Trang trong tổng số 43 trang (425 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lý Bạch): Bản dịch của Đất Văn Lang

Tiễn bạn từ tây Hoàng hạc lầu
Tháng ba hoa khói phủ Dương Châu
Buồm côi hút bóng chân trời biếc
Chỉ thấy ven trời sông chảy mau.

Ảnh đại diện

Quá Hoành Sơn quan hữu cảm (Nguyễn Trường Tộ): Bản dịch của Đất Văn Lang

Xưa chính đây là nam bắc tuyến
Nay về một mối thật mừng thay
Ải cao hùng tráng non sông đó
Núi dựng phân chia thế giới này
Luỹ chiến dậu hào đang rã mục
Bia rồng khí núi vẫn lừng bay
Khách lên chớ ngại leo đèo dốc
Tới đỉnh thành đô đã hiện bày

Ảnh đại diện

Hải thuyền dạ vũ (Nguyễn Trường Tộ): Bản dịch của Đất Văn Lang

Chín rồng đêm xuống chợt tranh giành
Đẩy gió lùa mưa dội xuống nhanh
Biển nước biển mưa dường nhập lại
Tiếng mưa tiếng sóng khó nghe rành
Triều nâng thuyền nhẹ lên ba trượng
Mây phủ trăng mờ tận hết canh
Mặt biển xưa giờ nhăn nếp sóng
Sáng nay phẳng lặng đẹp an lành.

Ảnh đại diện

Chu thứ trung thu (Nguyễn Trường Tộ): Bản dịch của Đất Văn Lang

Nhìn trăng, giữa biển sầu lên mãi
Ngắm mãi, canh ba lệ đẫm rồi
Thu trước nhà mình đôi bóng hợp
Đêm nay thuyền trọ một thân côi
Trời xanh rộng hẹp luôn luôn vậy
Nhân thế vui buồn chốc chốc thôi
Buồn lắm Hằng Nga nhờ giải hộ
Đêm nay đừng để mặc trăng trôi

Ảnh đại diện

Độ Hoa Phong (Hồ Xuân Hương): Bản dịch của Đất Văn Lang

Cánh buồm nhè nhẹ vượt Hoa Phong
Vách dựng màu son mọc giữa dòng
Nước uốn trườn theo hình núi chuyển
Núi nghiêng nép lại mặt dòng thông
Cá rồng hoà lẫn hơi thu nhạt
Cò nhạn cùng bay dưới ráng hồng
Động ngọc cốc tu nhiều chẳng kể
Đâu là chỗ gọi Thuỷ Tinh Cung.

Ảnh đại diện

Hoàng Hạc lâu (Nguyễn Du): Bản dịch của Đất Văn Lang

Tiên đã bao đời cỡi hạc đi
Dấu trên bến cũ chửa phai gì
Nay về xưa biến nhanh Lưu mộng  
Hạc vắng lầu trơ mãi Hạo thi
Khói sóng ngoài hiên còn mịt mịt
Cỏ cây trước mặt vẫn rầm rì
Trong lòng cuộn sóng ai cùng tỏ
Gió mát trăng vàng chẳng hiểu chi.

Ảnh đại diện

Bi Trần Đào (Đỗ Phủ): Bản dịch của Đất Văn Lang

Đầu đông mười quận gọi tân binh
Đầm nước Trần Đào máu đỏ sẫm
Trời biếc đồng không lặng chiến chinh
Một ngày bốn vạn quân chết trận
Giặc về nhúng máu rửa cung thương
Nốc rượu hét ca ngoài chợ quận
Dân chúng đêm ngày ngóng quân vương
Tiến từ phương bắc về giải hận

Ảnh đại diện

Cổ kiếm thiên (Quách Chấn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Anh chẳng thấy:
Sắt Côn Ngô luyện sùi khói nóng
Khói tía lửa hồng rát bỏng thân
Thợ giỏi rèn trui nhiều năm tháng
Long Tuyền bảo kiếm mới lưu danh
Long Tuyền sắc ánh như sương tuyết
Thợ giỏi xuýt xoa: tuyệt kiếm thành!
Ngọc khắc đài sen làm vỏ kiếm
Quai vàng loé ánh tận trăng ngàn

Phải thời thiên hạ dứt phong trần
May gặp anh tài giắt phòng thân
Lấp lánh tinh quang màu rắn lục
Vảy rùa óng ánh áng thơ văn
Nếu chẳng kết giao cùng hiệp khách
Cũng từng thân cận với hùng anh

Hà cớ giữa đàng đành vứt bỏ
Nổi trôi phiêu dạt chốn ngục trung
Dẫu đời quên lãng không dùng đến
Khí vẫn lừng trời mỗi đêm đông

Ảnh đại diện

Nguyệt dạ ức xá đệ (Đỗ Phủ): Bản dịch của Đất Văn Lang

Đường im hồi trống dội
Nhạn khóc ải thu sầu
Đêm khách nhoà hơi móc
Trăng quê sáng dạ cầu
Em anh rời chốn cũ
Còn mất hỏi nơi đâu
Thư gởi hoài không tới
Lại binh lửa ngập đầu.

Ảnh đại diện

Đăng cao (Đỗ Phủ): Bản dịch của Đất Văn Lang

Vượn khóc trời cao gió giật hồi
Bến trong cát trắng nhạn về rồi
Vô vàn lá lạc ào ào rụng
Bất tận sông dài cuộn cuộn trôi
Xứ lạ thu buồn ngàn dặm khách
Đài cao già bệnh một thân côi
Gian truân khổ hận đầu thêm bạc
Thất chí rượu buồn chẳng nuốt trôi

Trang trong tổng số 43 trang (425 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] [7] [8] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: