽不悟其所舍,
悵神宵而蔽光。

於是背下陵高,
足往神留。
遺情想像,
顧望懷愁。
冀靈體之復形,
御輕舟而上溯。
浮長川而忘返,
思綿綿而增慕。
夜耿耿而不寐,
沾繁霜而至曙。
命仆夫而就駕,
吾將歸乎東路。
攬騑轡以抗策,
悵盤桓而不能去。

 

Lạc thần phú

Hoàng Sơ tam niên, dư triều kinh sư, hoàn tế Lạc xuyên.
Cổ nhân hữu ngôn, tư thuỷ chi thần danh viết Phục phi.
Cảm Tống Ngọc đối Sở vương thuyết thần nữ chi sự, toại tác tư phú.

Kỳ từ viết:
Dư tòng kinh vực,
Ngôn quy đông phiên.
Bối Y Khuyết, Hoàn Viên,
Kinh Thông Cốc, lăng Cảnh Sơn.
Nhật ký tây khuynh,
Xa đãi mã phiền.
Nhĩ nãi thuế giá hồ hành cao,
Mạt tứ hồ chi điền.
Dung dữ hồ Dương Lâm,
Lưu miện hồ Lạc xuyên.
Ư thị tinh di thần hãi,
Hốt yên tứ tán.
Phủ tắc vị sát,
Ngưỡng dĩ thù quán (quan).
Đổ nhất lệ nhân,
Ư nham chi bạn.
Nãi viện ngự giả nhi cáo chi viết:
“Nhĩ hữu địch ư bỉ giả hồ?
Bỉ hà nhân tư, nhược thử chi diễm dã!”
Ngự giả đối viết:
“Thần văn hà Lạc chi thần,
Danh viết Phục phi.
Nhiên tắc quân vương chi sở kiến dã,
Vô nãi thị hồ!
Kỳ trạng nhược hà?
Thần nguyện văn chi.”

Dư cáo chi viết:
Kỳ hình dã,
Phiên nhược kinh hồng,
Uyển nhược du long.
Vinh diệu thu cúc,
Hoa mậu xuân tùng.
Phảng phất hề nhược khinh vân chi tế nguyệt,
Phiêu diêu hề nhược lưu phong chi hồi tuyết.
Viễn nhi vọng chi, hạo nhược thái dương thăng triêu hà,
Bách nhi sát chi, chước nhược phù dung xuất lục ba.
Nùng tiêm đắc trung,
Tu đoản hợp độ.
Khiên nhược tước thành,
Yêu như thúc tố.
Duyên cảnh tú hạng,
Hạo chất trình lộ.
Phương trạch vô gia,
Duyên hoa phất ngự.
Vân kế nga nga,
Tu my liên quyên.
Đan thần ngoại lãng,
Hạo xỉ nội tiên.
Minh mâu thiện lãi,
Yếp phụ thừa quyền.
Khôi tư diễm dật,
Nghi tĩnh thể nhàn.
Nhu tình xước thái,
Mị ư ngữ ngôn.
Kỳ phục khoáng thế,
Cốt tượng ưng đồ.
Phi la y văn thôi xán hề,
Nhĩ dao bích chi hoa cư.
Đới kim thuý chi thủ sức,
Chuế minh châu dĩ diệu khu.
Tiễn viễn du chi văn lý,
Duệ vụ tiêu chi khinh cư.
Vi u lan chi phương ái hề,
Bộ trì trù ư sơn ngung.
Ư thị hốt yên túng thể,
Dĩ ngao dĩ hy.
Tả ỷ thái mao,
Hữu âm quế kỳ.
Nhương hạo oản ư thần hử hề,
Thái thoan lại chi huyền chi.

Dư tình duyệt kỳ thục mỹ hề,
Tâm chấn đãng nhi bất di.
Vô lương môi dĩ tiếp hoan hề,
Thác vi ba nhi thông từ.
Nguyện thành tố chi tiên đạt hề,
Giải ngọc bội dĩ yếu chi.
Ta giai nhân chi tín tu hề,
Khương tập lễ nhi minh thi.
Kháng quỳnh đệ dĩ hoạ dư hề,
Chỉ tiềm uyên nhi vi kỳ.
Chấp quyến quyến chi khoản thực hề,
Cụ tư linh chi ngã khi.
Cảm Giao Phủ chi khí ngôn hề,
Trướng do dự nhi hồ nghi.
Thâu hoà nhan nhi tĩnh chí hề,
Thân lễ phòng dĩ tự trì.

Ư thị Lạc linh cảm yên,
Tỷ ỷ bàng hoàng.
Thần quang ly hợp,
Sạ âm sạ dương.
Tủng khinh khu dĩ hạc lập,
Nhược tương phi nhi vị tường.
Tiễn tiêu đồ chi uất liệt,
Bộ hành bạc nhi lưu phương.
Siêu trường ngâm dĩ vĩnh mộ hề,
Thanh ai lệ nhi my trường.
Nhĩ nãi chúng linh tạp đạp,
Mệnh trù khiếu lữ.
Hoặc hý thanh lưu,
Hoặc tường thần chử,
Hoặc thái minh châu,
Hoặc thập thuý vũ.
Tòng nam Tương chi nhị phi,
Huề Hán tân chi du nữ.
Thán Bào Qua chi vô thất hề,
Vịnh Khiên Ngưu chi độc xứ.
Dương khinh khuê chi uy mỹ hề,
Ế tu tụ dĩ duyên trữ.
Thể tấn phi phù,
Phiêu hốt nhược thần.
Lăng ba vi bộ,
La miệt sinh trần.
Động vô thường tắc, nhược nguy nhược an.
Tiến chỉ nan kỳ, nhược vãng nhược hoàn.
Chuyển phán lưu tinh,
Quang nhuận ngọc nhan.
Hàm từ vị thổ,
Khí nhược u lan.
Hoa dung a na,
Linh ngã vong xan.

Ư thị Bình Ế thu phong,
Xuyên Hậu tĩnh ba.
Phùng Di minh cổ,
Nữ Oa thanh ca.
Đằng văn ngư dĩ cảnh thừa,
Minh ngọc loan dĩ giai thệ.
Lục long nghiễm kỳ tề thủ,
Đới vân xa chi dung duệ.
Kình nghê dũng nhi giáp cốc,
Thuỷ cầm tường nhi vi vệ.
Ư thị việt bắc chỉ,
Quá nam cương.
Hu tố lĩnh,
Hồi thanh dương.
Động chu thần dĩ từ ngôn,
Trần giao tiếp chi đại cương.
Hận nhân thần chi đạo thù hề,
Oán thịnh niên chi mạc đương.
Kháng la duệ dĩ yểm thế hề,
Lệ lưu khâm chi lang lang.
Điệu lương hội chi vĩnh tuyệt hề,
Ai nhất thệ nhi dị hương.
Vô vi tình dĩ hiệu ái hề,
Hiến Giang Nam chi minh đương.
Tuy tiềm xứ ư Thái Âm,
Trường ký tâm ư quân vương.
Hốt bất ngộ kỳ sở xá,
Trướng thần tiêu nhi tế quang.

Ư thị bối hạ lăng cao,
Túc vãng thần lưu.
Di tình tưởng tượng,
Cố vọng hoài sầu.
Ký linh thể chi phục hình,
Ngự khinh chu nhi thượng tố.
Phù trường xuyên nhi vong phản,
Tư miên miên nhi tăng mộ.
Dạ cảnh cảnh nhi bất mị,
Triêm phồn sương nhi chí thự.
Mệnh bộc phu nhi tựu giá,
Ngô tương quy hồ đông lộ.
Lãm phi bí dĩ kháng sách,
Trướng bàn hoàn nhi bất năng khứ.

 

Dịch nghĩa

Năm Hoàng Sơ thứ ba, ta chầu kinh sư, về qua sông Lạc.
Cổ nhân từng nói, thần ở sông này tên gọi Phục phi.
Cảm lời Tống Ngọc với Sở vương về thần nữ, bèn làm bài phú này.

Lời viết rằng:
Ta từ kinh đô,
Trở về đông phiên.
Quay lưng lại Y Khuyết, Hoàn Viên,
Qua Thông Cốc, lên Cảnh Sơn.
Mặt trời đã lặn về tây,
Xe ngựa đều mệt mỏi.
Do đó dừng xe nghỉ tại bờ cỏ thơm,
Cho ngựa ăn trên ruộng cỏ.
Dạo bước ở Dương Lâm,
Phóng mắt nhìn về sông Lạc.
Bỗng tinh thần kinh hãi,
Hồn phách tiêu tán.
Cúi xuống còn chưa thấy,
Ngẩng lên đã hoàn toàn khác biệt.
Thấy một người đẹp,
Ở bên bờ sông.
Bèn kéo người phu xe nói:
“Ngươi có nhìn thấy người kia không?
Đó là ai vậy, người đó thật đẹp!”
Người phu xe đáp:
“Thần nghe nói thần sông Lạc,
Tên gọi Phục phi.
Chắc là người vương tử nhìn thấy,
Hẳn là như vậy!
Người đó dung mạo ra sao?
Thần muốn được nghe.”

Ta nói rằng:
Hình dáng của nàng,
Nhẹ nhàng như chim hồng bay,
Uyển chuyển như rồng lượn.
Rực rỡ như cúc mùa thu,
Tươi rạng như tùng mùa xuân.
Phảng phất như mặt trăng bị mây nhẹ che lấp,
Phiêu diêu như tuyết bị gió thổi cuốn lên.
Từ xa ngắm nhìn, trắng như ráng mặt trời lên trong sương sớm,
Tới gần nhìn kỹ, rực rỡ như hoa sen lên khỏi dòng nước trong.
To nhỏ vừa chuẩn,
Dài ngắn vừa thích hợp.
Vai như vót đẽo thành,
Eo như lấy dải lụa thắt lại.
Cổ trước sau thon dài,
Da trắng hé lộ.
Sáp thơm không cần thêm,
Phấn màu chẳng cần thoa.
Búi tóc cao như mây bồng,
Lông mày cong thon.
Môi son rực rỡ bên ngoài,
Răng trắng tinh khiết ở trong.
Con ngươi sáng liếc nhìn,
Má lúm đồng tiền hiện trên má.
Phong tư kiều diễm phiêu dật,
Dung nghi tĩnh lặng nhàn nhã.
Dáng vẻ nhu mì khoan thai,
Tiếng nói đầy mê hoặc.
Trang phục nàng diễm lệ lạ thường không có trên đời,
Cốt cách tướng mạo như trong tranh vẽ.
Mặc áo lụa bừng sáng,
Ngọc đeo tai toả màu biếc.
Đeo lông chim phí thuý vàng làm trang sức ở tay,
Kết ngọc minh châu đeo quanh người.
Đeo giày viễn du thêu hoa văn,
Quần lụa nhẹ nhàng phấp phới.
Ẩn trong hương thơm nồng của hoa lan,
Bồi hồi dạo bước bên sườn núi.
Rồi chợt thân thể nhẹ nhàng bay bổng làm sao,
Nhởn nhơ chơi đùa.
Bên trái có cờ mao ngũ sắc,
Bên phải có cờ quế che.
Đưa cổ tay trắng ngần bên bến sông,
Hái cỏ linh chi màu đen bên dòng nước xiết.

Ta ái mộ vẻ đẹp hiền thục của nàng,
Lòng thổn thức khôn nguôi.
Không có người mai mối tốt giúp mối hoan tình,
Đành nhờ ánh mắt làm lời biểu đạt.
Mong lòng thành của ta được chấp thuận,
Cởi ngọc bội để ước hẹn.
Ôi nàng đích thực hoàn mỹ,
Thông lễ nghĩa hiểu thi ca.
Mang ngọc quỳnh đệ đang đeo đáp lại ta,
Chỉ vào nơi vực sâu để hẹn ngộ.
(Ta) thực lưu luyến biết bao,
Chỉ sợ bị nàng lừa dối.
Cảm lời bội ước của Giao Phủ,
Do dự nghi ngờ.
Trấn yên lòng không để không để lộ vẻ vui mừng,
Tự giữ lễ giáo.

Rồi thần nữ cảm động,
Bồi hồi ngập ngừng.
Vẻ thần thái lúc ly lúc hợp,
Chợt sáng chợt tối.
Thân thể nhẹ nhàng lên cao như chim hạc đứng,
Như sắp bay đi mà còn chưa dứt.
Giẫm lên đường có hoa tiêu mùi nồng đượm,
Đi trên đường cỏ ngát thơm.
Buồn bã ngâm nga mãi lòng ái mộ,
Tiếng ca buồn bã thống khổ kéo dài.
Sau đó chúng tiên tụ hợp lại,
Gọi bạn kéo bè.
Hoặc đùa giỡn trên dòng nước trong,
Hoặc bay lượn trên bãi sông,
Hoặc hái minh châu,
Hoặc nhặt những lông chim biếc.
Hai nàng phi từ nam Tương,
Đem theo du nữ bến sông Hán.
Than sao Bào Qua không có bạn,
Kể sao Thiên Ngưu đơn độc.
Áo nhẹ bay phất phơ trong gió,
Buông tay áo đứng hồi lâu.
Thân nhanh như chim bay,
Phiêu dật như thần.
Đạp sóng bước từng bước nhỏ,
Từ áo rơi ra những bụi nước.
Những cử động không giống người thường, như nguy như an.
Tiến hay dừng khôn lường được, như đi như lại.
Con mắt di chuyển,
Ánh mắt như nhuốm vẻ ngọc.
Ngậm lời mà chưa thốt ra,
Hơi thở như hương lan.
Dung mạo nhu mì,
Khiến ta tới bữa quên ăn.

Sau đó Bình Ế thu gió,
Xuyên Hậu giữ sóng yên.
Phùng Di gõ trống vang,
Nữ Oa cất tiếng ca trong trẻo.
Cá văn bay tới hộ giá,
Tiếng loan ngọc đi xa dần.
Sáu con rồng xếp bằng nghiêm trang,
Kéo xe mây thư thái.
Cá kình nghê nhảy nhót hai bên nâng bánh xe,
Bầy chim nước lượn xung quanh bảo vệ.
Tiếp theo vượt bãi bắc,
Qua sườn nam.
(Nàng) quay cổ trắng ngần lại,
Ngoái đôi lông mày thanh tú nhìn.
Môi đỏ cử động từ từ nói,
Kể những lễ giáo cương thường giữa nam nữ.
Hận vì cảnh ngộ của người và thần không cùng,
Oán nỗi năm tháng tươi đẹp không tương xứng.
Nâng tay áo che ngấn nước mắt,
Lệ chảy thấm áo không ngừng.
Buồn buổi gặp gỡ tốt lành đã tuyệt,
Tiếc rằng một khi đã qua rồi mỗi người một nẻo.
Không có vật gì biểu thị ái tình,
Dâng tặng khuyên tai ngọc của Giang Nam.
Tuy ẩn trú tại Thái Âm,
(Nhưng) mãi gửi tấm lòng nơi vương tử.
Chợt chưa kịp nhận ra thì đã dứt,
Nàng biến mất vào giữa làn ánh sáng che phủ.

Sau đó (ta) quay xuống núi,
Nhưng chân vẫn còn lưu luyến lại.
Tình hoài tưởng tượng,
Ngoảnh lại buồn bã nhớ nhung.
Hy vọng hình bóng nàng lại xuất hiện,
Cưỡi thuyền nhẹ trên mặt nước.
Trôi trên sông dài quay trở lại,
Nhớ miên man mãi khôn nguôi.
Đêm thao thức không ngủ được,
Để sương thấm đẫm đứng ngóng cho đến sáng.
Lệnh cho đày tớ chuẩn bị xe ngựa,
Ta tìm lại nơi đường hướng đông.
Cầm cương, đặt yên lên ngựa,
Buồn bã bàn hoàn nhưng không đi được.


Tương truyền nàng Phục phi trong bài phú này chính là chỉ Chân thị 甄氏, một trong những tuyệt đại mỹ nhân đời Tam Quốc. Chân thị tên thật là Chân Lạc 甄洛 (có nơi nói là Chân Phục 甄宓). Đời xưa có câu “Hà Bắc hữu Chân Phục, Giang Nam hữu nhị Kiều” đủ để thấy sắc đẹp khuynh nước khuynh thành. Nàng vốn xuất thân phú hộ, được gả cho Viên Hy 袁熙, con trai của Viên Thiệu 袁紹. Sau trận Phì Thuỷ, Tào Tháo 曹操 diệt Viên Thiệu ở Nghiệp Thành, vì đã nghe đến sắc đẹp của nàng nên sai quân vào tìm kiếm, nhưng Tào Phi 曹丕 đã sai quân lui ra và tự vào bắt được Chân thị mang về, sau đó đã xin Tào Tháo cho cưới nàng làm vợ. Sau này Tào Phi lên ngôi Nguỵ Văn Đế (năm 220) thì nàng là hoàng hậu.

Tuy nhiên khi Chân thị về cung nhà Nguỵ, Tào Thực gặp nàng cũng si mê tha thiết, Chân thị đối với Tào Thực cũng có chút chân tình, nhưng về cơ bản đó chỉ là mối tình đơn phương vô vọng. Hôn nhân của Chân thị với Tào Phi cũng không đem lại hạnh phúc vì Chân thị không có tình cảm. Về sau Tào Phi lại sủng ái một phi tần khác là Quách thị 郭氏. Phần vì Chân thị bị Quách thị gièm pha, phần vì Tào Phi cũng nghi ngờ tình cảm giữ Chân thị và Tào Thực, nên đày Chân thị ra Nghiệp Thành rồi sau đó ép phải chết (năm 223), tiếp theo lập Quách thị làm hoàng hậu, con của Chân thị là Tào Duệ 曹睿 làm thái tử (sau trở thành Nguỵ Minh Đế).

Sau khi Chân thị chết, có lần Tào Thực vào cung, Tào Phi đem một số đồ dùng của Chân thị đưa cho, trong đó có chiếc gối ngọc chẩm. Tào Thực thấy vật nhớ người, khi trở về đất phong ở Quyên Thành, qua sông Lạc, đêm trú trong thuyền, mơ thấy nàng. Khi tỉnh dậy hạ bút viết bài Cảm Chân phú 感甄賦 này, sau đổi tên thành Lạc thần phú. Bài phú này, như trong phần nội dung có ghi rõ, chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Cao Đường phú 高唐賦 và Thần nữ phú 神女賦 của Tống Ngọc 宋玉.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Năm Hoàng Sơ thứ ba, ta chầu kinh sư, về qua sông Lạc.
Cổ nhân từng nói, thần ở sông này tên gọi Phục phi.
Cảm lời Tống Ngọc với Sở vương về thần nữ, bèn làm bài phú này.

Lời viết rằng:
Ta từ kinh vực,
Trở lại đông phiên.
Quay lưng lại Y Khuyết, Hoàn Viên,
Qua Thông Cốc, lên Cảnh Sơn.
Ác lặn về tây,
Xe ngựa dùng dằng.
Rồi dừng xe tại bờ cỏ ngát,
Đưa ngựa ra đồng thơm ăn.
Dạo bước trong rừng dương,
Phóng mắt về Lạc xuyên.
Bỗng tinh thần kinh hãi,
Trong lòng xiêu tán.
Cúi còn chưa thấy,
Ngẩng lên đã khác.
Có một mỹ nhân,
Ở bên bờ nước.
Bèn kéo phu xe lại hỏi rằng:
“Ngươi có thấy người kia không?
Người đó là ai, sao mà đẹp vậy!”
Người phu xe đáp:
“Thần nghe sông Lạc có thần,
Tên gọi Phục phi.
Chắc là người vương tử nhìn thấy,
Hẳn không thể sai!
Người đó dung mạo ra sao?
Thần muốn được nghe.”

Ta trả lời rằng:
Hình dáng của nàng,
Nhẹ tựa chim hồng,
Uyển chuyển như rồng.
Rực rỡ thu cúc,
Tươi rạng xuân tùng.
Phảng phất như mây che bóng nguyệt,
Phiêu diêu tựa gió bay làn tuyết.
Từ xa mà ngắm, trắng hé ráng mặt trời lúc ban mai,
Tới gần để xem, tươi nở đoá phù dung trên dòng biếc.
To nhỏ vừa tầm,
Ngắn dài hợp độ.
Vai tựa vót thành,
Eo như được bó.
Cổ gáy thon dài,
Da ngần hé lộ.
Sáp thơm không dùng,
Phấn màu chẳng ngự.
Tóc búi mây bồng,
Mày uốn thon cong.
Ngoài môi thắm đỏ,
Răng ngà bên trong.
Con ngươi khẽ liếc,
Má lúm đồng tiền.
Phong tư kiều diễm,
Dáng tĩnh thân nhàn.
Nhu mì khoan nhã,
Mê hoặc tiếng thanh.
Phục trang khoáng thế,
Cốt mạo như tranh.
Khoác áo lụa ngời sáng chừ,
Khuyên tai toả sắc xanh.
Tay đeo lông thuý vàng làm trang sức,
Người kết ngọc minh châu xung quanh.
Giày viễn du thêu hoạ tiết,
Quần mây lụa phất nhẹ nhàng.
Ẩn bóng lan toả hương ngát chừ,
Dạo bồi hồi bên sườn non.
Rồi chợt nhẹ nhàng bay bổng,
Chơi đùa nhởn nhơ.
Trái cờ ngũ sắc,
Phải lộng quế che.
Nâng tay trắng ngần bên bến trong chừ,
Hái cỏ chi đen nơi nước xiết.

Ta mến vẻ đẹp của nàng chừ,
Lòng thổn thức khôn nguôi.
Không người mai mối lương duyên chừ,
Đành nhờ ánh mắt tỏ lời.
Mong lòng thành được chấp thuận chừ,
Cởi ngọc bội ngỏ thưa.
Ôi nàng thực hoàn mỹ chừ,
Thông lễ nghĩa, hiểu thi từ.
Mang ngọc quỳnh đáp lại ta chừ,
Chỉ nơi hẹn ước tại vực sâu.
Lưu luyến chân thành biết bao chừ,
Chỉ e nàng dối lừa.
Cảm Giao Phủ bị bội ước chừ,
Lo lắng do dự nghi ngờ.
Trấn yên niềm hoan hỉ chừ,
Giữ lễ giáo mà e dè.

Rồi Lạc thần cảm động,
Bồi hồi dùng dằng.
Thần thái ly hợp,
Lúc tối lúc bừng.
Thân nhẹ bổng như hạc đứng,
Như sắp bay lại ngập ngừng.
Dẫm đường tiêu hoa nồng đượm,
Đi lối cỏ ngát mùi hương.
Ngâm nga mãi lòng yêu mến chừ,
Tiếng ca buồn bã khôn cùng.
Rồi chúng tiên tụ họp,
Kéo bè bạn lại.
Hoặc giỡn nước trong,
Hoặc bay trên bãi,
Hoặc hái minh châu,
Hoặc tìm lông biếc.
Hai Tương phi từ nam về,
Đem du nữ sông Hán tới.
Than Bào Qua cô đơn chừ,
Kể Thiên Ngưu không bạn.
Áo nhẹ phất phơ trong gió chừ,
Buông tay hồi lâu đứng lặng.
Thân tựa chim bằng,
Phiêu dật như thần.
Nhẹ nhàng đạp sóng,
Áo bọt nước sinh.
Cử động vô thường, như nguy như an,
Đứng đi khó đoán, như tiến như hoàn.
Mắt chuyển lưu tinh,
Vẻ ngọc rỡ ràng.
Ngậm lời chửa thốt,
Hơi đượm hương lan.
Dung mạo nhu mì,
Ta bữa quên ăn.

Rồi Bình Ế thu gió,
Xuyên Hậu lặng sông.
Phùng Di gõ trống,
Nữ Oa ca vang.
Cá văn ngư bay hộ giá,
Dần dần xa tiếng ngọc loan.
Sáu rồng xếp bằng nghiêm trang,
Kéo xe mây mà lướt nhẹ.
Kình nghê nhảy nâng bánh xe,
Chim nước lượn quanh bảo vệ.
Rồi vượt bãi bắc,
Qua sườn nam.
Quay cổ trắng,
Ngoái mày thanh.
Động môi thắm để đưa lời,
Nhắc nhở lễ giáo cương thường.
Hận thần người không đồng cảnh chừ,
Oán ngày vui chẳng thể cùng.
Nâng tay che nước mắt chừ,
Lệ thấm áo không ngừng.
Buồn buổi hội ngộ nay đã hết chừ,
Tiếc chia tay rồi cách hai phương.
Không gì biểu thị tình ái chừ,
Lấy ngọc Giang Nam mà dâng.
Tuy ẩn trú tại Thái Âm,
Nhưng lòng gửi mãi nơi chàng.
Chợt chưa định thần thì đã dứt,
Nhìn nàng biến mất giữa hào quang.

Rồi xuống từ núi cao,
Chân vẫn luyến lưu.
Tình hoài tưởng tượng,
Ngoảnh lại u sầu.
Hy vọng nàng lại hiện hình,
Cưỡi thuyền nhẹ bơi trên sóng.
Trôi theo sông dài trở lại,
Nỗi nhớ miên man đằng đẵng.
Đêm thao thức không sao ngủ,
Đẫm sương dày cho tới sáng.
Lệnh đày tớ đóng xa giá,
Tìm nơi đường đông mà hướng.
Cầm dây cương, đặt yên ngựa,
Lòng bàn hoàn mà không đi được.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
55.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Về mối u tình của Tào Thực với người chị dâu

Lăng ba vi bộ 淩波微步

Trong tiểu thuyết võ hiệp Thiên long bát bộ của Kim Dung, nhân vật Đoàn Dự có thế võ khinh công tuyệt kỹ gọi là Lăng ba vi bộ.

Thật ra, bốn chữ này không phải do Kim Dung sáng tạo ra, mà ông đã mượn bốn chữ này trong một bài phú nổi tiếng lãng mạn trữ tình, được các văn học giả Trung Quốc xưng tụng là bài phú kiệt tác của thời nhà Nguỵ đời Tam Quốc, tức là bài Cảm chân phú do Trần Tư Vương Tào Thực, một đại văn hào tài hoa phóng khoáng viết ra vào năm 223.

Có nhà phê bình văn học cho rằng thông qua nữ thần sông Lạc, tác giả đã sử dụng nhiều mỹ từ, trí tưởng tượng phong phú, kể lại sự tương ngộ lãng mạng trong mơ của ông với Mật Phi, vị nữ thần của sông Lạc, từ vóc dáng tiêu sái thoát tục, phẩm hạnh đoan chính trang nhã, bước đi uyển chuyển nhẹ nhàng, đến chuyện tác giả được nữ thần đem gối đầu ra tặng, và nỗi lòng tương tư thương nhớ của ông khi hai người chia tay nhau, mà về sau có người cho đó, chính là hình ảnh của Chân thị, người chị dâu, vợ Nguỵ Văn Đế Tào Phi, mà ông đã đem hết lòng ngưỡng mộ.

Bài phú này cũng trở thành đề tài tranh luận lâu đời về mối u tình của ông với Chân hoàng hậu.

Ở đây tôi chỉ xin trích một đoạn ngắn, trong bài phú, đó là lời Tào Thực kể lại cho người đánh xe ngựa của mình, về thể thái, dáng đi, điệu bộ, sắc diện của Nữ thần sông Lạc mà ông đã mơ thấy:

休迅飛鳧,飄忽若神,淩波微步,羅襪生塵。動無常則,若危 若安。進止難期,若往若還。轉眄流精,光潤玉顏。含辭未吐,氣若幽蘭。華容婀娜,令我忘餐。

Hưu tấn phi phù, Phiêu hốt như thần, Lăng ba vi bộ, la mạt sinh trần,động vô thường tắc, nhược nguy nhược an, tiến chỉ nan kỳ, nhược vãng nhược hoàn, chuyển miện lưu tinh, quang nhuận ngọc nhan, hàm từ vị thổ, khí như u lan, hoa dung a na, lịnh ngã vong san.

Tạm dịch:
Nàng (tức nữ thần Lạc thuỷ) có vóc dáng nhẹ nhàng như ngỗng trời bay, ẩn hiện vô thường, biến ảo quỷ xuất thần một. Chân lướt trên sóng, đi những bước nhanh nhẹn nhỏ bé, tiến về phía ta, làm bụi nước bay lên bám vớ lụa như những giọt thuỷ châu.Hành vi, cử chỉ,đều lạ kỳ không chuẩn mực. Tưởng như hấp tấp, mà hoá ra nhàn nhã. Tiến thoái, động tĩnh đều như không định trước.Có lúc, ta tưởng nàng như sắp dời xa mà hoá ra lại gần. Rồi nàng đưa mắt nhìn ta, dung nhan như ngọc nhuận, ôn hoà mà thanh khiết.Miệng như muốn nói, mà e ấp thẹn thù. Hương thơm như u lan tán phát. Phong thái yêu kiều khả ái, khiến lòng ta đắm đuối si mê, quên ăn mất ngủ.
Mấy chữ “Lăng ba vi bộ” 凌波微步, trong bài phú này đã được Kim Dung mượn để đặt tên cho miếng võ khinh công trấn môn, tuyệt kỹ của Đoàn Dự trong Thiên long bát bộ như trên đã trình bầy.

Thực tế, trong võ thuật, không hề có thế võ nào mang tên là “Thiên long bát bộ”. Đây là chữ, là ngôn ngữ, của Tào Thực. Cũng thế, Đoàn Dự trong Thiên long bát bộ, cũng chỉ là một nhân vật “ảo”, của Kim Dung. Nhân vật “thật”, Đoàn Dự, là một hoàng đế của nước Đại Lý, như đã trình bầy ở trên.

Bối cảnh Tào Thực viết Cảm chân phú

Các nhà nghiên cứu văn học sử Trung Quốc thường chia tác phẩm văn học của Tào Thực làm hai thời kỳ: tiền kỳ và hậu kỳ.

Vào tiền kỳ, Tào Phi với Tào Thực là những nhân vật chủ yếu tập đoàn văn nhân của Nghiệp Thành, chuyên du sơn ngoạn thuỷ, làm thơ ngâm vịnh, viết những bài văn, bài phú nói lên cái lý tưởng chính trị của mình, khai sinh ra những tác phẩm phản ánh những tình thế động đãng thời cục, những nỗi cực khổ trong đời sống của nhân dân.

Còn về thời hậu kỳ, chủ yếu thơ văn của Tào Thực đa số mô tả nỗi bi phẫn, uất ức do ông bị người anh là Tào Phi tìm cách chèn ép bách hại. Bài Cảm chân phú là đại biểu tác phẩm của ông thời kỳ thứ hai này.

Bài Cảm chân phú được các nhà phê bình văn học Trung Quốc xưng tụng là một tác phẩm kiệt xuất của Tào Thực, nếu đem so sánh với bài Cửu ca của Khuất Nguyên thì có thể ngang ngửa. Bài phú này là bài phú đại biểu cho thời kỳ văn học Kiến An.

Theo bài tự của tác giả trong sách Văn tuyển, thì vào năm Hoàng Sơ tam niên, tức năm 222, tác giả từ kinh sư trở về phong địa, trên đường đậu thuyền nghỉ đêm bên bờ sông Lạc, đã thông qua sự tưởng tượng mộng ảo, cấu tứ ly kỳ, lời văn mỹ lệ, viết bài Cảm chân phú, mô tả sự tương ngộ của tác giả với nữ thần sông Lạc là Mật phi, rồi hai người yêu nhau, nhưng cuối cùng, vì “thần” và “người” khác biệt nhau, không thể sống với nhau được, đành phải chia ly đau sót.

Cảm chân phú tuy chiụ ảnh hưởng của Thần nữ phú của Tống Ngọc nhưng về kỹ thuật thì tỷ dụ sinh động, tiến bộ, đẹp đẽ hơn. Tình tiết như sóng gợi dạt dào, lúc lên lúc xuống. Ngôn ngữ cấu tứ ly kỳ diễm tuyệt, người đọc xong vẫn còn cảm thấy dư vận lan man bất tận.

Có thuyết cho rằng Tào Thực viết Cảm chân phú là vì thương nhớ nàng Chân thị, người chị dâu, vợ Tào Phi. Sau đó hơn bốn trăm năm, vào năm Hiển Khánh tam niên, đời Đường Cao Tông, tức năm 658, Lý Thiện, một văn học gia đời Đường, làm chú giải sách Văn tuyển có viết như sau:
Đông A Vương (Tào Thực) cuối đời nhà Hán muốn lấy con gái Chân Dật (tức Chân thị) nhưng không toại nguyện. Khi Tào Tháo hồi binh, đem Chân thị gả cho Ngũ quan trung lang tướng Tào Phi, khiến cho Tào Thực hết sức bất bình. Ngày đêm tơ tưởng, đến bỏ cả ăn ngủ.

Sau khi Chân thị chết được hai năm, đến năm Hoàng Sơ tứ niên, tức năm 223, Tào Thực đến Lạc Dương để triều kiến Nguỵ Văn Đế Tào Phi. Phi có lẽ như hối hận, sai con là Thái tử là Tào Duệ, người con do Chân thị sinh ra, mở tiệc và bồi tiếp Tào Thực. Tào Thực nhìn thấy cháu, tưởng nhớ đến Chân thị, lòng đau sót miên man. Bất giác rơi lệ.

Sau bữa ăn, Tào Thực được Tào Phi ban cho di vật của Chân thị. Đó là một chiếc gối đầu có dát ngọc và đai bằng vàng. Tào Thực mang chiếc gối đầu của người Chân thị trở về phong địa của mình. Trên đường về, Thực đậu thuyền bên bờ sông Lạc. Nhân vì lòng quá bi thống thương nhớ Chân thị, lại thêm đường trường lao luỵ mệt mỏi, thần trí mông lung hoảng hốt, đứng ngồi không yên, Tào Thực bỗng mơ màng cảm thấy bóng Chân thị yểu điệu thướt tha từ xa lướt gió xuất hiện, nói: “Lòng thiếp vốn phó thác cho chàng, mà không được toại nguyện. Chiếc gối đầu này là của thiếp mang theo khi lấy Ngũ quan trung lang tướng (chức của Tào Phi khi chưa cướp ngôi nhà Hán), nay xin hiến tặng chàng”. Sau đó nàng sai người đem châu báu tặng cho Thực. Thực cũng đem ngọc bội tặng lại. Rồi cùng nhau hoan lạc. Cả hai vừa xót xa vừa bi thống. Xong thì biến đi.

Lúc Tào Thực hoảng hốt tình dậy. Té ra chỉ là một giấc Nam Kha. Khi về đến phong địa của mình ở Chân Thành, hình ảnh tao ngộ trong mộng với Chân thị bên bờ sông Lạc vẫn còn làm cảm kích, tâm hồn, đầu óc Tào Thực, lại thêm văn tứ dồi dào, nhân thế, Tào Thực mới viết Cảm chân phú 感甄賦.

Về sau, Nguỵ Minh Đế Tào Duệ, con của Chân thị, lên nối nghiệp Tào Phi, tránh tiếng cho mẹ, mới đổi Cảm chân phú thành Lạc thần phú 洛神賦.
Từ bài viết của Lý Thiện, người đời sau mới đặt thành nghi vấn Tào Thực vì quá yêu Chân thị mà viết Lạc thần phú.

Phải chăng vì yêu người chị dâu mà Tào Thực viết Lạc thần phú?

Sau khi bài Lạc thần phú ra đời khoảng 300 năm, đến đời nhà Lương, con của Lương Võ Đế, là Thái tử Tiêu Thống, cùng với các văn nhân đương thời soạn một tuyển tập thi văn đầu tiên của Trung Quốc, đem bài Cảm chân phú của Tào Thực, xếp vào hạng “tình loại”. Rồi mãi đến thời nhà Đường, Lý Thiện, như đã thuật ở trên, viết chú dẫn về Văn tuyển, thuật lại Tào Thực có ý muốn lấy Chân thị, không thành, đến nỗi bỏ ăn mất ngủ. Rồi sau, Tào Phi lại đem gối đầu của Chân thị ban cho Tào Thực.

Như vậy, có thật Tào Thực vì yêu người chị dâu họ Chân của mình mà viết Cảm chân phú không?

Câu hỏi này đã trở thành một đề tài tranh luận kéo dài cả ngàn năm nay, vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát.

Trên diễn đàn văn học Trung Quốc, có hai quan điểm chống đối lẫn nhau.

– Những lý luận phủ nhận Tào Thực yêu Chân hậu

Chân thị là vợ Tào Phi, mà Tào Thực là em của Tào Phi. Em mà dám ngang nhiên yêu chị dâu mình, cho dù yêu lén, đứng về mặt đạo lý “anh em”, đó là điều bất nghĩa. Đứng về mặt quân thần, đó là điều “bất trung”, một tội mà cổ nhân thường gọi là “đại nghịch bất đạo”. Dựa trên lý luận như thế, các nhà nho xưa, nổi tiếng trên diễn đàn văn học đã đua nhau đứng lên phản bác, đả kích.

Đại khái, những lập luận của phe phản đối có thể tóm vào những điểm sau đây:

1 - Bản chú thích Văn tuyển của Lý Thiện, không có lời chú dẫn như trên đây, mà do Vưu Mậu, người đời Tống nhầm lẫn khi san đính lại.

2 - Không thể nào có khả năng xẩy ra việc Tào Thực yêu chị dâu mình được. Tào Thực phải lo giữ “thủ cấp” của mình, không thể có đủ can đảm dám viết một cách bộc bạch rõ ràng nỗi “Cảm nhớ Chân hậu”, vì khi đó Tào Thực đang bị Tào Phi ép bức, nhân có sự tranh chấp về quyền hành chính trị và quyền nối ngôi báu.

3 - Làm em mà muốn chiếm vợ của anh mình, đó là hành vi ô nhục của cầm thú. Vả, kẻ làm anh (Tào Phi) lẽ nào an nhiên để cho em làm bôi nhọ vợ mình sao? Rồi kẻ làm con (Tào Duệ Nguỵ Minh Đế), lẽ nào lại an nhiên chịu để cho người chú ruột làm mất danh dự của mẹ mình sao? Nên Tào Duệ đã đổi tên bài phú từ Cảm chân phú thành Lạc thần phú! Vả lại chữ Chân còn có nghĩa là Chân Thành, phong địa của Tào Thực.

4 - Khi làm chú giải Văn tuyển, Lý Thiện thuật lại rằng Tào Phi đem chiếc gối đầu của Chân thị đưa cho Tào Thực coi, rồi đem gối đó ban cho Tào Thực, đó chẳng qua chỉ là một sự bịa đặt, không hợp lý, cho dù “lão lý đình dù” cũng chẳng làm, huống hồ là một bậc văn nhã vương hầu như Tào Thực.

5 - Tào Thực sinh năm 192 CN; còn Chân thị sinh năm 182 CN, luận về tuổi tác thì Tào Thực ít hơn Chân Thị 10 tuổi, khó có khả năng Tào Thực, lúc 12 tuổi cầu xin cha mình là Tào Tháo, cưới một người thiếu phụ đã 20 tuổi, đã có chồng (tức Viên Hy), để làm vợ.

Do Lạc thần phú là một bài phú hay, có nhiều ảnh hưởng trên văn đàn, thêm vào đó là sự cảm động về bi kịch luyến ái của Chân thị và Tào Thực, nên người đời truyền tụng bảo nhau, và nhất định coi là nữ thần Lạc thuỷ là Chân thị.

- Những lý luận đồng tình cho Tào Thực viết Lạc thần phú là vì yêu Chân hậu

Năm 204, sau khi Tào Tháo phá vỡ Nghiệp Thành, Tào Phi lấy được Chân thị, Tào Tháo chẳng những không được nghỉ ngơi, mà còn vất vả hơn vì phải lo sửa soạn chiến tranh, chinh phục miền nam. Tự nhiên, Tào Phi ở địa vị là con trưởng cũng vì thế, luôn thường phải xa nhà, đi ra chiến trường. Vì thế, Chân thị trở thành phòng không lạnh giá.

Trái lại, Tào Thực còn ít tuổi, bản tính lại không thích chiến tranh giết chóc. Vì được ở nhà, Tào Thực thường có cơ hội ở bên người chị dâu Chân thị, tình cảm dần dần sinh sôi nẩy nở. Lúc đó Chân thị mới có 20 tuổi. Tào Thực mới lên mười. Rồi thời gian trôi đi, Tào Thực cũng trưởng đại dần, dù có đem lòng yêu người chị dâu có nhan sắc “phong hoa tuyệt đại”, biến nàng thành nữ thần trong tâm hồn của mình, là một điều rất có khả năng xẩy ra.

Tài tử giai nhân, từ ngàn xưa muôn đời vốn là hay duyên nợ. Vả lại, người đời thường có câu nói: “Yêu nhau ai tính tuổi bao giờ”. Ngoài ra, đứng về mặt ái tình tâm lý, chẳng có gì để quả quyết khẳng định rằng vì cách biệt tuổi tác thì không thể yêu nhau được. Bằng cớ, ngay Tào Phi cũng kém Chân hậu năm tuổi, mà vẫn lấy Chân hậu làm vợ.

Và nhà thơ Hoàng Cầm, ông đã chẳng từng kể lại rằng lúc chỉ mới 12 tuổi, ông đã phải lòng, yêu một cô láng giềng xinh đẹp lớn hơn mình 8 tuổi. Rồi vất vả ngược xuôi. Từ đồng chiều cuống dạ. Đến nắng vãn bên sông. Ông cố đi tìm một thứ lá gọi là Lá diêu bông, không biết là lá gì, để mong được làm chồng người chị hàng xóm xinh đẹp đó. Nhưng khi tìm được lá rồi, thì người chị hàng xóm đã đi lấy chồng. Ông tiếc công mình, chỉ biết buông tiếng thở dài não nuột:
Diêu Bông hời! Ới Diêu Bông!
Và, bài thơ Lá diêu bông được ra đời năm 1959, trở thành một bài thơ được nhiều người yêu thích ngâm ngợi, và được nhiều nhạc sĩ phổ thành những bản nhạc trữ tình, thật đẹp.

Nhưng nhắc đến Lạc thần phú, tất nhiên không thể không nhắc đến “chủ nhân công”, những nhân vật chính, của bài phú này: Chân Hậu, và Tào Thực.

Sơ lược về Chân hậu 甄后

Chân thị hay Chân hoàng hậu, vợ Nguỵ Văn Đế Tào Phi, không rõ tên, sinh năm Quang Hoà ngũ niên đời Hán Linh Đế, tức năm 182, mất năm 221, người Vô Cực, Trung Sơn (nay thuộc huyện Vô Cực, tỉnh Hà Bắc), là con gái của Thượng sái lệnh là Chân Dật, mẹ là Trương thị. Theo kể lại, khi Trương thị lâm bồn, thấy một ông tiên vào trong phòng, lấy ngọc y đắp lên người bà, ít lâu sau sinh ra Chân thị.

Lúc Chân thị lên 3 tuổi thì cha qua đời, có viên thầy tướng là Lưu Lương xem tướng Chân thị nói: “Đứa con gái tướng quý không thể nói hết được”. Chân thị từ bé đến lớn, tính tình rất là điềm đạm trầm tĩnh. Lúc Chân thị lên tám tuổi, ngoài cửa có biểu diễn trò mã hí. Mọi người trong nhà cùng tất cả các chị em đều kéo nhau lên lầu để xem, duy có một mình Chân thị không đi. Mọi người đều lấy làm lạ hỏi, thì Chân thị trả lời:
- Trò đùa đó, há lại để cho đàn phụ nữ coi hay sao?

Lên chín tuổi, Chân thị học đọc, học viết, nên mượn bút của người anh để dùng. Người anh mới hỏi:
- Em đàn bà nhi nữ thì nên học nữ công, chứ học chữ để làm gì? Không lễ để ra làm nữ quan hay sao?

Chân thị đáp:
- Cổ xưa có bậc hiền giả nào không lấy những thất bại và thành công của tiền nhân để kiểm nghiệm mình,nếu không biết đọc sách thì làm sao mà biết được.

Bấy giờ, gặp lúc thiên hạ đại loạn, thêm liên tiếp nhiều năm mất mùa đói kém. Ai ai cũng đem kim ngân, châu bảo, báu vật để đổi lấy thức ăn. Chân thị bảo với mẹ:
- Lúc này loạn lạc, sao mẹ không đem ngọc ngà bảo vật ra bán đi. Giữ lại trong nhà sẽ mang hoạ đấy. Kẻ vô tội, nhưng đeo ngọc ngà mà trở thành có tội. Lại thêm hàng xóm họ hàng đều đói kém cả, chi bằng đem thóc ra mà phát chẩn cho họ, mà lấy chút ân huệ.

Cả nhà nghe Chân thị nói thế đều khen là hiền thục. Đến tuổi cập kê, Chân thị lấy con giai Viên Thiệu là Viên Hy. Viên Hy tuy thuộc loại quý công tử, nhưng chắc không phải là kẻ biết “thương hoa tiếc ngọc”, nên Chân thị có tả một bài thơ thuộc loại “Khuê oán”, kể cuộc sống buồn chán của mình, trong bài Đường thượng hành.

Bấy giờ Viên Thiệu chiếm cứ bốn châu là Ký, Tinh, U, Thanh, binh lực rất là hùng hậu, oai trấn tứ hải. Nhưng năm 200 CN, xẩy ra trận chiến Quan Độ, Viên Thiệu bị Tào Tháo đánh cho cho đại bại thê thảm. Sau Viên Thiệu bị xấu hổ, uất ức sinh bệnh mà chết.

Hai người con của Thiệu là Viên Thượng và Viên Đàm tranh quyền kế vị, đem binh đánh lẫn nhau, làm tiêu hao thế lực của Viên Thiệu còn lại. Tào Tháo thừa cơ tấn công Lê Dương. Viên Đàm, Viên Thượng chống đỡ không nổi, bỏ chạy đến Nghiệp Thành. Nhưng hai anh em nhà họ Viên “thế bất lưỡng lập”, tìm đủ cách tiêu diệt lẫn nhau. Sau Viên Đàm phải chạy sang cầu cứu Tào Tháo. Cuối cùng Tháo tiêu diệt được toàn bộ lực lượng của Viên Thiệu.

Năm 204, Tào Phi mới có 18 tuổi, cũng theo cha đánh đông dẹp bắc. Sau khi phá vỡ được Nghiệp Thành, Tào Phi từng ái mộ tiếng Chân thị là người mỹ lệ, xông thẳng vào phủ của họ Viên. Rút kiếm. Nhẩy xuống ngựa đi tìm. Lúc tiến vào hậu đường, Tào Phi chỉ thấy một phụ nữ vào tuổi trung niên, ngồi khóc một mình ở đấy. Có một thiếu phụ cũng đang run rẩy sợ hãi ôm chân mà khóc. Người đàn bà trung niên ấy chính là vợ của Viên Thiệu, người họ Lưu. Còn người thiếu phụ là con dâu của Viên Thiệu, vợ Viên Hy, chính là Chân thị, bị Viên Hy bỏ lại khi vội vã đem đám tàn binh bại tướng chạy đến Liêu Tây.

Chân thị tuy mặt mũi đẫm lệ, son phấn nhạt nhoà nguệch ngoạc, nhưng trông vẫn xinh đẹp chẳng khác gì như “phù dung xuất thuỷ”, “liên hoa đặm sương”, dánh dấp e lệ hãi hùng, càng làm cho vẻ đẹp diễm kiều của Chân thị thêm não nuột.

Tào Phi không cầm nổi lòng đám đuối, bèn tiến lại gần, vén tay áo lau những hạt lệ đang lăn trên gò má của Chân thị.

Qủa nhiên, thấy Chân thị bậc tuyệt thế giai nhân, sắc diện như hoa đào, lóng lánh như hoa hạnh. Tào Phi vội vã tự xưng tên họ của mình, và bảo nàng cứ an lòng.

Vợ Viên Thiệu nghe nói là thế tử con của Tào Tháo, liền bảo với Chân Thị vái chào. Chân thị e ấp thi lễ, khẽ đưa mắt kín đáo nhìn Tào Phi, thấy Tào Phi nghi biểu phong lưu anh tuấn, trong lòng cũng bớt lo lắng. Còn Tào Phi lúc đó cũng ngây người ra, lòng bàng hoàng mừng rỡ.

Chợt có tiếng người lao xao từ ngoài bước vào. Té ra Tào Tháo. Tào Tháo cũng từng nghe người ta nói đến sắc đẹp của Chân thi, nên hỏi ngay đến gia quyến thân thuộc của Viên Thiệu. Tào Phi bèn vào trong hậu đường dẫn Lưu thị và Chân thị ra. Tào Tháo nhìn thấy Chân thị quả là “ngư trầm lạc nhạn, tuyệt thế giai nhân”, trong lòng cũng cảm thấy rung động, bèn hỏi Lưu thị:
- Sao nhà chỉ có hai người thôi à?

Lưu thị đáp:
- Các con thiếp đều đã bỏ chạy cả. Duy còn lại có người con dâu thứ hai này ở lại hầu hạ mà thôi.Nay nhờ thế tử gia ân bảo toàn, thật là vạn hạnh.

Tào Tháo nhìn sang bên cạnh thấy Tào Phi hai mắt cứ đăm dăm nhìn Chân Thị, trong lòng thầm hiểu Tào Phi muốn gì.

Tào Phi bèn vội vã thưa với Tào Tháo:
- Đời con chẳng mong gì khác, chỉ xin được người con gái này làm vợ, được như vậy là đủ mãn nguyện rồi. Xin cha nghĩ cái phận con chưa có gia đình mà thành toàn cho.

Tào Tháo không thể từ chối, miễn cưỡng đồng ý, liền nhờ mai mối hỏi Chân thị, vợ của Viên Hy, làm vợ cho Tào Phi, rồi chọn ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn.

Nhất quyết lấy bằng được một người đã có chồng để làm vợ chứ không phải làm thiếp, lại hơn mình năm tuổi, đủ cho thấy Tào Phi rất là ái mộ sắc đẹp của Chân thị. Năm sau, Chân thị sinh ra Tào Duệ, tức Nguỵ Minh Đế sau này.

Chân thị có thói quen kết tóc mỗi ngày một kiểu. Tương truyền rằng Chân thị mỗi buổi sáng đều theo tư thái của một con rắn lục để kết kiểu. Các kiểu tóc của Chân thị được người gọi là Linh xà kết 靈蛇髻.

Năm Kiến An nhị thập ngũ niên, tức năm 220, Tào Tháo qua đời. Tào Phi lên kế vị Nguỵ Vương. Cùng năm, Tào Phi ép Hán Hiến Đế nhường ngôi cho mình, đoạt ngôi nhà Hán, chính thức xưng đế, đặt tên nước là Nguỵ, đô ở Lạc Dương, phong Chân thị là Phu Nhân.

Trong hậu cung, Tào Phi có khá nhiều nội sủng.Trong đó phải kể đến Quách thị là người được sủng ái nhất, lại là người nhiều mưu kế, giỏi nịnh nọt, Tào Phi có ý muốn phong làm Hoàng Hậu, nhưng vì còn có Chân thị là vợ chính thức, nên không phong ngay. Do Quách thị dèm pha, Chân thị bị thất sủng và bị Tào Phi lưu ở Nghiệp Thành.

Được một năm sau khi lên ngôi, năm 221, lúc đó Chân thị sau nhiều năm dài làm vợ Tào Phi, cũng đã phấn nhạt hoa tàn, hương sắc không còn làm Tào Phi đắm đuối như buổi ban đầu nữa, thì Phi bắt đầu dở chứng “chán cơm mê phở”, sủng ái Quách thị, rồi nhân vì mấy câu thơ của Chân thị viết để hoài niệm phút “sơ kiến ban đầu lưu luyến ấy”, khi Tào Phi gặp nàng, nay không còn nữa. Nàng tự ví mình bây giờ chỉ như chiếc quạt hoa, khi gió thu về, bị cất vào kho, không được sử dụng:
人生若只如初见,何事西风悲画扇?
Nhân sinh nhược chỉ sơ kiến, Hà sự tây phong bi hoạ phiến?
(Cuộc đời nếu chỉ như gặp nhau lúc đầu, thì chiếc quạt hoa kia đâu phải chịu cảnh phũ phàng khi gió thu về?)
Với lời thơ ví von thương cảm ấy, Chân thị bị Tào Phi gán cho tội là có lời oán trách, sai sứ giả đến “tứ tử” 賜 死, tức ban ân cho cái chết, bắt ép nàng phải tự tử, đúng vào lúc Chân thị 39 tuổi.

Tương truyền rằng, khi chết Chân thị không có người lo táng liệm. Lại còn bị Tào Phi nhẫn tâm, nhỏ nhen ra lệnh không cho phép phủ mặt bằng gấm lụa như tập quán thời bấy giờ, mà chỉ cho phép phủ trên mặt nàng, bằng chính tóc của nàng. Và phải chôn úp sấp, cho không hưởng được áng dương. Còn miệng thì nhét đầy cám bã, không dùng ngọc ngà châu báu như nghi thức chôn cất của các bậc quý phi vương hầu thời bấy giờ, vì sợ nàng tái hồi dương thế. Hoàn toàn trái với những nghi thức trong lễ táng của người Trung Hoa thời đó, gọi là “phạn hàm” 飯含.

Tình lang ơi! Sao nỡ bạc với nhau đến thế làm gì!

Cái chết của Chân Hậu quả là một cái chết oan ức, đầy thảm khốc. Đoạ đầy chi bấy hoá công, “hồng nhan bạc mệnh”, đến thế thì thôi.

Mãi đến năm 226, khi Tào Duệ lên ngôi, biết mẹ chết oan, mới phong Chân thị là Văn Chiêu hoàng hậu. Sử sách thương nàng, thường gọi là Chân hoàng hậu, hay Chân hậu.

Theo Bùi Tòng Chi chú thích sách Tam quốc chí của Trần Thọ có dẫn một đoạn trong Hán Tấn xuân thu cho biết thêm chi tiết liên quan đến cái chết của Chân thị như sau:
初,甄后之诛,由郭后之宠,及殡,命被髮覆面,以糠塞口,遂立郭后,使养明帝。帝知之,心常怀念,数泣问甄后死状。郭后曰‘先帝自杀(之),何以责问我?且汝为人子,可追仇死父,为前母枉杀后母邪?’明帝怒,遂逼杀之,敕殡者使如甄后故事。

Sơ, Chân hậu chi chu, do Quách thị chi sủng, cập tẫn, mệnh bị phát phúc diện, dĩ khang tắc khẩu, toại lập Quách hậu, sừ dưỡng Minh Đế, Đế tri chi, tâm thường hoài niệm, số khấp Chân hậu tử trạng. Quách hậu viết: “Tiên đế tự sát chi, hà dĩ trách vấn ngã, thả nhữ vi nhân tử, khả truy cừu tử phụ, vi tiền mẫu uổng sát hậu mẫu”. Minh đế nộ, toại bức sát chi, sắc tẫn giả sử như Chân Hậu cố sự.

(Lúc bấy giờ, việc Chân hậu bị giết có liên quan đến việc Quách hậu được Tào Phi sủng hạnh, chừng lúc sắp đem vào áo quan, sai người để cho tóc phủ mặt, và lấy cám đổ đầy miệng Chân hậu, sau đó lập Quách thị làm Hoàng hậu và nuôi Tào Duệ. Tào Duệ biết chuyện, trong lòng thường hoài niệm thương nhớ Chân hậu, nhiều lần khóc hỏi cái chết của mẹ mình. Quách hậu trả lời rằng: Giết bà ấy là tiên đế (tức Tào Phi), sao lại trách hỏi ta. Vả ngươi là con cái, lẽ nào lại thù hận cha mình đã chết rồi, và vì mẹ chết oan mà giết mẹ nuôi mình. Tào Duệ nổi giận, sai người ép Quách hậu chết và sai người tẩm liệm y hệt như Chân thị ngày trước.)


Phạm Xuân Hy
Paris ngày 15-10-2012
tửu tận tình do tại
25.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Bảo Nam

Năm thứ ba Hoàng Sơ, ta đến kinh sư triều bái thiên tử, lúc trở về đi qua Lạc Thuỷ. Theo truyền thuyết, tên của vị thần linh ở Lạc Thuỷ này là Phục Phi, nguyên là tiểu nữ của Phục Hy Đế (tức Thái Hạo) lúc chơi đùa ở Lạc Thuỷ bị chết đuối, sau khi chết được phong làm thần của Lạc Thuỷ. Vì thế nên câu chuyện viên tướng của Sở Vương là Tống Ngọc ngộ kiến thần nữ được viết thành “Thần nữ phú”, ta cũng đem chuyện của chính mình đã trải qua mà viết lại như vầy:

Ta từ kinh thành trở về phong ấp ở phương đông (Quyền Thành). Vòng bên Y Quyết Sơn, vượt qua Hoàn Viên Sơn, lại đi xuyên Thông Cốc để lên Cảnh Sơn. Lúc này, mặt trời đã xuống phía tây, xa mã đều đã mệt mỏi. Vì vậy nên xe dừng lại trên bãi cỏ thơm bên bờ sông, cho ngựa thả rong ăn cỏ uống nước. Ta thả bộ chầm chậm nhàn nhã trong rừng cây thưa, phóng tầm mắt thưởng thức cảnh sắc mỹ lệ của Lạc Thuỷ. Bỗng nhiên ta cảm thấy tâm thần chấn động, tâm tình như đang thả trôi về phương xa. Vừa ngẩng đầu lên thì nhìn thấy một cảnh tượng kỳ dị, có một nữ tử đẹp tựa thiên tiên đang ở ven núi bên cạnh. Ta vội kéo tên tuỳ tùng lại hỏi: “Ngươi có nhìn thấy cô gái kia không? Nàng là ai? Thật là quá đẹp!” tuỳ tùng đáp: “Thần nghe nói thần linh của Lạc Thuỷ gọi là Phục Phi, vậy quân vương nhìn thấy ắt là nàng ta? Tướng mạo nàng như thế nào? Thần rất muốn nghe.”

Ta nói: “Thần thái nàng khinh doanh nhu mỹ tựa như chỉ cần động nhẹ cũng khiến nàng phiên phiên bay lên như hồng nhạn, thân hình nàng kiện mỹ nhu khúc như du long đằng không hỷ hí; dung nhan sáng lạng giống hoa cúc mùa thu nở rộ, nét thanh xuân phồn thịnh như thanh tùng mùa xuân xanh tươi; bước đi như có như không tựa mây thưa nhè nhẹ bao quanh minh nguyệt, hình tượng phiêu đãng bất định như gió thổi làm tuyết hoa cuốn lên; nhìn xa xa, trong sáng khiết bạch giống như thái dương từ trong sóng nước đang dần lên cao, đến gần xem thì thật là minh lệ diệu nhãn như hoa hà đang đứng trên mặt nước hồ trong suốt; vai đẹp như được vót, eo được thắt một sợi lụa trắng mềm mại, cổ nhỏ dài, làn da trắng nhạt ẩn ẩn hiển lộ; không cần nước hoa, không cần son phấn; búi tóc phất phơ cao cao, đôi lông mày dài dài uốn khúc; hàm răng trắng tinh hiện sau đôi môi; đôi mắt sáng trong đa tư thật quyến rũ, hai lún đồng tiền ẩn hiện trên hai gò má. Tư thái kỳ mỹ, minh diễm cao nhã, nghi dung an tịnh, thần thái nhàn thục, nhu thuận khoan hoà duyên dáng, dùng lời nói thật khó mà hình dung được. Cách ăn mặc của nàng nhân gian thật hiếm thấy, cốt cách tướng mạo như tiên nữ trong tranh; y phục của nàng may bằng lụa mỏng sáng đẹp, đeo đôi hoa tai được điêu khắc từ ngọc đẹp; trang sức làm bằng hoàng kim phối phỉ thuý, dung mạo mỹ lệ sáng ngời như hy thế minh châu; nàng mang một đôi hài thêu hoa tinh mỹ, đang bồi hồi rảo bước bên dườn núi, tung tăng nhảy nhót, vừa đi vừa nô đùa; mặt trái có cờ màu ở bên cạnh, mặt phải có lộng quế chi che bóng. Nàng đang cuộn tay áo, để cánh tay trắng ngần ngập vào trong Lạc Thuỷ khiến cho nước sông trở nên đen đúa.

Ta đã ái mộ sâu sắc sự hiền thục và diễm lệ của nàng, tâm tình trôi dạt, buồn bã không vui. Khổ nỗi không có người mai mối đi truyền đạt lòng ái mộ của ta, phải dùng ánh mắt chứa chan tình cảm để biểu lộ tấm lòng, hy vọng tình cảm tha thiết của ta có thể biểu đạt với nàng trước người khác, ta muốn đem ngọc bội đeo bên lưng tặng nàng làm vật thề hẹn. Nàng thật quá hoàn mỹ, không những biết giữ lễ nghĩa mà còn thông hiểu thi ca, nàng đưa mỹ ngọc lên để đáp trả lại ta, chỉ vào đầm nước ước định kỳ hẹn gặp mặt. Trong lòng ta tràn đầy sự yêu thương chân thành, chỉ sợ vị thần đẹp đẽ đang lừa dối; truyền thuyết từng có hai vị thần nữ ở bên bờ Hán Thuỷ tặng bạch ngọc cho Trịnh Giao Phủ ước định chung thân, nhưng rồi phản bội lời thề, ngoảnh mặt đã không còn gặp lại, vì vậy nên ta do dự bán tín bán nghi, nét mặt nghiêm nghị nhưng lòng đầy sự hoan hỷ, trấn định tình tự, buộc mình phải nghiêm thủ lễ nghi giữa nam và nữ để tự khống chế lấy mình.

Do vậy nên Lạc Thần cảm động, luẩn quẩn bồi hồi, ngũ sắc thần quang thoắt ẩn thoắt hiện hốt minh hốt ám, tung thân khinh linh nhẹ nhàng như tiên hạc muốn bay đi mà vẫn còn lưu luyến. Nàng bồi hồi giữa khóm hương Thục Lan trên con đường nhỏ đang toả hương không ngừng bay lên không trung, rồi cất giọng ngâm nga quyến luyến, thanh âm bi ai thê lương ngân vang không ngắt. Chẳng lâu sau, các thần linh gọi nhau tụ lại, có vị nhảy nhót trong dòng nước sông trong vắt, có vị bay lượng trên bãi cát Lạc Thần thường du, có vị ở dưới đáy sông nhặt minh châu, có vị nhặt những sợi lông vũ đẹp đẽ bên bờ sông. Lạc Thần có Nga Hoàng, Nữ Anh ở Tương Thuỷ, nữ thần ở Hán Thuỷ theo bên cạnh bầu bạn, than thở cho sự cô đơn lẻ loi của Bào Qua Tinh, đồng tình với Khiên Ngưu Tinh sống một mình trong cảnh tĩnh mịch. Nàng đưa tay lên, dùng tay áo che ánh nắng mặt trời để tầm mắt ngắm được xa thêm, phần thân áo trên nhè nhẹ phiêu động theo gió. Cử động của nàng nhẹ nhàng như một con phi điểu, phiêu dật như thần, thâm bất khả trắc; cất từng bước nhỏ trên mặt nước, dưới chân nàng nở ra từng làn nước mềm mại; hành tung bất định, buồn vui không tỏ, tiến thoái nan liệu, muốn đi nhưng vẫn còn đứng lại, ánh mắt nhu tình lưu động, thần thái phi dương, gương mặt hữu tình thật kiều lệ, dường như nàng có rất nhiều lời muốn nói chứa trong miệng, hơi thở ngạt ngào hương lan; hoa dung nguyệt mạo của nàng lôi cuốn quyến rũ khiến ta không còn biết ta đang ở đâu. Lúc này, phong thần ngưng thổi gió, thuỷ thần dừng khởi sóng, thần ty âm dương gõ vang tiếng trống trời, Nữ Oa cất cao giọng hát trong trẻo; cá chép xúm lại vây quanh cỗ xe, sáu con rồng tề đầu tịnh tiến, kéo xe mây chầm chậm mà đi; kình ngạc tranh nhau nhảy đến bảo hộ cỗ xe, thuỷ điểu dương cánh bay qua bay lại như con thoi để hộ vệ. Vì vậy, Lạc Thần vượt qua quần đảo nhỏ, vòng qua eo núi phía nam, nàng quay đầu lại dùng ánh mắt thanh tú mỹ lệ nhìn ta, đôi môi mấp máy, chầm chậm nói những lễ tiết cương thường không thể không phân li, thống hận cảnh ngộ bất đồng của thần và người, rồi nàng đưa tay lên dùng tay áo gạt lệ, nước mắt lại cuồn cuộn tuôn trào thấm ướt cả y thường; cuộc gặp gỡ mỹ hảo vĩnh viễn đoạn tuyệt một cách thương tâm, ai oán; từ đây biệt li đất trời mỗi ngã. Không có tín vật biểu thị ái tình có thể tặng nhau, nàng liền đem chiếc ngọc hoàn danh quý của Giang Nam tặng cho ta, “tuy ẩn cư nơi thiên giới, thiếp vẫn sẽ thường nhớ đến quân vương…” còn chưa dứt lời thì bóng dáng chợt đã biến mất, thần quang tiêu độn.

Do đó, ta trèo đèo vượt núi, thượng hạ truy tung, mong tìm được dấu chân Lạc Thần lưu lại. Lạc Thần đã đi, tình cảnh vẫn còn, tìm khắp bốn phương. Ta trông mong hình bóng Lạc Thần lại xuất hiện, vì vậy ta ngồi thuyền nhỏ ngược xuôi dòng nước, phiêu bạc trên Trường Giang không muốn trở về, tư niệm liên miên bất tuyệt, lòng tư mộ lại càng nồng nhiệt. Đêm khuya, tâm thần bất an, không thể ngủ được, sương đêm dày đặc thấm ướt y thường cho đến khi trời sáng. Không chờ được nữa, phải lệnh cho bộc phu khởi giá tiếp tục quy trình. Ta nắm chặt dây cương, giơ roi quất ngựa, vẫn đứng tại nơi cũ, không nỡ rời đi.

tửu tận tình do tại
24.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Mật hay Phục

@ Vanachi,
Theo Hà Như:
Trong Lạc thần phú, 宓妃 chính là Phục Phi con của Vua Phục Hy 宓羲 (房六切), chưa bao giờ vua Phục Hy được gọi là Mật Hy cả.

Chú thích Mật phi, viết rằng:
Tương truyền là con gái Mật Hy 宓羲 (hay Phục Hy 伏羲, còn gọi là Bao Hy 包犧, Bào Hy 庖犧), chết đuối ở sông Lạc và làm thần sông Lạc. "Ly tao" 离騷: "Ngô lệnh Phong long thừa vân hề, Cầu Mật phi chi sở tại" 吾令豐隆乘雲兮,求宓妃之所在 (Ta sai thần sấm đưa cưỡi mây đưa, Mong tìm tới nơi của Mật phi). Chữ 宓 có thể đọc là Phục (theo Khang Hy từ điển).

Theo Hà Như,
Mật phi trong bài này nên phiên là Phục phi.
Phần chú thích Mật phi, có thể sửa lại là:
Chữ 宓妃 đọc là Phục phi , có một số sách đọc là Mật phi hoặc Bật phi (Hồng lâu mộng - Văn tế Tình văn)

Hà Như
(nếu sửa, có thể xoá look này)

25.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Phục phi

Cái này bác nói chí lý, cháu đã sửa lại :)

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời