Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [74] [75] [76] [77] [78] [79] [80] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

33
NAM LAN
Một đời mộng chẳng thành


Từ khi ở Thương gia bảo bị Hồ Phỉ trước mặt mọi người nhiếc một câu “Mụ là người thiếu lương tâm,Thiên lôi sẽ đánh chết mụ”, suốt đời Nam Lan chỉ e sẽ không thể ngủ yên. Điều nghiêm trọng là lời phán xét ấy của Hồ Phỉ sẽ ảnh hưởng đến thái độ của rất nhiều độc giả, họ sẽ coi thiếu phụ Nam Lan là một người xấu xa. Dưới con mắt một số bạn đọc, Nam Lan là một phụ nữ đã có chồng, lại bỏ đi theo trai, là vô đạo đức Hơn nữa người chồng bị phản bội lại là Miêu Nhân Phụng, gã trai là Điền Qui Nông, một kẻ tiểu nhân thấp kém, thật là dại dột. Nam Lan bỏ đi theo trai, nghe tiếng con gọi cũng mặc kệ, đương nhiên không còn cả tình mẹ. Một phụ nữ như thế, cuối cùng thân tàn ma dại, hối hận đã muộn, chẳng phải là ác giả ác báo đó sao? Nhưng các bạn đọc hiểu rõ Hồ Phỉ, nhất định sẽ nghĩ kỹ một chút, Hồ Phỉ chỉ là một cậu bé, tuy có dũng khí và lòng hiệp nghĩa, nhưng rất nông nổi, thô lỗ, nói sai, làm hỏng nhiều lần. Hơn nữa, Hồ Phỉ khi đó chưa biết hoàn cảnh cụ thể ra sao, chưa biết tí gì về thân thế của Nam Lan, tâm sự của nàng. Lời phán xét của Hồ Phỉ, sao đủ để làm căn cứ Nam Lan rốt cuộc là người như thế nào, rõ ràng ta cần hiểu đã, rồi hãy đánh giá. Nếu biết hoàn cảnh của Nam Lan, ta sẽ thấy nàng quả là một phụ nữ bất hạnh. Sự bất hạnh của nàng, trước hết là số phận đẩy nàng vào thế giới võ lâm xa lạ, một thế giới mà nàng căm ghét.

Là tiểu thư con nhà quan, trưởng thành trong dòng chủ lưu của xã hội, nàng vốn theo cha lên kinh chờ việc bổ nhiệm, nào ngờ chỉ trong một đêm cha bị giết, nàng thành cánh bèo bơ vơ. Nguyên nhân chỉ tại cha nàng có mang theo một thanh bảo đao, tính lên kinh đô hối lộ quan viên, đổi lấy công danh, cho nên có một bọn trong võ lâm thèm muốn thanh bảo đao ấy, tìm cách cướp đoạt khiến cha nàng bỏ mạng. May có Miêu Nhân Phụng ngẫu nhiên lưu ý, kịp thời ra tay cứu mạng, nếu không thì bảo đao và mỹ nữ đều đã được chia phần cho mấy tên cường đạo, số phận của Nam Lan sẽ thảm thương hết chỗ nói. Thực tế, tuy được Miêu Nhân Phụng cứu sống, nhưng số phận một đời của Nam Lan cũng đã thay đổi tận gốc. Hơn nữa, tất cả đều không thể cứu vãn được nữa. Nam Lan nhanh chóng trở thành vợ của Miêu Nhân Phụng, trước tiên là nàng muốn báo hiếu, cảm tạ ơn cứu mạng của đối phương; thứ hai là tình huống cấp bách, nàng giúp Miêu Nhân Phụng hút chất độc, đã có sự “đụng chạm thể xác”, không thể không lấy chàng ta. “Chàng ta dẫu có là tướng cướp, ác tặc, nàng cũng không còn đường nào khác”. (Xem Phi hồ ngoại truyện) . Thứ ba là vì cha nàng đã chết, nàng không còn ai thân thích trên thế gian, không biết dựa vào đâu, thôi đành làm vợ Miêu Nhân Phụng. Một số người cho rằng Nam Lan được Miêu Nhân Phụng cứu sống, thành hôn với chàng ta, phải coi là may mắn nhất đời. Miêu Nhân Phụng không chỉ là vị anh hùng khắp thiên hạ không có đối thủ, mà còn nổi tiếng là “Kim diện Phật” đại hiệp trên giang hồ. Càng trọng yếu là Miêu Nhân Phụng đối với nàng không chỉ có ơn cứu mạng, mà sau khi thành hôn, còn nhất mực yêu thương nàng. Nhưng Nam Lan khi quyết định lấy Miêu Nhân Phụng chỉ là bất đắc dĩ, bởi nguyên nhân quan trọng nhất: tiểu thư Nam Lan không phải là người trong thế giới võ lâm của Miêu Nhân Phụng.

Trong sách viết : “Nếu Nam tiểu thư biết võ công, hoặc biết thán phục bản sự của chồng, thì nàng sẽ hiểu vì sao chàng là một đấng nam từ kỳ nhân đội trời đạp đất; nhưng nàng lại chẳng coi trọng võ công chút nào, thậm chí trong đáy lòng còn căm ghét võ công. Bởi lẽ cha nàng đã bị người trong võ lâm giết hại để cướp thanh đao, nàng phải lấy một người không hiểu gì tâm sự của nàng, vì người ấy đã dùng võ công cứu nàng”. (Xem Phi hồ ngoại truyện). Giữa Nam Lan và Miêu Nhân Phụng có sự khác biệt rất lớn về văn hoá, bao gồm địa vị xã hội, thói quen sinh hoạt, hứng thú quan điểm giá trị, mục đích sống v...v... Tóm lại là hai người không cùng một thế giới, đến với nhau chỉ do trời xui đất khiến mà thôi. Trong sách có một tình tiết rất quan trọng. Hôm ấy, khi Miêu Nhân Phụng đã bị thương, có bảo Nam Lan hãy dùng đao chém tên tướng cướp Tưởng Điều Hầu đã bị thương cho hắn chết đi, thì tiểu thư Nam Lan nói nàng không dám giết người, Miêu Nhân Phụng bèn quát to : “Cô nương không giết hắn, thì hãy giết ta đi!” (Xem Phi hồ ngoại truyện). Kết quả tiểu thư Nam Lan giật mình, run rẩy, thanh đao rơi khỏi tay, vừa hay bổ xuống vỡ sọ Tưởng Điều Hầu. Tưởng Điều Hầu chết, Nam Lan cũng ngất đi luôn. Đó là sự khác biệt văn hoá giữa hai người, đối với Miêu Nhân Phụng, giết người là chuyện cơm bữa; còn đối với Nam Lan, thì giết người, dù là giết kẻ đã giết cha mình, thậm chí giết người để tự cứu, nàng cũng không thể hạ thủ, không dám hạ thủ, không nỡ hạ thủ. Thực tế, từ khi hai người bắt đầu sống với nhau, sự khác biệt văn hoá hiện diện trong mọi chuyện. Sau tai hoạ kinh tâm động phách nọ, Nam Lan như mang tâm bệnh, “hễ nhắm mắt nàng lại nhìn thấy thảm kịch xảy ra trên tuyết, thấy cha nàng bị giặc giết hại, thanh đao trong tay mình rơi xuống, chém chết một người. Nàng thường thường khóc trong lúc nằm mơ”. (Xem Phi hồ ngoại truyện).

Mấy chuyện đó, Miêu Nhân Phụng không hề biết, dẫu có biết, chàng ta cũng không thể hiểu, tại sao cảnh tượng quá quen thuộc với chàng, lại trở thành ác mộng đối với Nam Lan, nên cũng không thể an ủi nàng. Ngược lại, khi huynh đệ họ Chung đến trả thù, trong khi Miêu Nhân Phụng bị thương chưa khỏi, Nam Lan định cưỡi ngựa chạy đi, thì Miêu Nhân Phụng lắc đầu không nói. Chàng biết tiểu thư Nam Lan sẽ không hiểu được rằng người “khắp thiên hạ không có đối thử’ thì không thể bỏ chạy. Theo cách viết trong sách, thì rạn nứt trong quan hệ vợ chồng Miêu Nhân Phụng bắt đầu từ lúc Miêu Nhân Phụng đứng trước mộ phần vợ chồng Hồ Nhất Đao đã vô tình ca ngợi phu nhân Hồ Nhất Đao : “Một nữ kiệt như phu nhân, dẫu trượng phu ở trong lửa, cũng sẽ nhảy vào lửa, dẫu trượng phu ở trong nước, cũng sẽ nhảy vào nước ...” Câu nói ấy vô tình khiến Nam Lan động lòng, bởi vì có một lần nhà cháy, Nam Lan đã bỏ Miêu Nhân Phụng mà chạy ra trước. Rõ ràng cuộc sống của Nam Lan sau khi lấy chồng là không sung sướng. Hứng thú và yêu cầu của nàng không được chồng thông cảm và tôn trọng. Ở bên cạnh người chồng anh hùng mà nàng vẫn bị ác mộng giày vò, mà tâm sự thầm kín của nàng vẫn không được người chồng chia xẻ. Tóm lại, sinh hoạt hôn nhân của nàng không thể đem lại hạnh phúc cho Miêu Nhân Phụng, và hoàn toàn không như nàng mong mỏi.

II Nam Lan rời bỏ chồng và đứa con gái, sở dĩ gà theo gà, lấy chó theo chó, lấy cái đòn gánh thì phải làm quang” cố hữu trong đầu óc mọi người, còn có một nguyên nhân quan trọng nữa, là do họ không hiểu sự khác nhau giữa hai vợ chồng Miêu Nhân Phụng và hứng thú cuộc sống và quan điểm giá trị. Họ không hiểu rằng một tiểu thư như Nam Lan lấy một anh hùng như Miêu Nhân Phụng, tuy không thề nói là tai hoạ, song rõ ràng cũng không phải là chuyện hay ho. Võ công cái thế, “khắp thiên hạ không có đối thủ”, giới võ lâm đều kính ngưỡng “Kim diện Phật” Miêu Nhân Phụng. Nhưng người phương Tây có câu ngạn ngữ “Dưới mắt tôi tớ không có vĩ nhân”, ngụ ý “Bụt chùa nhà không thiêng”. Đầy tớ ngày ngày chứng kiến sinh hoạt của vĩ nhân, thấy phương diện phàm tục mà những người khác không thể biết, thấy vĩ nhân cũng chẳng khác gì thường nhân cả. Từ đó suy ra, vợ của vĩ nhân còn gần gũi hơn nhiều, còn thấy rõ nhiều chuyện của vĩ nhân hơn. Nói cách khác, trước mặt vợ mình, vĩ nhân anh hùng tất nhiên ứng xử thoải mái, không phải lên gân, làm điệu làm bộ gì cả, như đứng trước mọi người. Tóm lại, làm vợ Miêu Nhân Phụng có sung sướng hay không, chỉ có Nam Lan hay biết. “Miêu Nhân Phụng bản tính trầm lặng ít nói, suốt ngày lầm lì, người vợ thì muốn chồng vui vẻ nói cười, phong nhã nhẹ nhàng, hiểu tâm ý phụ nữ. Miêu Nhân Phụng đầy mình võ công, khắp thiên hạ không có đối thử, song những gì người vợ cần thì chàng lại hoàn toàn không có (Xem Phi hồ ngoại truyện).

Tuy không thể nói Miêu Nhân Phụng không có hứng thú, chí ít chàng cũng có một vài hứng thú, tiếc rằng lại không phù hợp với mong muốn của Nam Lan. Như đã nói, giữa hai người có sự cách biệt về văn hoá. Điền Qui Nông tới, hay nói theo ngôn ngữ bây giờ, là Điền Qui Nông tán tỉnh, làm cho Nam Lan như bông hoa bừng nở, vươn ra ngoài bờ tường, tiếp đến cảnh bỏ chạy theo Điền Qui Nông. Nhưng chúng ta cần thấy, bất kể là Điền Qui Nông dụ dỗ, hay lòng xuân của Nam Lan loạn động, thì đó cũng chỉ là kết quả chứ không phải là nguyên nhân đích thực. Nguyên nhân đích thực dĩ nhiên là sự bất hoà trong cuộc sống giữa hai vợ chồng Miêu Nhân Phụng. Trong suy nghĩ của Nam Lan, Miêu Nhân Phụng chẳng phải là phụng hoàng gì hết, mà chỉ là một gã nông phu; ngược lại, Điền Qui Nông tuy tên là về với nhà nông, song thực chất lại phong lưu tuấn nhã như phượng hoàng. Câu nói nào của Điền Qui Nông cũng khiến người ta thích thú, cái nhìn nào của Điền Qui Nông cũng khiến trái tim phụ nữ thổn thức, các phẩm chất của Điền Qui Nông chính là những thứ Nam Lan mong đợi, những thứ mà Miêu Nhân Phụng chồng nàng không có. Điều này khiến nàng nhận ra, vấn đề không phải ở chỗ nàng không được Miêu Nhân Phụng quan tâm, mà là ở chỗ nàng hoàn toàn không yêu Miêu Nhân Phụng. Hiện tại, chúng ta đối diện trực tiếp với câu hỏi : hành vi của Nam Lan bỏ đi theo Điền Qui Nông có sai hay không? Nam Lan hạ quyết tâm bỏ chồng, bỏ con gái, bất chấp danh dự và gia đình, theo đuổi tình yêu, sự dịu dàng ấm áp, khoái lạc và hạnh phúc cho mình; hạ quyết tâm “Chỉ cần được ở bên cạnh Qui Nông, ngắn ngủi vài hôm cũng được, chỉ cần được ở bên cạnh Qui Nông, rồi chồng nàng Miêu Nhân Phụng có giết hay làm gì nàng cũng được”, vậy nàng sai ở chỗ nào? Nàng không yêu Miêu Nhân Phụng, mà yêu Điền Qui Nông, “Nàng rất yêu con gái, nhưng nó là con của Miêu Nhân Phụng, chứ không phải đứa con do nàng và Điền Qui Nông sinh ra”. (Xem Phi hồ ngoại truyện).

Nên cuối cùng nàng dứt áo bỏ đi. Đấy là một sự lựa chọn của nàng, sự lựa chọn này đáng được con người hiện đại thông cảm và tôn trọng, giống như ta tôn trọng sự lựa chọn của nhân vật Anna Karenina trong tác phẩm cùng tên của Lev Tolstoi vậy. III Nam Lan giống như Anna Karenina, vì sự lựa chọn của mình mà phải trả giá cực đắt, cuối cùng hoàn toàn không nhận được những gì mình kỳ vọng. Nguyên nhân gồm có, thứ nhất, sống lâu ngày với Điền Qui Nông, sinh hoạt đi vào nếp thông thường, nhiệt tình của Điền Qui Nông từ từ giảm đi, mà cảm giác mới lạ của Nam Lan cũng giảm dần. Thứ hai, Điền Qui Nông trước sau chỉ lo Miêu Nhân Phụng đến trả thù, nên phải tăng cường luyện công, hết sức đề phòng, điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến hứng thú cuộc sống, đến mức Nam Lan phát hiện Điền Qui Nông cũng giống như Miêu Nhân Phụng, thậm chí có chỗ còn không bằng chồng cũ. Thứ ba, việc Nam Lan bỏ đi theo trai, không chỉ bỏ chồng bỏ con, mà còn vứt bỏ danh dự, thậm chí gây rủi ro cho sinh mạng. Cái khoản “đầu tư” rủi ro quá lớn này đương nhiên chỉ mong nhận được “lợi tức”, nếu không nhận đủ “lợi tức”, sự thất vọng sẽ rất lớn. Thứ tư, rời bỏ Miêu Nhân Phụng coi như xong, nhưng việc rời bỏ đứa con gái để lại trong lòng Nam Lan nỗi day dứt khôn nguôi, bởi vì nó không chỉ là con của Miêu Nhân Phụng, mà còn là con đẻ rứt ruột của nàng. Thứ năm, tuy không có ai trong cuộc sống hàng ngày moi móc “lai lịch” của Nam Lan, áp lực thanh danh đạo đức cũng là một thứ sức ép tâm lý. Tất cả những thứ trên là nguyên nhân khiến Nam Lan “bất hạnh”, tiều tuỵ, cơ thể sinh bệnh, tâm hồn đau khổ, cuối cùng chết yểu. Đối với Miêu Nhân Phụng, Nam Lan đương nhiên cũng có sự ray rứt, dẫu sao Miêu Nhân Phụng cũng là ân nhân cứu mạng, là chồng nàng. Nam Lan trốn đi theo Điền Qui Nông, song Miêu Nhân Phụng không hề truy cứu, càng không truy cứu, thì Nam Lan càng bị ray rứt. Nhưng sự ray rứt này trong sách có tả sao đó để nó phát triển thành sự hối hận về mặt đạo đức hay không, thì không nói rõ. Nam Lan có nói với Hồ Phỉ :“Nói ra ngươi có thể không tin, nhưng mấy năm qua, ta vẫn ngày đêm nghĩ tới hai người đó” (tức Miêu Nhân Phụng và đứa con gái). (Xem Phi hồ ngoại truyện).

Giả sử Nam Lan phát hiện Điền Qui Nông không thật sự yêu nàng, liệu nàng có hối hận hay chăng? Điều đó còn là một nghi vấn. Bởi vì nàng không yêu Miêu Nhân Phụng, mà chỉ yêu Điền Qui Nông, đấy là sự thật hiển nhiên. Nếu Nam Lan vì thế mà lại hối hận về mặt đạo đức, thì sẽ phủ định toàn bộ lập trường tình cảm và sự lựa chọn cuộc sống tự chủ của nàng. Nếu thế, Nam Lan sẽ thành người gì? Chẳng hoá ra biến thành công cụ để tác giả rao giảng đạo đức ư? Thực ra, bi kịch của Nam Lan, cũng giống như Anna Karenina, là do không có ý chí sống và năng lực sống thật sự độc lập, lại coi tình yêu là nội dung của toàn bộ cuộc sống, gửi gắm cả sinh mạng mình vào đó, cho nên một khi phát hiện nội dung ấy, chỗ gửi gắm ấy không vững vàng, thì sẽ rơi vào vực sâu tuyệt vọng.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

34
ĐỊCH VÂN
Không chốn nương thân


Hình tượng nhân vật chính Địch Vân của bộ tiểu thuyết võ hiệp Liên Thành Quyết cho thấy rõ hơn khuynh hướng sáng tạo gần gũi với con người trong đời sống xã hội của tiểu thuyết gia Kim Dung. Địch Vân không giống với nhân vật chính của bất kỳ bộ tiểu thuyết võ hiệp nào trước đó. Cho dù đã tập luyện võ công, đã trải qua những cuộc kỳ ngộ đau thương thảm khốc khó ai có thể tưởng tượng nổi, gã vẫn không giống như nhân vật chính của một câu chuyện truyền kỳ, thay vào đó, lại chỉ giống như một con người tầm thường như bao nhiêu người khác.

Trong một số trường hợp, gã lại còn kém thua hơn cả người tầm thường, bởi vì trong đa số người tầm thường ở thế gian cũng không thấy ai là thật thà khờ khạo như gã. Duyên do sự ra đời của nhân vật Địch Vân, theo lời tác giả, là để nhớ về một “ông lão rất thân thiết” trong ký ức tuổi thơ của mình. Nhưng trên thực tế, ông đã mượn câu chuyện về nhân vật này để bày tỏ lòng cảm khái sâu sắc của mình về thế gian và lòng người. Do vậy, có thể xem đây chính là một câu chuyện ngụ ngôn về thế giới nhân gian.

I

Đặc điểm của nhân vật Địch Vân thật vô cùng đơn giản, đó là không biết trước điều gì, không định trước việc gì, với một bẩm tính là thực thà, trung hậu. Câu chuyện về gã ta kỳ thực cũng đơn giản, chỉ hiềm nỗi là gã liên tục bị lừa lọc dối gian, phải chịu nhiều oan khuất. Lúc còn là một gã nhà quê ngày ngày cày ruộng luyện kim ở quê nhà, Địch Vân đã sống một quãng đời hoàn toàn bình an. Một ngày nọ, gã rời quê vào thành. Có ngờ đâu ma đưa lối quỉ dẫn đường, mỗi bước chân đi là mỗi bước gã rơi vào từng hố bẫy đang chờ sẵn. Từ đó về sau, vận rủi trở thành một cơn ác mộng bén gót theo gã. Đầu tiên gã bị xử oan tội cưỡng hiếp, sau đó lại thêm tội trộm cắp, bị chặt đứt một ngón tay, bị xuyên thấu xương quai xanh, và bị tống vào tử lao.

Trong nhà lao, không rõ vì can cớ gì, bạn tù đem lòng oán hận ngày ngày ra sức ức hiếp dày vò gã. Cũng trong nhà lao, cuối cùng gã nhận được tin sư muội tâm ái Thích Phương của gã lại được đem gả cho kẻ thù đang tâm hãm hại gã là Vạn Khuê. Không thể tránh được nỗi hàm oan, không thể tỏ bày niềm oán hận, trên thế gian này, gã không còn một người thân, cũng không còn một tia hy vọng, gã bèn nghĩ đến cái chết, bởi vì có lẽ chỉ có cái chết mới có thể giúp gã chấm dứt khổ đau.

Bất ngờ, khi gã định tự sát, lại có một người bạn tù là Đinh Điển cứu sống gã, để rồi trở thành bạn chí thân của gã. Với bản chất thật thà khờ khạo của mình, có lẽ gã sẽ không bao giờ có thể biết được rằng tất cả những oan khiên mà gã phải gánh chịu hoàn toàn không phải do nơi gã, mà chính là do gã có một sư muội quá xinh đẹp, mà sư muội xinh đẹp này lại chung tình với gã, cho nên mới dẫn đến một loạt những âm mưu hãm hại nhắm vào gã, theo một kế hoạch độc ác một mũi tên nhắm ba mục tiêu: thứ nhất là lừa gạt làm cho gã phải ngồi tù; thứ hai là cấu kết với quan phủ giam giữ gã vô thời hạn; thứ ba là mê hoặc Thích Phương, làm cho nàng ta phải cảm động đến nỗi cuối cùng đành cam tâm tình nguyện làm vợ tên Vạn Khuê từ lâu đã ao ước thèm nàng đến nhỏ dãi. Địch Vân cùng Đinh Điển vượt ngục, bất ngờ Đinh Điển bị trúng độc tử vong, Địch Vân một mình suýt chút nữa thì trở thành miếng mồi ngon cho ác tăng Bảo Tượng.

May nhờ “Thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, gã không những không bị Bảo Tượng giết mà còn được Bảo Tượng “ban cho” tấm áo cà sa làm áo khoác. Nhưng cũng không ngờ được chính việc này đã mang lại cho gã một mối hoạn nạn vô vọng mới. Khi gã cứu người bên sông, thì bị con tuấn mã của Linh Kiếm Song Hiệp trứ danh đạp gãy chân, bởi vì gã đang mặc một tấm tăng bào của Huyết Đao Môn. Nhìn qua sắc áo chẳng trách Linh Kiếm Song Hiệp cũng như bao nhiêu người khác đều cho rằng gã Địch Vân thực thà khờ khạo, trong sạch vô tội này chính là tên dâm tăng bạo ngược tội ác dẫy đầy, chất chồng nợ máu.

Nguy hại hơn nữa, không những Linh Kiếm Song Hiệp và đám thị dân lòng đầy căm hận cho rằng gã là dâm tăng, mà ngay đến chính Lão Tổ của Huyết đao dâm tăng cũng nhận gã là đồ đệ của Bảo Tượng, là học trò của chính mình. Kết quả là, những người thuộc chính phái đều muốn bắt gã, còn lão tổ của tà môn Huyết đao lại trở thành cứu tinh của gã, đã đưa gã cùng “con mồi” Thuỷ Sênh từ Giang Nam cùng đào tẩu đến một hang tuyết nơi biên giới Tây Tạng, và gã rốt cuộc chẳng có được một cơ hội nào để biện minh cho chính mình.

Từ một gà nhà quê chân chất thiện lương, đột nhiên phải trải qua những bất hạnh cùng cực không rõ nguyên do mà không có cơ hội giãi bày và cũng chẳng có ai chịu lắng nghe chuyện oan ức của gã, cho nên chẳng trách sau khi lão tăng Huyết đao chết, đối diện với hai kẻ thù là Tứ Hiệp Giang Nam Hoa Thiết Cán và Linh Kiếm Song Hiệp Thuỷ Sênh, gã cuối cùng không chịu đựng được nữa mới khàn giọng thét lên, nghe như một tiếng khóc rằng: “Bọn ác nhân các ngươi sẽ có ác nhân trong thiên hạ trừng trị, Địch Vân ta đây không sợ các ngươi. Các ngươi đã tống ta vào ngục, xuyên thấu xương quai xanh ta, chặt đứt ngón tay ta, cướp sư muội của ta, đạp gãy chân ta, ta đều không sợ, bây giờ cho dù các ngươi có giết ta, ta cũng không sợ!

II

Địch Vân nói “không sợ”, đương nhiên cũng có phần chân thực trong đó, là bởi đến cái chết gã còn không sợ, huống gì những nỗi thống khổ hàm oan? Nhưng nếu chỉ nhìn bề ngoài của thái độ “không sợ” này thôi e chưa đủ. Trên thế gian này, Địch Vân có thể không sợ bọn “ác nhân”, nhưng tình nhân biến thành người xa lạ, cho đến người thân biến thành kẻ thù, thì điều này đã làm cho gã kinh sợ đến không nói nên lời.

Chính vì vậy khi hay tin Thích Phương xuất giá, gã đã tuyệt vọng đến mức muốn tự sát trong lao tù. Trong khoảnh khắc thét to “không sợ”, thái độ của Địch Vân rõ ràng có chút điên cuồng. Thật may mắn cho gã, bởi nếu không có sự điên cuồng này thì hoặc là gã sẽ không thể sống nổi với mối căm hờn oan ức tràn ngập, hoặc là từ đây về sau, tâm lý của gã sẽ hoàn toàn thay đổi, biến gã thành một tay đại ác nhân thực thụ chuyên báo thù một cách điên cuồng cả toàn thế giới. Địch Vân giờ đây đã luyện thành công Tuyệt thế thần công thần chiếu kinh, không bao lâu nữa sẽ luyện thành thục Huyết đao đao pháp, về phương diện võ công e rằng ít có địch thủ nào sánh kịp, nếu như gã có ý định báo thù, từ đây rắp tâm làm ác, thì cả thế giới cũng từ đây cũng khó mong được an lành.

Nhưng cũng may là Địch Vân đã không bị cơn điên cuồng ấy đè bẹp, và thái độ của gã cũng không thực sự biến đổi, gã vẫn chỉ là gã nhà quê thực thà trung hậu ngày nào. Chính vì thế mà vận rủi của gã vẫn chưa đến hồi kết thúc. Đợi cho đến lúc băng tuyết tan đi nơi hang tuyết, đại hiệp Hoa Thiết Cán bỗng chốc trở nên anh hùng, trong khi Địch Vân và Thuỷ Sênh bị vu thành dâm tặc và dâm phụ. Địch Vân muốn biện hộ cho Thuỷ Sênh nhưng càng nói càng không được gì. Gã vừa thất vọng vừa phẫn nộ. Nếu thực sự trong lòng gã không còn chút hy vọng nào nữa thì không biết chừng gã đã hoá điên vì phẫn nộ.

Học được chút hiểu biết từ Đinh Điển, được rèn giũa trong quãng đời phiêu bạt, sau khi rời khỏi hang tuyết, Địch Vân không những võ công cao cường hơn xưa mà tâm trí và kiến thức cũng được mở mang không ít. Ít ra, gã đã có thể hiểu rõ âm mưu của Vạn Khuê đối với gã từ trước cho đến nay. Rời khỏi hang tuyết, Địch Vân có hai khát vọng cháy bỏng: thứ nhất là tìm được sư phụ, tìm lại được cuộc sống tốt đẹp ngày nào; thứ hai là cùng sư phụ gặp lại sư muội mãi mãi chung tình Thích Phương, nói cho nàng biết mối oan khuất của mình, vạch rõ chân tướng của Vạn Khuê, rồi sau đó...

Khi những oan khuất của gã được giải toả hoàn toàn, thì chân tướng của cha con Vạn Khuê cũng bộc lộ rõ ràng không thể chối cãi. Ở tại sào huyệt của họ Vạn, Địch Vân đã dùng chính đạo lý của chúng để trừng trị chúng. Gã nhốt chúng vào khe giữa hai bức tường, để cho chúng tự chịu lấy hậu quả. Sau đó, khi mà gã và Thích Phương đã lại có thể bên nhau như một đôi bướm lượn, nối lại tình xưa, bắt đầu một đời sống tốt đẹp hạnh phúc, thì biến cố lại xảy ra. Thích Phương yêu cầu gã: “Đợi một chút”, mà kết quả là kể từ đây đôi ngả âm dương đành cách biệt. Nguyên là Thích Phương định lén đi thả tên Vạn Khuê chồng nàng ra, có ngờ đâu Vạn Khuê lại nỡ ra tay giết hại cả nàng. Địch Vân lúc này, vừa đau khổ vô cùng trước cái chết của Thích Phương, vừa bội phần căm hận sự độc ác của Vạn Khuê, vừa lại càng đau xót hơn cho chính mình, một lần nữa lại bị Thích Phương lừa dối.

Có thể là Thích Phương trước sau vẫn là lương thiện vô tội, nhưng trớ trêu thay cũng chính vị sư muội lương thiện vô tội này đã phản bội và lừa dối gã lần nữa. Với sự hiểu biết của mình, Địch Vân sẽ không bao giờ có thể giải đáp được các câu hỏi: Thích Phương tại sao biết rõ là gã trong sạch mà vẫn chấp nhận làm vợ Vạn Khuê? Tại sao biết rõ cha con Vạn Khuê là độc ác mà vẫn còn có thể nghĩ được đến điều “nhất nhật phu thê bách nhật ân” (vợ chồng một ngày nên nghĩa), để rồi đã lừa gã mà đi thả gã chồng ác độc, để rồi đã phải mất mạng vào tay hắn? Tại sao một kẻ lương thiện và vô tội như Địch Vân lại phải chịu hàm oan và bị chối bỏ?

Nếu như Địch Vân không bao giờ có thể hiểu được hành vi và tâm lý của Thích Phương, thì với những gì sư phụ Thích Trường Phát của gã đã làm, gã lại càng không tài nào hiểu được. Thời gian ở trong lao tù, Đinh Điển đã có lần nói với gã, sư phụ Thích Trường Phát ngoại hiệu “Thiết Sách Hoành Giang” của gã văn võ kiêm thông, bác học đa tài, nhất định không thể xem thường. Địch Vân tuy chân thành tín phục Đinh Điển, nhưng khi nghe Đinh Điển đánh giá sư phụ mình như vậy, gã thực sự không có cách gì tin được, nói cho đúng hơn là gã không dám tin, cũng như không muốn tin. Cho đến một lần vô tình dao găm của sư phụ gã đâm một nhát gần sát tim gã, gã mới thực sự biết rõ sư phụ mình là người như thế nào: Thích Trường Phát vì tiền của, có thể giết cả sư phụ mình, giết sư huynh, hoài nghi con gái ruột, thì tại sao lại không thể giết đồ đệ?” (Xem Liên thành quyết).

Nhưng gã vẫn còn chưa hiểu: “Một con người trong cuộc đời không cần bất kỳ người thân nào, không cần sư phụ, sư huynh đệ, đồ đệ, đến con gái ruột cũng không quan tâm, thì cho dù có đến một kho của cải vĩ đại nhất phỏng có vui sướng gì?” (Xem Liên thành quyết). Đến đây Địch Vân vừa cảm thấy tuyệt vọng khi hiểu rõ chân tướng sư phụ mình, vừa hoàn toàn u mê không hiểu tại sao sư phụ lại có thể như vậy. Nếu như tất cả những cạm bẫy, những cú đòn của số phận đã từng trải qua trước đây đều do người ác làm hại, do phải chịu oan khuất, thì Địch Vân vẫn còn có thể cắn răng chịu đựng, nhưng những biến cố về sau chính là những cú đánh chí mạng đối với gã. Bởi những cú đánh này không phải đến từ người ác, không phải đến từ kẻ thù không rõ chân tướng, mà lại đến từ tình nhân, từ người thân.

Mất đi sư muội Thích Phương khiến cho gã phải chịu một mất mát lớn về mặt tình cảm, làm lung lay đến tận gốc rễ niềm tin và hy vọng của gã về tình người trong nhân gian; sư phụ Thích Trường Phát từ đầu đến cuối lừa gạt gã, làm cho thân tâm gã bị tổn thương, làm cho tất cả những quan niệm và tinh thần của gã về bản chất con người, về luân lý tình thân, về đạo đức xã hội v.v..., đều bị huỷ hoại nghiêm trọng.

III

Điểm lại cuộc đời của Địch Vân, có lẽ không ai là không rùng mình run sợ. Trên thế gian này nơi nào là nơi Địch Vân được sống hạnh phúc? Có ba nơi: thứ nhất, khi còn làm ruộng ở quê nhà; thứ hai, chịu án oan nơi nhà lao tử tù; thứ ba, ở nơi hang tuyết gần biên giới Tây Tạng. Tình cảnh của Địch Vân thật là thê lương thảm não. Khi gã muốn về lại quê nhà thì nhà đã mất, không còn sư phụ, cũng không còn sư muội, gã còn biết tìm về cái gì ở đó?

Trong nhà lao tử tù thì Đinh Điển - người bạn thiết thân duy nhất của gã, ánh sáng ấm áp duy nhất trong nhân gian dành cho gã, đã nằm sâu dưới ba tấc đất lạnh, bây giờ chỉ còn có thể tưởng niệm mà thôi. Cuối cùng, Địch Vân thực sự không còn có chỗ nào để đi, cho nên, gã đành về lại cái hang tuyết nơi mà gã đã chịu đủ không biết bao nhiêu oan ức dày vò, tuy rằng lạnh lẽo nhưng đó lại chính là nơi duy nhất gã có thể trú thân. Qua câu chuyện của Địch Vân, ai cũng thấy đời sống xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ thật có quá nhiều nghịch lý. Các quan phủ là gương sáng treo cao, vì dân tạo phúc, nhưng chức quan phủ được mua bằng tiền; các hiệp khách hành hiệp trượng nghĩa, minh oan cho người, thì hoặc là bị người xấu giết hại, hoặc như Hoa Thiết Cán biến thành một loại côn trùng tội nghiệp tham sống sợ chết. Một đất nước nổi tiếng có lễ nghi nhưng dân chúng thuần phác lương thiện hoặc phải chịu nhiều oan khuất hoặc không thể phân biệt trắng đen tốt xấu.

Lại có cả những chuyện không đáng có, như những bậc tiền bối giả nhân giả nghĩa, những lớp đồ đệ hết sức độc ác hung bạo ỷ mạnh hiếp yếu, hoành hành ngang ngược . Đáng sợ hơn nữa là mối tình nguyên sơ sâu sắc giữa Địch Vân và Thích Phương không rõ vì đâu đã đổi thay, còn vị sư phụ thực thà trung hậu của Địch Vân hoá ra là một đồ đệ hoàn toàn giả dối và tàn nhẫn vô tình. Trong một xã hội mà đại hiệp háo danh, tà đồ háo sắc, từ quan phủ cho đến dân chúng ai ai cũng điên cuồng vì đồng tiền, thì con người thành thực trung hậu chất phác, không háo danh không háo sắc, không hám tiền của là Địch Vân, lại không thể tìm được một chốn dung thân, thật đáng thương thay!
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

35
Bước ngoặt sống còn của
HOA THIẾT CÁN


Có thể nói Liên Thành Quyết không phải là một bộ tiểu thuyết võ hiệp như thông lệ, mà là bộ tiểu thuyết “vô hiệp”, bởi vì họ của bốn chàng Giang Nam tứ hiệp Lục Thiên Trữ, Hoa Thiết Cán, Lưu Thừa Phong, Thuỷ Đại hợp lại thì gần giống như “Lạc Hoa Lưu Thuỷ ' có nghĩa là nước chảy hoa rơi, tên một khúc hát của vùng Giang Nam. Nếu không kể đến yếu tố dí dỏm, hẳn ai cũng có thể hiểu được ngụ ý trong câu nói trên.

I

Lão Tổ Huyết Đao dâm tăng Ma Đầu trứ danh giang hồ bắt cóc con gái Thuỷ Sênh của Thuỷ Đại, Giang Nam tứ hiệp không thể không cùng nhau truy diệt. Kết quả là bị Huyết Đao Lão Tổ vô tình đùa trêu, Giang Nam tứ hiệp hai chết một bị thương, không còn đất sống, tan tác như nước chảy hoa rơi, duy chỉ Hoa Thiết Cán là không hề hấn gì cả, nhưng kết quả sau đó thì không ai có thể ngờ được. Nếu như Hoa Thiết Cán cũng sớm tử vong trong cuộc truy diệt thất bại đó, hoặc y cố gắng giết được Huyết Đao Lão Tăng, thì âu đấy chẳng qua cũng chỉ là một kết cục thường thấy. Nhưng trong bộ sách này đã xuất hiện một cảnh hoàn toàn vượt ngoài dự liệu của mọi người, đó là trong khi Thuỷ Đại bị thương thập tử nhất sinh, Thuỷ Sênh bị bắt, Huyết Đao Lão Tăng cũng đã đến hồi sức tàn lực kiệt, kẻ duy nhất có khả năng liều chết một phen với đối phương là Hoa Thiết Cán đột nhiên lại đánh mất ý chí chiến đấu, để cuối cùng bị Huyết Đao Lão Tăng thôi miên! “Hắn ta trước sau chỉ muốn rũ bỏ khó khăn tìm con đường sống, tìm xin tha thứ, tuy rằng nhục nhã nhưng vẫn còn tốt hơn bị người ta chém giết. Hắn không nghĩ rằng nếu giơ đao cầu chiến lập tức có thể giết được kẻ thù, ngược lại chỉ thấy trước mắt một Huyết Đao Lão Tăng đáng sợ mà thôi”.(Xem Liên thành quyết).

Đọc đến đây, ai ai cũng ngao ngán thở dài cho cái chí khí của Hoa Thiết Cán. Đây là lần đầu tiên toàn bộ quá trình Hoa ThiếtCán bị Huyết Đao Tăng thôi miên được mô tả trongquyển sách này. Các nhà tâm lý học, thần kinh học, các nhà thôi miên và các bác sĩ y học lâm sàng nhất định có thể chứng minh phương pháp thôi miên của Huyết Đao Tăng là có hiệu quả, do vậy, những biểu hiện của Hoa Thiết Cán sau đó thực ra cũng không có gì là lạ. Hoa Thiết Cán sở dĩ bị thôi miên cũng chính là do một tình tiết, một bối cảnh tâm lý trong cuộc giáp chiến với Huyết Đao Tăng, khi Hoa Thiết Cán bất cẩn lỡ tay đâm chết huynh đệ kết nghĩa của mình là Lưu Thừa Phong. Sự việc ngoài ý muốn này khiến cho ý chí của y suy sụp, tinh thần hoảng hốt, nhuệ khí bị áp chế, nhất thời lục thần vô chủ. Thêm vào đó y lại còn tận mắt chứng kiến Lục Thiên Trữ rơi đầu, Thuỷ Đại gãy chân, còn Huyết Đao Tăng bỗng trở nên vô cùng kỳ bí, vô cùng đáng sợ, do vậy mà y dần dần đánh mất ý chí chiến đấu.

Huyết Đao Tăng trong cuộc chiến không tốn sức như vậy lại phát huy công phu uy hiếp bằng lời mà có lẽ tự bản thân lão ta cũng không ngờ được rằng đối với Hoa Thiết Cán giờ đây đến lời nói cũng đủ có tác dụng thôi miên, buộc y hạ vũ khí xin hàng. Thế là, tinh thần đại hiệp vào sinh ra tử trong giang hồ của Hoa Thiết Cán trong phút chốc đã hoàn toàn sụp đổ Nhưng chính sự sụp đổ tinh thần này mới là đáng sợ hơn, làm rung động lòng người hơn cả những cuộc đại chiến đầu rơi máu đổ. Hẳn nhiên là mỗi người có thể có những lý giải khác nhau về sự sụp đổ tinh thần của Hoa Thiết Cán. Một trong những lý giải hợp lý đó là, Hoa Thiết Cán cuối cùng hạ vũ khí, thúc thủ qui hàng là do trong sát-na tinh thần thất tán, không làm chủ được chính mình. Lý giải hợp lý thứ hai có thể là, Hoa Thiết Cán trong lúc đối diện với bước ngoặt sống chết lại phải chịu thêm những thách thức tâm lý, cuối cùng đã bộc lộ hoàn toàn bản chất tham sống sợ chết của y. Sở dĩ có lý giải thứ hai là do so sánh với trường hợp của Thuỷ Đại. Trong cùng một hoàn cảnh, Thuỷ Đại mặc dù bị gãy cả hai chân, nhưng tinh thần không bị tổn thương, ý chí chiến đấu không lay chuyển, thà chết nhất định không khuất phục.

Hoa Thiết Cán thì ngược lại, thân thể toàn vẹn mà ý chí chiến đấu lại tổn thất, ý tưởng ham sống sợ chết hoàn toàn chiếm ngự đầu óc không còn sáng suốt của y. Cử chỉ ham sống của y không những tương phản với thái độ không sợ chết của Thuỷ Đại mà còn dẫn đến kết quả là, Hoa Thiết Cán tuy đã từng ngang dọc giang hồ, đã từng trải qua đủ loại trận mạc sống chết, nhưng đúng cho đến khi phải trải qua bước ngoặt khảo nghiệm sống chết, cuối cùng y lại để lộ ra chỗ bạc nhược trong ý chí của mình, từ đây làm thay đổi cả cuộc đời và thân phận của mình, tự làm cho bản thân không còn có thể so sánh được với Thuỷ Đại xưa nay cùng nức tiếng giang hồ như nhau. Với thủ pháp có đổi mới, trong quyển sách này tác giả đã ra công khắc hoạ sâu sắc thực tế của đời sống. Sự sụp đổ tinh thần của Hoa Thiết Cán nói cho cùng cũng chính là nhược điểm nhân loại, bởi vì trên thế gian này, đã đành là có những người anh hùng xem cái chết nhẹ như lông hồng, nhưng thực tế tuyệt đại đa số nhân loại đều có chung một đặc trưng là vô cùng sợ cái chết.

Cho nên, những biểu hiện hèn yếu của Hoa Thiết Cán chẳng qua là để thuyết minh y tuy là đại hiệp nhưng cũng vẫn chỉ là một con người bình thường mà thôi. Điều muốn được nêu bật ở đây là không phải tất cả danh tiếng đều đúng với thực tế, càng không phải tất cả mọi người trong võ lâm đều có thể luôn luôn không bao giờ do dự tiếc nuối mạng sống của mình. Cho dù Hoa Thiết Cán trong bước ngoặt sống chết đã đánh mất ý chí chiến đấu, lộ rõ bản chất phàm nhân tham sống sợ chết của y, nhưng không vì vậy mà tác giả lại cho rằng danh tiếng của đại hiệp Hoa Thiết Cán trước đây đều chỉ là hư giả, cũng như Giang Nam Tứ Hiệp đều chỉ là mượn danh phỉnh đời, mà thân phận của họ giờ đây thực như “nước chảy hoa rơi”. Sách có viết “Cho dù trong bản chất của y thực sự cũng có chút tàn nhẫn ngấm ngầm, nhưng suốt một đời hành hiệp trượng nghĩa y chưa từng làm một việc gian ác nào, nếu không sao có thể cùng tam hiệp Lục, Lưu, Thuỷ tương giao hằng mấy chục năm, tình như huynh đệ?” (XemLiên thành quyết). Điều này trên thực tế cũng cho thấy rằng tứ đại hiệp Lục, Hoa, Lưu, Thuỷ đã từng là những anh hùng chân chính trong nhân gian, chẳng qua sau cái chết của tam hiệp Lục, Lưu, Thuỷ, còn lại một mình Hoa Thiết Cán giờ đây chỉ coi như là sống tạm, những năm cuối đời không đáng để nói đến nữa.

II

Kẻ còn ở lại sống tạm cõi nhân gian Hoa Thiết Cán này trong thoáng chốc đã đổi thay tính cách, làm đổi thay luôn cả diện mạo xưa nay. Sách có giải thích: “Hôm nay trong phút giây ngộ sát nghĩa đệ Lưu Thừa Phong, tâm thần y bị chấn động lớn, hào khí bình sinh trong chốc lát tan biến, lại bị Huyết Đao Tăng làm nhục, bao nhiêu ý nghĩ thô bỉ xấu xa bấy nhiêu năm đè nén tận đáy lòng đột nhiên trỗi dậy, chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ đủ biến y thành một người hoàn toàn khác trước (Xem Liên thành quyết).

Thế là, Hoa Thiết Cán trượng nghĩa giang hồ ngày nào nay biến thành một kẻ độc ác vô liêm sỉ, và đây mới chính là thủ bút thực sự gây kinh ngạc nhiều nhất trong cuốn sách. Sự thay đổi của Hoa Thiết Cán ở đây thực sự là một sự đột biến, bởi vì sau khi đánh mất ý chí chiến đấu, tự động hạ vũ khí đầu hàng, sau khi bị Huyết Đao Tăng điểm trúng huyệt “Linh Đài” không lâu thì y phát hiện Thuỷ Đại nói quả không sai, lão ác tăng này quả nhiên chân khí suy kiệt, lúc nãy nếu xuất chiêu thì đã có thể kết liễu mạng sống lão rồi. Sự phát hiện này khiến hối hận không nguôi về những gì mình đã làm, y nghĩ rằng: “Mình đã thành danh Trung Nguyên Đại hiệp suốt mấy chục năm, mà lại quì gối cầu xin kẻ thù gian ác không thể tha thứ như vậy, hạng tham sống sợ chết, độc ác vô sỉ như mình thật không còn chốn dung thân nữa”. (Xem Liên thành quyết).

Điều thúc đẩy biến đổi tâm lý Hoa Thiết Cán, huỷ hoại sức mạnh nơi nhân cách y phút trước là do dục vọng cầu sinh của y trong lúc tâm thần u mê, còn phút sau là do cảm giác không chốn dung thân, sau khi y tỉnh ngộ. Trong phút cầu sinh, y không tự chế ngự được mình; sau khi tỉnh ngộ, y mới vì cảm thấy mình không còn chốn dung thân mà tâm lý thực sự bắt đầu xoay chuyển, nghĩ rằng danh tiếng anh hùng cả đời mình cuối cùng trôi theo nước chảy, y cảm thấy bất an và không có cách nào lấy lại lòng tự tin. Người phương Tây có nói, đường lên thiên đàng thì từng bước gian nan, còn đường xuống địa ngục lại dễ như đi thang trượt. Phút trước không chế ngự được mình, phút sau không thể tự tin vào chính mình, không còn chốn dung thân, Hoa Thiết Cán từ đây chỉ còn cách đã sai cho sai luôn.

Thế là những dục vọng và ác niệm kìm nén bấy lâu được dịp bộc phát, làm thay đổi con người y đến tận gốc rễ. Nếu như y biết rằng, nỗi sợ chết của con người kỳ thực không phải là một nhược điểm xấu xa mà chỉ là một đặc điểm thường tình; nếu như bên cạnh y có một bác sĩ tâm lý kịp thời giảng giải, khuyên bảo, nói với y rằng cái lúc y hạ vũ khí cầu xin được sống chẳng qua là vì trong sát na tâm thần thất thường, lại bị Huyết Đao Tăng thừa cơ thôi miên, chứ không phải là do y xấu xa vô liêm sĩ, do vậy y cũng không phải lâm vào cảnh ngộ “không chốn dung thân”; nếu như y biết rằng hành vi của y sẽ được người đời lượng thứ, sẽ không ảnh hưởng đến danh tiếng anh hùng của y, có lẽ tâm lý y đã không bị biến thái, hành vi của y cũng sẽ không đến nỗi bất thường như vậy.

Nhưng vấn đề là trong đời sống thì lại không có đủ các giả thiết đó. Trong truyền thống văn hoá và các quan niệm về giá trị nơi HoaThiết Cán từ trước đến nay chưa bao giờ có sự hiểu biết và lòng khoan dung độ lượng thực sự đối với các nhược điểm của con người. Truyền thống văn hoá này xưa nay vẫn xem bản năng ham sống là một minh chứng cho sự sa đoạ về mặt đạo đức của con người, thậm chí những trường hợp bất đắc dĩ bị bắt làm tù binh trong chiến tranh cũng bị gọi là phản bội xấu xa. Cho nên càng không thể có việc biện hộ cho hành vi của một kẻ cầu xin được sống vì lý do tâm thần thất thường vừa lại bị thôi miên. Thế là trong cuộc đời này Hoa Thiết Cán chỉ còn có thể thấy rằng mình không còn chốn dung thân. Sau khi bị nỗi sợ chết đánh gục, một lần nữa y lại bị đánh gục bởi cảm giác không chốn dung thân.

Sự thoái hoá biến chất nhanh chóng của Hoa Thiết Cán nếu không phải là do bẩm chất trời sinh của y thì chính là do những áp lực nặng nề và gay gắt của đạo đức truyền thống cố hữu nơi y. Nhưng trong khi trải qua bước ngoặt sống chết mà vẫn giữ vững các quan niệm về văn hoá đạo đức cũng là một thách thức cực độ đối với Hoa Thiết Cán, bởi sự giới hạn và khiếm khuyết của các quan niệm này không những không giúp gì được cho y mà lại còn trở nên một trở ngại lớn đối với y. Do vậy, có thể nói sự đột biến về tính cách của Hoa Thiết Cán có bao hàm trong đó ý nghĩa văn hoá sâu sắc. Chỉ một ý niệm sai lệch trong bước ngoặt sống chết đã biến Hoa Thiết Cán thành một con người khác hẳn, điều này không những cho thấy cốt lõi sâu xa bí ẩn huyền diệu trong tâm lý và tính cách của y mà còn chứng minh sự phức tạp trong tâm lý con người. Giang Nam đại hiệp chính trực Hoa Thiết Cán lại cũng là một tên tiểu nhân hèn hạ, tất cả đều do hoàn cảnh và tâm lý biến đổi mà thành.

Hoa Thiết Cán không phải là Thánh nhân cũng không phải là quỷ dữ. Sự biến đổi tính cách nơi y cũng chỉ để nói lên hai mặt cao quý và đớn hèn luôn tồn tại đồng thời trong mỗi con người trên thế gian. Tuy vậy Hoa Thiết Cán không chốn dung thân về mặt tâm lý vẫn không ngừng tìm kiếm nơi trú thân cho mình. Thực ra tất cả những gì y đã làm đều xuất phát từ bản năng của y với hai lý do, thứ nhất là để bảo toàn tính mạng, thứ hai là để bảo toàn danh tiếng. Chính vào lúc y bị điểm huyệt, Huyết Đao Tăng sống chết chưa rõ, Địch Vân bạn thù bất phân, việc quan trọng y phải làm là lấy lòng Địch Vân, khiến cho gã không có lý do làm hại y. Đầu tiên y cho rằng Địch Vân tham hoa háo sắc, định dâng Thuỷ Sênh cho gã, nhưng sau đó phát hiện Địch Vân dường như không phải loại dâm tăng, y bèn đổi giọng: “Địch đại hiệp lần này đã giết chết Huyết Đao ác tăng, nhất định là vang danh thiên hạ. Sau khi ra khỏi hang tuyết này, việc thứ nhất ta muốn làm là tuyên dương công trạng của đại hiệp ngày hôm nay đã hăng hái quên mình cứu viện Thuỷ cô nương, giết chết Huyết Đao tăng, thực là một đại sự bậc nhất trong võ lâm vậy.” (Xem Liênthành quyết).

Dựa theo kinh nghiệm và tham muốn sâu sắc nhất trong nội tâm của y, y cho rằng những lời lẽ như vậy - nhất định có thể làm lay động Địch Vân, bởi phàm đã là con người thì ai lại không háo sắc? Mà nếu như không háo sắc thì nhất định sẽ háo danh! Tiếc một điều là không như y vẫn tưởng, gã Địch Vân này đã không háo sắc lại cũng chẳng háo danh. Giá như Địch Vân háo sắc hoặc háo danh thì Hoa Thiết Cán có lẽ đã có thêm được bạn đồng hành để cùng nương nhờ, che chở và cổ xuý cho nhau, an tâm hành hiệp trong võ lâm. Nhưng không hiểu vì sao Địch Vân cũng chẳng tỏ ra tha thiết gì với lời đề nghị cất nhắc của y. Sau khi các huyệt được thông suốt trở lại, việc đầu tiên y muốn làm là thủ tiêu Địch Vân, thủ tiêu nhân chứng của những việc làm xấu xa đê tiện của mình, cũng như nhờ vậy mà lại được tiếng tốt là một đại hiệp có công thanh trừ dâm tà yêu tăng!

Thực không ngờ, một đại hiệp võ công thâm hậu như Hoa Thiết Cán lại không giết nổi tay võ công sơ đẳng Địch Vân. Cho nên y chỉ còn cách thực thi chiêu cuối cùng, đó là vào ngày băng tuyết tan đi nơi hang tuyết, khi mà tất cả anh hùng trong thiên hạ tụ tập đến nơi đây, y bèn tung tin Địch Vân và Thuỷ Sênh tư thông với nhau, làm ầm ĩ lên như là chuyện có thật, làm cho Địch Vân và Thuỷ Sênh không còn dám nhìn mặt ai, cũng như mọi người không ai còn tin tưởng vào hai kẻ này nữa. Như vậy chúng sẽ không còn cơ hội tiết lộ bí mật về những việc làm xấu xa của y, vì cho dù có nói, cũng không ai tin. Thế là Hoa Đại Hiệp vẫn là Hoa Đại Hiệp, Tiểu dâm tăng vẫn là Tiểu dâm tăng, chúng sinh thiên hạ chỉ nhìn mọi sự theo bề ngoài, ai lại phí công đi tìm hiểu đâu là thật đâu là giả? Hoa Thiết Cán đường đường là một đại hiệp, có ngờ đâu cuối cùng lại trở nên xấu xa hèn hạ đến như vậy

Để bảo toàn mạng sống, y có thể ăn tươi thi thể huynh đệ kết nghĩa. Để bảo toàn danh tiếng, y lại có thể ngang nhiên tung tin xằng bậy làm khuynh đảo trắng đen. Thế mới biết bản năng tính của con người có thể yếu nhược đến như vậy và cũng có thể thay đổi đến như vậy. Giờ đây nhớ lại phong cách diện mạo đạo đức của Giang Nam Tứ hiệp xưa kia, thật không ai không khỏi rùng mình thở dài. Đặc biệt khi xem đến đoạn Hoa Thiết Cán công nhiên gia nhập đội ngũ điên cuồng cướp bóc tài sản của tổ tiên truyền lại người ta thậm chí còn không thể phân biệt được đâu là trạng thái bệnh hoạn đâu chân tướng bản chất.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

36
Tình người chợt loé ở
HƯ TRÚC TỬ


Trong ba nhân vật chính của bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ, Hư Trúc xuất hiện muộn nhất, chiếm số trang ít nhất, và xem ra tính cách cũng kém phần đặc sắc, cho nên thường bị một số độc giả coi nhẹ không chú ý tới và bỏ sót. Thảng hoặc có nhắc tới nhân vật này thì cũng chỉ là cảm giác về một vị tiểu hoà thượng tướng mạo xấu xí khó coi, tính cách cổ hủ, đã không có khí khái anh hùng, lại cũng không được trí tuệ phong lưu, đã không hợp quy tắc trào lưu, lại cũng không thể tự chủ tự quyết, và tất cả những việc làm của vị tiểu hoà thượng này thường trở thành trò cười trong cả bộ sách.

Một vị tiểu hoà thượng của Phật gia Thiền môn, cuối cùng lại trở thành chủ nhân cung Linh Thứu thuộc phái Tiêu Dao của Đạo gia, suốt ngày bị bao vây bởi một đám con gái, há không phải là kỳ lạ hay sao? Thế nhưng nhân vật Hư Trúc, hay còn gọi là Hư Trúc Tử này, lại là một nhân vật điển hình không thể thiếu được của bộ sách. Qua câu chuyện và tính cách của y, có thể thấy được hàm ý chủ đề của tác giả. Câu chuyện của y có tầng thứ phân minh: tầng thứ nhất là số mệnh quyết định tính cách, tầng thứ hai là tính cách quyết định số mệnh, tầng thứ ba là tính cách và số mệnh xung đột, tầng thứ tư là số mệnh và tính cách hài hoà. Nói tóm lại, nhân vật và cũng là hình tượng văn học này ẩn chứa bên trong mình một triết lý sâu xa về sự phong phú của đời sống nhân sinh.

I

Một con người được sinh ra trong thế giới ta bà này, xem ra cũng chỉ là một chuyện bình thường, nhưng sự thực thì không biết cần phải có bao nhiêu nhân duyên kết hợp. Từ xưa đến nay, việc bàn luận về số mệnh con người đã luôn kích thích sự suy tư cũng như mê hoặc tâm trí của nhân loại, bởi vì bộ não người đã có sẵn khả năng tính toán, nhưng rốt cuộc vẫn không thể tính được trong cuộc đời của một con người có tất cả bao nhiêu loại cơ duyên ngẫu nhiên. Ví dụ như Hư Trúc, ai có thể ngờ được, cái con người không ai biết rõ lai lịch này, thuở nhỏ là cô nhi xuất gia tại Thiếu Lâm tự, lại là con ruột của Chưởng môn đạo cao đức trọng Huyền Từ, trụ trì chùa Thiếu Lâm? Và rồi ai cũng có thể ngờ được, tình nhân của Huyền Từ, mẹ của Hư Trúc, lại là Diệp Nhị Nương nổi danh Thiên hạ đệ nhị ác nhân? Ai có thể ngờ được Đại sư chưởng môn tổ đình Thiền tông lại đã từng vì dục tình thúc đẩy, đại phạm dâm giới; còn Đại ma đầu Diệp Nhị Nương khét tiếng tàn hại anh nhi, chỉ vì con mình bị người bắt mất, quá đau lòng phẫn chí mà hoá ra điên khùng chuyên bắt và hại chết con người khác.

Do sự hấp dẫn của giới tính, kết tinh tình ái của Đại hoà thượng xuất gia và Đại ma đầu thế gian, đã “trung hoà” thành một con người đặc biệt là Hư Trúc Tử. Một điều không thể ngờ được nữa là, khi gia tộc Mộ Dung ở Cô Tô nhất định khôi phục vương triều Đại Yên, hòng xúi giục mối tranh chấp xung đột giữa hai nước Tống, Liêu, kết quả đã làm ảnh hưởng đến vận mệnh cả cuộc đời của đứa trẻ vô tội Hư Trúc. Huyền Từ đại sư khi dẫn đầu đạo quân hào kiệt Trung nguyên tiến thẳng đến Nhạn Môn Quan để ngăn chặn nhóm võ sĩ Khiết Đan có ý định xâm chiếm Thiếu Lâm tự, đã giết chết vợ và tôi tớ của Tiêu Viễn Sơn, bắt con của hắn là Tiêu Phong đem về gửi nuôi ở nhà nông phu Kiều Tam Hoè bên ngoài Thiếu Lâm tự. Cậu bé Tiêu Phong này cũng được học võ công với cao tăng Thiếu Lâm Huyền Khổ đại sư. Tiêu Viễn Sơn thất chí phục thù bèn ăn miếng trả miếng, bí mật điều tra ra mối tư tình giữa Huyền Từ và Diệp Nhị Nương, thế là hắn cũng bắt luôn đứa con của Huyền Từ và Diệp Nhị Nương, đưa vào trong Thiếu Lâm tự, làm cho nó trở thành một đứa trẻ mồ côi không biết cha mẹ mình là ai.

Như vậy, số mệnh của đứa trẻ này đã được định sẵn như sau : nó được “sinh ra” Ở Thiếu Lâm tự, lớn lên ở Thiếu Lâm tự, Thiếu Lâm tự là Phật quốc Thiền môn, đứa trẻ mồ côi “không cha không mẹ” này đương nhiên chỉ có thể do tăng nhân trong chùa dưỡng dục, tự nhiên mà thành tiểu tăng nhân, rồi chiếu theo thứ tự các thế hệ Huyền, Tuệ , Hư, Không của Thiếu Lâm tự mà được mệnh danh là Hư Trúc. Vấn đề là từ nhỏ Hư Trúc không biết gì về lai lịch thực sự của mình, từ nhỏ đã quen nhìn thanh đăng hoàng quyển, đã quen nghe trống sớm chuông chiều, quen nói A di đà Phật, quen sớm công phu tối thời khoá, tự nhiên sẽ cho rằng mình từ nhỏ đã là một tăng nhân. Hơn nữa trên người y vẫn còn vết sẹo do chính tay mẹ y Diệp Nhị Nương đốt, y đương nhiên không thể nào ngờ được đây là kỷ niệm tình yêu của mẹ y, chỉ nghĩ rằng đấy là cái bớt bẩm sinh trong cuộc đời xuất gia lễ Phật. Tóm lại, Hư Trúc từ nhỏ đã tuyệt đối chấp nhận thân phận tăng nhân của mình không chút nghi ngờ. Hơn nữa từ nhỏ sinh trưởng ở Thiếu Lâm tự, không biết nhân gian tục thế, cho nên cho dù là nghi thì cũng không biết lối nào mà nghi.

Nếu y không là tăng nhân, không chấp nhận thân phận tăng nhân thì còn có thể là loại người gì, còn có thể chấp nhận loại thân phận gì khác được đây? Thế là, số mệnh này không những quyết định hoàn cảnh và phương thức sinh sống của Hư Trúc, đồng thời còn quyết định tính cách và toàn bộ thế giới tinh thần của y nữa. Thế gian có câu “Tiểu hoà thượng niệm kinh, hữu khẩu vô tâm”, nhưng tiểu hoà thượng Hư Trúc này thì không như vậy. Y do không biết gì về tục thế nhân gian, cho nên tâm không bao giờ xao động, tự nhiên là thành kính tin tưởng và tôn thờ giới luật thiền môn và kinh điển nhà Phật. Cho nên Hư Trúc là một tiểu hoà thượng thành kính chân chính. Cũng chính vì vậy mà khi y rời khỏi sơn môn, trong lần đầu tiên tiếp xúc với thế nhân đa sự, thực không khỏi tỏ ra hẹp hòi ngốc nghếch, thậm chí cổ hủ đến không chịu nổi.

II

Giả sử không bao giờ rời khỏi Thiếu Lâm tự, thì số mệnh của Hư Trúc không khó đoán, chẳng qua chỉ là một tăng nhân Thiếu Lâm tự thông thường, sống một cuộc đời tu hành bình thường, không ai hay, không ai biết, như hư như không. Vấn đề là, trưởng bối trong chùa phái y xuống núi đưa thư, lần đi này, y lóng nga lóng ngóng, đầu váng mắt hoa, lại đúng vào thời điểm của vận hạn, không thể kháng cự được. Đối với Hư Trúc, thế giới bên ngoài không những xa lạ mà còn khiến cho y không biết phải làm sao. Cơ hồ như có một luồng sức mạnh không rõ từ đâu kéo lôi y xuống vực sâu; cơ hồ như trong thế tục giang hồ đó , người người đều gây khó khăn cho y, thậm chí luôn luôn chống đối y. Hư Trúc lần đầu tiên hạ sơn xuất đầu lộ diện, liền gặp ngay Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng, hai kẻ này đã làm cho y đến một ngụm nước cũng uống không xong.

Trước khi uống nước, theo lệ thường y niệm ẩm thuỷ chú, đủ thấy cho dù đã xuống núi rời chùa, Hư Trúc vẫn tự giác tuân thủ giới luật, giữ vững tác phong tăng nhân. Nhưng Phong Ba Ác bỗng hỏi một câu “Sau khi thầy niệm ẩm thuỷ chú, rồi uống cả tám mươi bốn ngàn con vi trùng vào bụng, như thế không phải những con vi trùng đó cũng đã chết rồi sao?” (Xem Thiên long bát bộ). Bởi vì sư phụ chưa từng dạy qua, cho nên câu hỏi này khiến cho Hư Trúc vô cùng lo sợ nghi ngờ. Thêm nữa, Bao Bất Đồng thì lại cứ khăng khăng, nói rằng trong nước đó không phải có tám mươi bốn ngàn vi trùng, mà chỉ có tám mươi ba ngàn chín trăm chín mươi chín thôi; lại nói Hư Trúc có thiên nhãn thông, “nếu không thì làm sao thầy chỉ nhìn tôi một lượt thì biết tôi là phàm phu tục tử, chứ không phải là Bồ Tát giáng trần?”

Lần này thì Hư Trúc vô cùng hoảng sợ, nhìn trước ngó sau, hoang mang không biết phải nói gì nữa cả. Trong khi câu hỏi này còn chưa trả lời xong thì Phong Ba Ác lại tìm y để đấu võ, làm cho y lại càng lóng nga lóng ngóng, chỉ còn cách rút lui khỏi quán nước bên đường. Người dưới núi đón tiếp y bằng một lễ “ra mắt” như vậy, y cảm thấy thật khó nuốt, có biết đâu đây mới chỉ là tiếng trống mở đầu, không thấm tháp gì so với số mệnh của y sau này. Tiếp đó, y và sư thúc Huyền Nạn cùng Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng bị Đinh Xuân Thu bắt, đưa tới hang Lung Á ở núi Lôi Cổ, không cách thoát thân. Lần này thì khác, vì muốn cứu người, y bị bắt chơi cờ. Chơi xong ván cờ thì y bị buộc phải từ bỏ bổn sư bổn môn, theo môn phái khác, bất kể thế nào, trước hết là hoá giải toàn bộ nội công Thiếu Lâm chính tông của y, truyền cho y nội công của Tiêu Dao tà môn phái, rõ ràng là người ta muốn biến y thành Chưởng môn của phái Tiêu Dao?

Thử nghĩ xem, một vị tiểu hoà thượng từ trước đến nay chưa từng biết qua thế giới phàm tục, sao có thể làm một chưởng môn? Hơn nữa lại còn làm trái với tâm nguyện của y, ép bức, dụ dỗ, ràng buộc, làm cho y mắc lừa, mắc câu, là phải bước lên thuyền gian. Không dễ mà thoát được mối ràng buộc này, y vội vàng trốn về Thiếu Lâm tự, có ngờ đâu lại gặp thêm một tai nạn vô vọng mới. Trên đường đi y gặp tiểu ma nữ A Tử, vốn không quen biết, không thù oán, và y đối với cô ta cũng vô cùng đúng mực, nhưng cô ta lại vô duyên vô cớ lừa y uống canh gà, ăn thịt mỡ, làm cho Hư Trúc trì giới nghiêm mật “hai mươi ba năm chưa hề biết ăn mặn là gì” (Xem Thiên long bát bộ) vô tình lại phá giới vậy?

Cảnh ngộ kế tiếp mới là quan trọng, y hảo tâm cứu một đứa bé gái, không ngờ đó lại là Thiên Sơn Đồng Lão. Vướng vào mối ràng buộc này, y thật khó có hy vọng thoát thân. Bà ta không tỏ chút lòng cảm kích nào đối với y, lại còn buộc y luyện võ công giết người, phạm giới sát, phạm giới ăn chay, lại còn dụ dỗ y trong lúc mơ hồ bất cẩn phạm cả giới dâm, làm cho y trong cơn đau buồn tuyệt vọng lại phạm thêm giới tự huỷ tính mạng, một đại giới của Phật môn! Tóm lại là làm cho Hư Trúc không còn có thể làm hoà thượng, không thể tu thành Phật. Cuối cùng, khi Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thuỷ theo nhau chết đi, thì y không hiểu sao lại trở thành chủ nhân mới của cung Linh Thứu. Một vị tiểu hoà thượng xuất gia trở thành lãnh đạo tối cao của một vương quốc phụ nữ, đến nỗi những khi tâm tình mâu thuẫn bối rối, đến các giới nhà Phật như giới tửu, vọng ngôn v.v..., đều phạm hết.

Tóm lại, Hư Trúc một lòng thành kính hướng Phật, thật thà chất phác, hạ sơn không được mấy tháng thì đã bị cưỡng bức dụ dỗ làm cho ngũ giới bát giới đều phạm, đánh mất nội công bổn môn, thâm nhập bàng môn tả đạo Tất cả những điều này vốn không phải là ý nguyện của Hư Trúc, nhưng từ đầu đến cuối y hoàn toàn bất lực không thể kháng cự, cứ thế mà đánh mất cả bản thân mình, thật đau xót thay! Xem ra, rõ ràng là có một sức mạnh thần kỳ chống đối lại Hư Trúc, làm cho y luôn gặp vận xui, ác mộng không dứt, tránh không khỏi, chạy không thoát. Cuối cùng, y chủ trương không làm chủ nhân cung Linh Thứu nữa, thà rằng làm tiểu hoà thượng Thiếu Lâm tự. Nhưng sau khi về tới Thiếu Lâm tự, cho dù thành tâm nhận lỗi, thành tâm hối cải, cam tâm chịu phạt, cuối cùng vẫn bị đuổi khỏi Thiếu Lâm tự! Thêm nữa vừa biết được thân phận cha mẹ của chính mình, thì phải tận mắt chứng kiến cha mẹ theo nhau tự sát trong cuộc tao ngộ bi thảm, từ đây, Hư Trúc trở nên một loại cô hồn được cái mà mình không muốn, không được cái mà mình muốn. Xem ra, số mệnh của Hư Trúc, thật là khổ không có cách gì tả được.

III

Số mệnh của Hư Trúc tuy là bị một sức mạnh thần kỳ xô đẩy, nhưng sau đó thế nào thì không thấy nói đến nữa. Một mặt là số mệnh quyết định tính cách, nhưng mặt khác là tính cách quyết định số mệnh. Thường là do số mệnh của Hư Trúc đã được định sẵn, không có chọn lựa nào khác; nhưng trong tất cả những chọn lựa của y lại biểu hiện tính cách và bản năng của y. Hãy bắt đầu từ lúc y làm chưởng môn phái Tiêu Dao. Trong hang Lung Á, thông biện tiên sinh Tô Tinh Hà bày ra thế cờ Trân Lung, giống như một bài thi trắc nghiệm tính cách. Đoàn Dự, Mộ Dung Phúc, Đoàn Diên Khánh đã bộc lộ đầy đủ tính cách và đặc trưng tâm lý của họ trong khi chơi cờ, thậm chí còn để lộ ra tâm bệnh của từng người nữa.

Đoàn Diên Khánh trong lúc say mê chơi cờ bị Đinh Xuân Thu thôi miên đến lúc sắp sửa tự sát, thì tâm từ bi của tiểu hoà thượng xúc động. Trong khoảnh khắc thấy sự sống đang gặp nguy cơ, Hư Trúc bèn nảy ra một ý: “Ta giải không ra thế cờ này, nhưng phá một nước thì dễ, chỉ cần làm cho hắn ta tỉnh lại thì đã cứu được hắn rồi; còn thế cờ này giải còn không xong, mong chi thắng bại?” Thế là y nhắm mắt nhấc một quân cờ đặt lên bàn cờ. Có ngờ đâu đây lại chính là nước cờ quyết định, không những cứu được Đoàn Diên Khánh mà còn giải được thế cờ mấy chục năm không ai giải được.

Thế là chàng tiểu hoà thượng Thiếu Lâm tự Hư Trúc được lão chưởng môn phái Tiêu Dao Vô Nhai Tử chọn làm đệ tử, làm người kế tục, truyền cho Hư Trúc toàn bộ công lực của mình, đeo cho Hư Trúc chiếc nhẫn chưởng môn, làm cho Hư Trúc không biết làm sao, không thể không nhận. Xem ra có vẻ như số mệnh không công bằng với Hư Trúc, nhưng vấn đề không đơn giản như vậy. Tiểu hoà thượng Hư Trúc vốn rõ ràng là một người bàng quan, không ngờ cuối cùng lại đánh thắng ván cờ, lại trở thành nhân vật chính của màn kịch, xem ra hoàn toàn do ngẫu nhiên mà thành, nhưng thực tế lại chính là biểu hiện tự nhiên và kết quả tất nhiên của tính cách và bản năng của y, cụ thể là, thứ nhất, tâm từ bi cứu người chính là bản tính của một tiểu hoà thượng thuần thành,chứ nếu như thấy chết không cứu thì hẳn không phải là Hư Trúc.

Thứ hai, những người khác phần nhiều nhìn ván cờ chú tâm ở thắng bại, nhưng Hư Trúc lại vô tâm chơi cờ với ánh mắt bàng quan của một người ngoài cuộc, do vậy ngoài Hư Trúc ra không ai có thể nghĩ được đến điều “đã không phải là chơi cờ thì cần chi đến thắng bại”, lại còn dám nhắm mắt đi quân cờ. Thứ ba, chỗ mà Hư Trúc nhắm mắt thả quân cờ lại chính là chỗ then chốt quan trọng của ván cờ, xem ra có vẻ như ngẫu nhiên, nhưng kỳ thực cũng chứa đựng trong đó lẽ huyền diệu của đời sống nhân sinh, đó chính là phép “Đảo hoa ủng” trong cờ vây và đạo lý “có thất bại mới có thành công” trong đời sống con người. Đạo lý này không những vừa hợp với tính cách và thân phận của Hư Trúc, đồng thời cũng ám chỉ việc y sẽ phải mất đi chút công phu Thiếu Lâm mà nhận lấy công lực suốt một đời tu luyện của Vô Nhai Tử.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Thứ tư, ý muốn làm hoà thượng của Hư Trúc tuy rằng kiên định, nhưng trước nay vốn không phải là ý định của y, tính cách y trước nay vốn dễ bảo, nghe lời, cho nên y không thể không nghe lời những bậc tiền bối như Tô Tinh Hà, Vô Nhai Tử, huống hồ là sư thúc Huyền Nạn còn luôn dặn dò y là phải biết nghe lời. Hư Trúc là “xưa nay phục tùng đã quen rồi. Là đệ tử Phật môn thì phải luôn luôn khiêm hạ, nghe lão nhân ấy bảo lạy, cho dù không hiểu cái lạy ấy có nghĩa là gì, nhưng nghe người này là tiền bối võ lâm, lạy ông ta vài cái cũng là lẽ đương nhiên vậy.” (Xem Thiên long bát bộ) . Có ngờ đâu đây chính là lạy bái sư. Người khác đương nhiên là biết, nhưng Hư Trúc đương nhiên không biết.

Thứ năm, Hư Trúc tuy niệm kinh thuần thục, nhưng trước nay không có tài ăn nói, cho nên về phương diện biện tài y không phải là đối thủ của thông biện tiên sinh Tô Tinh Hà, huống chi gặp phải sư phụ của Tô Tinh Hà là Vô Nhai Tử! Cho nên, cho dù trong lòng y cảm thấy rõ ràng chỗ đó là không thích hợp với y, nhưng cũng không biết nói như thế nào, muốn thuyết phục Vô Nhai Tử nhưng thực sự là cũng chẳng có cách gì. Hơn nữa Vô Nhai Tử chẳng bao lâu sẽ nhắm mắt xuôi tay, y có muốn nói cũng chẳng thể nào nói được; Tô Tinh Hà vừa gặp nguy hiểm, không thể không cứu. Có làm cách gì đi chăng nữa, cái thân phận chưởng môn của y cũng càng lúc càng “chắc chắn”.

Tóm lại, tính cách của Hư Trúc trên thực tế đã quyết định số mệnh của y, làm cho y không thể không trở thành chưởng môn phái Tiêu Dao. Tuy Hư Trúc đã có chủ ý “ba mươi sáu kế chạy trốn là hơn” , muốn chạy về Thiếu Lâm tự bẩm báo sư phụ, sư tổ, hòng thoát khỏi những ràng buộc vương vấn với Tiêu Dao phái, an tâm làm một tiểu hoà thượng, tiếc rằng lại gặp phải Vạn tiên đại hội, nhìn thấy ba mươi sáu động chủ và bảy mươi hai đảo chủ đang hè nhau giết một đứa bé gái. Việc này y làm sao mà không can thiệp? Theo tính cách của tiểu hoà thượng Hư Trúc, làm sao có thế thấy chết không cứu? Thế là y bất ngờ xông ra, cướp đứa bé dưới tay đồ đao toan chạy. Không ngờ cử chỉ cứu người này khiến y bị cuốn sâu hơn vào những mâu thuẫn của Tiêu Dao phái, nguyên đứa bé gái này không phải ai khác, chính là Thiên Sơn Đồng Lão, đồng môn của sư tổ Vô Nhai Tử, người mà chỉ nghe đến tên đã khiến đám giang hồ quần hùng biến sắc mặt. Do vậy Hư Trúc càng dấn sâu vào mối xung đột mâu thuẫn giữa đôi sư tỷ muội phái Tiêu Dao Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thuỷ, cuối cùng không thể tự thoát ra được.

Tóm lại, tất cả những hành động y đã làm đều xuất phát từ tính cách của y, từ lòng từ bi, từ tâm niệm cứu người của y. Hoàn cảnh của Hư Trúc là như thế này: muốn cứu người cho đến cùng, cho nên phải cõng Thiên Sơn Đồng Lão chạy trốn khỏi sự truy giết của Lý Thu Thuỷ, và còn phải học võ công thâm hậu với Thiên Sơn Đồng Lão, nếu không sẽ không có cách nào đối phó với kẻ thù truy giết, nguy hiểm luôn luôn rình thậm chí mạng sống bị đe doạ. Đầu óc đơn giản của Hư Trúc không thể giải quyết được mối mâu thuẫn này, nhưng dù vậy trên thực tế cuối cùng y vẫn chọn cứu người, và điều này cũng chính là bước lựa chọn then chốt nhất trong số mệnh của Hư Trúc. Bởi vì tính cách của Đồng Lão là vô cùng ngang ngạnh cố chấp, không những luôn nghĩ cách để lưu giữ Hư Trúc mà còn dụng tâm “cải tạo” Hư Trúc. Hư Trúc thà chết đói nhất định không phạm giới ăn mặn nữa, làm cho Đồng Lão nổi điên lên, cách này không được lại bày cách khác.

Giới ăn chay cố giữ, thế còn giới sắc thì sao? Lần này thì Đồng Lão đã tìm ra được cách “rèn luyện” Hư Trúc: trong cái hang đất tối tăm lạnh lẽo, khi mà Đồng Lão đưa một thiếu nữ khoả thân vào lòng Hư Trúc, “trước sự dụ dỗ mê hoặc nhất trần đời này, chàng trai chưa từng biết thế tục bỗng không chút kháng cự, càng lúc càng ôm chặt thiếu nữ, trong khoảnh khắc tâm hồn bay bổng, cuối cùng không còn biết mình đang ở đâu nữa”. Sau sự việc này Hư Trúc cảm thấy hối hận, cho rằng mình đã sai rồi, thậm chí còn muốn tự sát để chuộc tội. Vậy mà khi đồng lão lần thứ hai đưa thiếu nữ vô danh tới, Hư Trúc lại vừa vui thích vừa sợ hãi, kìm lòng không được lại thân mật nồng nhiệt, lại còn đặt biệt hiệu cho nhau là “Mộng Lang” và “Mộng Cô”. Ngày thứ ba cũng như vậy: “Ba ngày ân ái triền miên làm cho Hư Trúc cảm thấy cái hang đất lạnh lẽo tối tăm này chính là thế giới cực lạc, hà tất phải quy y Phật, biệt cầu giải thoát?” (XemThiên long bát bộ).

Thế là cho đến ngày thứ tư, bắt đầu chủ động chờ đợi cuộc vui, đợi mãi không thấy, Hư Trúc như kiến bò trong chảo nóng, cuối cùng chịu không được phải mở miệng hỏi Đồng Lão. Rõ ràng, y không thể nào quên được “Mộng Cô” của y rồi! Đây cũng chính là ý chí trì giới của Hư Trúc cuối cùng không thắng được xung động bản năng của y. Việc hoan hợp cùng Mộng Cô, tuy là kế hoạch của Đồng Lão, nhưng cuối cùng lại là hành vi chủ động của chính Hư Trúc, là lựa chọn theo bản năng nhân tính của y. Rốt cuộc, nguồn gốc của sự thay đổi xuất phát từ bên trong bản thân y, chứ không phải là do các điều kiện bên ngoài.

IV

Dưới đây, cần phải phán đoán: những gì Hư Trúc đã trải qua là do số mệnh đã dày vò làm khổ y hay khẳng khái ban thưởng cho y? Trong vô vàn tao ngộ của Hư Trúc, rốt cuộc là hạnh phúc hay bất hạnh? Thực không dễ mà phán đoán. Cổ nhân có câu: “Người không phải là cá, sao biết được những an vui của cá?” Nhìn trên bề mặt, Hư Trúc rõ ràng cảm thấy không hạnh phúc lắm. Tất cả những gì y đã trải qua, đã có được đều không phải là ý nguyện chủ quan của chính y, mà đều do số mệnh đã đem tất cả tròng vào đầu y.

Được cái mình không muốn, không được cái mình muốn, số mệnh quả là không ân sủng gì với HưTrúc, ngược lại còn quá tàn nhẫn với y. Thấy Đinh Xuân Thu được giao cai quản giới luật viện của Thiếu lâm tự, Hư Trúc trong lòng vô cùng thất vọng, nghĩ mãi không ra: “Ta muốn sống đời sống xuất gia ở Thiếu lâm tự, nhưng thầy tổ đều đuổi ta ra. Đinh Xuân Thu coi trời bằng vung, làm bao nhiêu việc ác, lại được an tu ở chùa, nghiệp báo khổ lạc của ta và hắn sao không giống nhau vậy?” Đây là một câu nói cho thấy Hư Trúc không vui với sự an bài của số mệnh y vậy. Nhưng mà, vẫn có thể thấy về sau Hư Trúc lại có một câu nói hoàn toàn trái với câu nói trên. Đó là khi y phát hiện công chúa Tây Hạ công khai chiêu phò mã không phải ai khác mà chính là “Mộng Cô” của y, rồi sau khi nhận diện và gặp gỡ cô ta xong, y viết một bức thư cho Đoàn Dự, nói rằng: “Ta rất vui, cực vui không thể nói ra được niềm vui sướng. Làm cho huynh mất công một chuyến, ta thật có lỗi với huynh, lại càng có lỗi với Bác Đoàn, nhưng ta không còn cách nào khác.” (Xem Thiên long bát bộ).

Trong bức thư này, có thể thấy hạnh phúc đầy ắp trong tâm đã tràn ra ngôn từ. Có thể nói rằng, trước đó y kỳ thực hoàn toàn không biết thế nào là hạnh phúc nhân sinh; chỉ khi gặp lại Mộng Cô, y mới bắt đầu hiểu ra. Thực ra Hư Trúc chưa hẳn không biết hạnh phúc nhân sinh là gì, chỉ vì y không dám trực tiếp đối diện với những dục vọng nội tâm của y mà thôi. Nếu không, làm sao khi cung nữ Tây Hạ hỏi “Tiên sinh bình sinh ở nơi nào là hạnh phúc nhất?” Hư Trúc lại không nói kinh đường, thiền phòng, sân luyện công ở Thiếu Lâm tự là hạnh phúc nhất, lại nói “ở trong một hang đất tối tăm lạnh lẽo”? Làm sao khi cung nữ hỏi “người mà tiên sinh bình sinh yêu nhất tên là gì” y không nói yêu nhất sư phụ Tuệ Luân, phụ thân Huyền Từ, mẫu thân Diệp nhị Nương, mà lại thở dài một hơi rồi nói “Ta..., ta không biết cô gái đó tên là gì ? Hư Trúc xưa nay không hề nói dối, trong thời khắc này, Hư Trúc lại không thể không nói ra bí mật sâu thẳm nhất trong lòng mình, đủ biết y thương nhớ Mộng Cô nhiều đến mức nào.

Nếu không phải như vậy thì Mộng Cô sẽ không biết Hư Trúc chính là Mộng Lang của cô, mà Hư Trúc cũng không thể gặp lại được Mộng Cô của y, mà như thế thì y sẽ thực sự vĩnh viễn không thể biết được hương vị hạnh phúc của đời sống.Trước đó ở đỉnh núi Phiêu Miễu cung Linh Thứu, Hư Trúc và Đoàn Dự ngồi nhìn nhau thở dài, rồi lại cùng uống rượu tâm sự, bởi vì cùng hiểu lòng nhau, cả hai đều cùng nói về người yêu của mình. Đoàn Dự thì nói về Vương Ngữ Yên, còn Hư Trúc thì nói về “Mộng Cô” mà y không biết họ tên là gì cũng không biết dung mạo ra sao. Hai người vừa trích dẫn kinh Phật vừa nói chuyện tình ái, rồi kết nghĩa huynh đệ, Hư Trúc lại còn kết nghĩa luôn với Tiêu Phong, người mà y chưa từng gặp mặt. Lúc này, bọn họ uống rượu, ăn thịt, nói chuyện tình ái, vọng ngữ, tưởng nhớ người yêu trong lòng mình, rồi sau đó say sưa, cái hương vị trần tục này chẳng lẽ Hư Trúc thực sự có thể quên? Mà việc này lại là chẳng có ai ép buộc y cả.

Tuy sau lần uống rượu đó Hư Trúc đã tự sám hối, rồi quyết định trở lại Thiếu Lâm, tự sửa đổi mình, quên hết những gì đã xảy ra, bắt đầu lại cuộc đời tăng lữ, nhưng chính lúc đó Tiêu Phong ở bên ngoài Thiếu Lâm tự bị hào kiệt Trung Nguyên vây đuổi, đang cùng Đoàn Dự đối ẩm chuẩn bị giết nhau để tự cứu, Hư Trúc nghĩ :“Hôm kết nghĩa với Đoàn Dự, mình cũng đã kết nghĩa với Tiêu Phong, đại trượng phu một lời đã nói sống chết không thay đổi, lập tức bỏ hết sau lưng những gì là an nguy sống chết, thanh quy giới luật”. (Xem Thiên long bát bộ).

Thế là không chút do dự, như các bậc tiền bối Thiếu Lâm và các anh hùng trong thiên hạ, Hư Trúc cùng Tiêu Phong, Đoàn Dự uống rượu, rồi sau đó lại cùng kề vai chiến đấu. Hành vi này, há không phải là lựa chọn chủ động tự nguyện của Hư Trúc ư ? Như vậy, tâm lý và hành vi của Hư Trúc thường mâu thuẫn nhau, nguyên nhân của sự mâu thuẫn này, nói thẳng ra chính là mâu thuẫn nữa bản năng của con người và giới luật của nhà Phật, cũng là mâu thuẫn giữa ý thức, sự chấp nhận thân phận và dục vọng bản năng, tình cảm cá nhân của con người. Hư Trúc từ nhỏ đã lớn lên ở Thiếu Lâm tự, đã sớm quen với đời sống tăng lữ, đã quen với việc chấp nhận thân phận xuất gia của mình, vì thế mà không hề biết là còn một lối sống khác trong đời sống thế tục. Thế nhưng, đời sống tăng lữ là do vận mệnh an bài, chứ không phải là do sự lựa chọn của Hư Trúc, do vậy sự chấp nhận thân phận và những quan niệm về giá trị liên quan cũng không phải xuất phát từ sự chọn lựa của Hư Trúc.

Chẳng qua, trước khi rời khỏi Thiếu Lâm tự, y không biết rằng còn có một loại đời sống khác, rồi tự nhiên mà sợ hãi cái đời sống khác đó, tự nhiên mà bài xích và cự tuyệt bất kỳ hệ thống quan niệm về giá trị nào khác. Những tao ngộ của Hư Trúc sau khi xuống núi, xem ra không ngừng bị số mệnh thao túng, nhưng đồng thời cũng bày ra cho y phương thức sống mà trước nay y chưa từng thấy biết, để cho y tự lựa chọn cách sống, cho y cơ hội tự nhìn lại chính mình. Những đau khổ của Hư Trúc chẳng qua đến từ nỗi sợ hãi đối với đời sống mới, từ sự bài xích tính bản năng của thân phận mới và sự lưu luyến đối với thân phận cũ. Trong quá trình chuyển hoá thân phận và chấp nhận chính mình của Hư Trúc, không đủ làm nên minh chứng duy nhất về quan niệm nhân sinh của y. Bởi vì trước khi gặp lại Mộng Cô, y căn bản không biết được cái gì là “niềm vui sướng không thể nói ra được” trong đời sống con người. Trước đây y vẫn chưa biết thế nào là hạnh phúc nhân sinh, bởi vì trong tâm của một tiểu hoà thượng thì không có cái quan niệm hạnh phúc, nói chi đến thể nghiệm hạnh phúc.

V

Chúng ta đã bàn đến cốt lõi sâu sắc nhất trong chủ đề của bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ. Phần đông độc giả thường cho rằng đây là bộ tiểu thuyết diễn dịch tư tưởng nhà Phật, điều này cũng không phải là sai , bởi vì tên của bộ tiểu thuyết là lấy từ kinh Phật, và ở phần chú danh đầu sách, tác giả cũng có nêu rằng bộ sách này “muốn mượn danh từ nhà Phật để tượng trưng cho một số nhân vật hiện tại”. Những nhân vật chủ yếu tương tự trong bộ sách Thiên long bát bộ cuối cùng đều quy y cửa Phật, như Tiêu Viễn Sơn, Mộ Dung Bác, Đinh Xuân Thu. Thiên hạ đệ nhị ác nhân Diệp Nhị Nương tự sát tại Thiếu Lâm tự, Thiếu Lâm phương trượng Huyền Từ trước khi chết còn đọc câu kệ : “Nhân sinh ư thế, hữu dục hữu ái, phiền não đa khổ, giải thoát vi lạc!” (Con người sống trên thế gian, có ước muốn, có yêu thương, nhiều đau khổ phiền não, chết là được giải thoát) (Xem Thiên long bát bộ).

Nhưng chính Hư Trúc, đứa con “nghiệt tử” của Diệp Nhị Nương và Huyền Từ, thì lại không giống như những nhân vật trên, y không phải là từ tục thế quy y của Phật, mà lại từ cửa Phật đi vào tục thế. Đây chính là cốt lõi sâu sắc của chủ đề tư tưởng hàm chứa trong bộ tiểu thuyết, trên cả Thiên long bát bộ, cho dù không đi tới bỉ ngạn Phật quốc, nhưng lòng hy vọng của con người được đặt nơi các biểu hiện bình thường của nhân tính. Lối sống mới và hạnh phúc của Hư Trúc chính là một loại mẫu mực hay có thể nói là một minh chứng xác thực nhất của đời sống nhân sinh. Chủ đề của bộ sách như luôn muốn nói đến kết quả phiền não và oan nghiệt của ái dục, nhưng câu chuyện của Hư Trúc lại cho thấy sự say mê và vui sướng do ái dục mang lại. Cho nên cái hang đất băng giá vừa tối tăm vừa lạnh lẽo lại là nơi vui sướng tốt đẹp nhất đối với Hư Trúc, bởi vì nơi đây có cuộc hội ngộ kỳ lạ giữa “Mộng Cô” và “Mộng Lang”.

Xã hội hiện tại có thể cảm thấy lạ lùng trước câu chuyện tình ái kỳ lạ làm xúc động lòng người này. Người ta có thể khó mà lý giải được tại sao trong bóng tối, hai người không những trước giờ chưa từng gặp mặt, không biết hình dạng người kia ra sao, thậm chí không biết tên nhau, mà trong lần gặp đầu tiên đã nảy sinh quan hệ ân ái, rồi từ đóvề sau mãi mãi không thể nào quên nhau được, đây há chẳng phải là chuyện kỳ lạ ư? Thực ra thì ở đây Kim Dung tiên sinh không phải muốn viết về một câu chuyện tình ái thông thường, mà là một câu chuyện ngụ ngôn võ hiệp . Cơ sở của câu chuyện ngụ ngôn này thực ra vô cùng đơn giản, đó chính là “Háo sắc là bản chất của con người. Hư Trúc tuy nghiêm trì giới luật, nhưng gặp khi ngày xuân hoa nở cũng không tránh xao động tâm trí vậy”. (Xem Thiên long bát bộ).

“Mộng Lang” đã như vậy thì “Mộng Cô” cũng như vậy Cả hai tuy rằng không biết mặt nhau, nhưng giống nhau về mặt bản năng nhân tính, cho nên họ cũng hấp dẫn và yêu nhau như bất kỳ đôi trai gái nào khác. Họ chính là bản chất của ái tình, cũng là bản chất của con người. Câu chuyện của Hư Trúc muốn nói lên rằng, nước có thể chở thuyền, cũng có thể lật đổ, nhận chìm thuyền. Bản chất con người cũng giống như nước, cần phải có phương cách khai thông.

Một ngày nào đó nếu để nước tràn thành hoạ thì có thể tạo nên một thế giới như Thiên long bát bộ, trong đó con người ta đau khổ không thể tả nổi. Nhưng điều này cũng không có nghĩa rằng vì đề phòng sự quá đà thành hoạ của bản năng mà phủ nhận hoàn toàn các hành vi thuộc bản năng của con người. Bản năng là cội nguồn đau khổ nhưng cũng chính là cội nguồn hạnh phúc của kiếp người, cũng là niềm hy vọng của con người trong tương lai. Sự hy sinh của Tiêu Phong là một ví dụ rõ nét, nhưng Hư Trúc từ nơi tự viện bước ra thế giới phàm tục lại là một ví dụ khác còn sống động hơn.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

37
ĐOÀN DIÊN KHÁNH
Thay đổi hoàn toàn


Vượt ngoài dự liệu của mọi người với các tình tiết đan xen nhau vừa ý vị vừa sâu sắc, đó chính là câu đố về thân thế của ba nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ : Tiêu Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự. Có một điểm giống nhau là cả ba nhân vật chính có tấm lòng hiệp nghĩa từ bi này nguyên đều là con của những “ác nhân”. Thực là kinh ngạc khi biết “Đại ác nhân” mà Tiêu Phong đang ra sức truy tìm cuối cùng lại chính là cha ruột của y. Lại càng chấn động hơn nữa khi phát hiện Hư Trúc chính là con của thiên hạ đệ nhị ác nhân Diệp Nhị Nương; sau nữa khi biết Đoàn Dự là con của thiên hạ đệ nhất ác nhân Đoàn Diên Khánh thì không ai là không sững sờ ngạc nhiên. Rõ ràng trong mỗi người bọn họ đều có lưu chảy dòng máu ác nhân, theo như truyền thống văn hoá Cơ Đốc giáo phương Tây gọi là “nguyên tội”.

Nhưng cũng thật rõ ràng, chỉ cần một ý niệm thiện là có thể cứu vớt được người trong biển khổ, thay đổi nhân cách, số phận, và đây cũng chính là tinh thần tinh tuý Đông phương. Trước khi Đao Bạch Phụng bị ép buộc bất đắc dĩ phải khai ra thân thế của con mình là Đoàn Dự, thiên hạ đệ nhất ác nhân Đoàn Diên Khánh luôn khiến cho người ta phải căm ghét thù hận. Ngay trước đó gã đã tàn nhẫn vô tình giết hại người bạn từng nhiều năm vào sinh ra tử cùng gã là Nam hải ác thần Nhạc Lão Tam, chỉ vì Nhạc Lão Tam không chịu nghe lời gã giết chết Đoàn Dự, lại còn muốn cởi trói cho Đoàn Dự. Bao nhiêu đó đủ thấy biệt danh “Ác quán mãn doanh” của gã quả thật danhbất hư truyền. Nhưng sau khi Đao Bạch Phụng nóira sự thật _về thân thế của Đoàn Dự, chúng ta kinh ngạc thấy rằng, hình tượng Đoàn Diên Khánh đã lập tức thay đổi bộ mặt.

I

Trên thực tế, bản thân Đoàn Diên Khánh cũng có một câu đố về thân thế của mình. Ở tập một của bộ sách, quân thần nước Đại Lý đều biết rằng, Đoàn Diên Khánh chính là người con trai bị mất tích nhiều năm của Thượng Đức Hoàng đế Đoàn Liêm Nghĩa, từng là Thái tử Diên Khánh của nước Đại Lý. Vào năm Thượng Đức thứ năm, trong triều xảy ra đột biến, Thượng Đức Hoàng đế bị gian thần Dương Nghĩa Trinh giết chết, không biết lưu lạc nơi đâu, sau đó cháu của Thượng Đức Hoàng đế là Đoàn Thọ Huy được sự giúp đỡ của trung thần Cao Trí Thăng và chư vị cao tăng chùa Thiên Long, dẹp yên Dương Nghĩa Trinh, lên ngôi Hoàng đế, xưng là Minh đế.

Minh đế chỉ ở ngôi một năm thì xuất gia tu ở chùa Thiên Long, truyền ngôi lại cho em họ là Đoàn Chính Minh, hiệu là Bảo Định Hoàng đế. Thời gian qua đi, người dân nước Đại Lý cơ hồ như đã quên hẳn Thái tử Diên Khánh của họ. Cho đến khi Diên Khánh xuất hiện trở lại thì ngôi vị Thái tử đã không còn, có còn chăng thì chỉ là cái danh xưng Thiên hạ đệ nhất ác nhân “Ác quán mãn doanh”. Đúng như đại thần Ba Thiên Thạch của nước Đại Lý đã nói, “Tên ác nhân này nếu không phải là Thái tử Diên Khánh thì sẽ không dám táo bạo nghĩ tưởng đến ngôi báu, còn nếu là Thái tử Diên Khánh mà hung ác gian hiểm như thế này thì làm sao có thể để cho y trị vì muôn dân thiên hạ?” (Xem Thiên long bát bộ).

Nói tóm lại, nước Đại Lý đã hoàn toàn xoá tên Thái tử Diên Khánh, thay vào đó là phải tìm cách đối phó với tên đại ác nhân này. Độc giả có lẽ sẽ nghĩ rằng cái con người có danh xưng Ác quán mãn doanh này thực đáng tội chết, nhưng ngoài ra không biết có còn cách nghĩ nào nữa không? Liệu có ai thay đổi cách nghĩ, đứng trên lập trường của Diên Khánh, đặt mình vào trong hoàn cảnh của Diên Khánh? Ai sẽ nghĩ rằng, Đoàn Diên Khánh làm sao đến nỗi ngày hôm nay lại trở thành một quái khách áo xanh với khuôn mặt bị huỷ hoại toàn diện như vậy, với ác danh rành rành thiên hạ đệ nhất ác nhân? Chỉ có tác giả Kim Dung trả lời được câu hỏi này mà thôi. Rất ít người nghĩ đến câu hỏi Đoàn Diên Khánh liệu có phải là một tay tà ác gian hiểm bẩm sinh hay không.

Nếu như không có cuộc phản loạn của Dương Nghĩa Trinh năm xưa, nếu như Đoàn Diên Khánh vẫn là Thái tử Diên Khánh của nước Đại Lý, thì liệu y có trở nên cái hình dạng như bây giờ không, có trở thành thiên hạ đệ nhất ác nhân hay không? Đương nhiên là không thể giả định lịch sử, Đoàn Diên Khánh sinh ra trong hoàng gia, đã nhận được sự tôn vinh vô thượng và cũng nhận luôn sự nguy hiểm vô lượng. Đại Lý tuy là Phật quốc nhưng cũng chỉ là ở chốn nhân gian, mà đã là chốn nhân gian thì tránh không khỏi việc các đế vương chuyên quyền sinh bạo loạn, hoặc có người vì quá thèm muốn ngôi vị đế vương mà sinh chính biến. Rất ít người nghĩ rằng, chỉ trong một đêm, Đoàn Diên Khánh không những bị mất đi thân phận Thái tử, mất quyền kế tục ngôi vua, mất đi quốc gia, mà phụ hoàng và gia nhân còn bị giết hại thảm khốc, còn tính mạng bản thân thì lúc nào cũng bị đe doạ. Thân phận của chim phượng hoàng giờ đổi thành chó hoang, từ cửu trùng thiên đường bỗng rơi xuống mười tám tầng địa ngục, nỗi đau khổ này ai có thấu chăng? Tâm lý, tính cách của một người trẻ tuổi sẽ bị ảnh hưởng như thế nào trước sự dày vò hành hạcủa mối đau khổ này?

Đoàn Diên Khánh thất chí báo thù, không những không nhận được sự chiếu cố hay bồi thường nào của số phận, lại còn liên tiếp bị sát thương tàn hại. Đợi cho đến khi y luyện xong võ công, từ Đông Hải trở về Đại Lý, muốn dựa trên thực lực võ công của chính mình để giết kẻ kình địch báo mối thù xưa, giành lại đất nước giang sơn của chính mình, không ngờ khi mục đích chưa đạt được, trên đường giang hồ đã gặp kẻ thù hùng mạnh hơn bao vây tấn công. Sau trận huyết chiến, mặc dù đã tận diệt được kẻ địch, nhưng bản thân y cũng bị trọng thương, gãy hai chân, khuôn mặt bị tổn hoại, yết hầu bị kẻ địch chém ngang một nhát, không thể phát âm được nữa. Dựa vào một nguồn nghị lực siêu phàm, ngoan cường kiên trì đến Đại Lý, “y thực sự đã không còn giống một con người nữa, toàn thân ô uế hôi hám, trên miệng vết thương toàn là dòi bọ, mấy chục con ruồi xanh cứ bay vù vù quanh y”. (Xem Thiênlong bát bộ).

Lúc này, thân y như đã đang ở cửa địa ngục. Điều làm cho y tuyệt vọng hơn nữa là Hoàng đế Đại Lý lúc này không những không phải là kẻ thù Dương Nghĩa Trinh của y, cũng không phải là vị hoàng đế đã dẹp yên Dương Nghĩa Trinh Đoàn Thọ Huy, mà là Đoàn Chính Minh nối ngôi Đoàn Thọ Huy. Nhân gian có mới quên cũ, ác mộng ngày trước nay đã không còn ai nhắc đến, y muốn báo thù, nhưng lại tìm không ra kẻ thù. Hơn nữa, y còn biết rằng, đương kim Hoàng đế Đoàn Chính Minh khoan dung nhân ái, yêu thương con dân, được lòng tất cả bàn dân thiên hạ cho đến văn võ bá quan, người người ai cũng thành tâm ủng hộ, không ai còn nhắc nhở hoài niệm gì đến Thái từ của triều đại trước. Lúc này, nếu y tuỳ tiện xuất hiện ở Đại Lý, không biết chừng tính mạng thực đáng lo, không biết chừng có kẻ muốn lấy lòng đương kim Hoàng đế, lập tức giết luôn Thái tử dư thừa là y.

Hy vọng sau cùng của y là muốn tìm đến Đại sư Khô Vinh, chú ruột của y tu trong chùa Thiên Long, hy vọng ông có thể chứng minh thân phận của y, lập lại công bằng, nhưng không ngờ, Đại sư Khô Vinh đã bế quan tham thiền, muốn gặp cũng không gặp được! Lúc đó, Đoàn Diên Khánh thực sự rơi xuống tầng sâu nhất của mười tám tầng địa ngục, hoàn toàn không còn hy vọng khôi phục vương vị, còn bản thân thì lúc nào cũng phải lo sợ cho tính mạng. Với cả thân lẫn tâm đều bị thương tổn tàn hại như vậy y còn sống ở trên đời cũng chẳng còn ý nghĩa gì Nhưng nỗi đau nặng nề hơn cả đó là khi y muốn sống cũng không được, định đập đầu vào gốc cây bồ đề mà chết, nhưng sức tàn lực kiệt, muốn chết cũng không xong. Đường dây số mệnh của Đoàn Diên Khánh đã xuống đến điểm thấp nhất, cũng như sự giận dữ và căm hận của y đối với số phận lại dâng lên đến mức cao nhất. Tạo hoá sao lại có thể bất công với Vương tử tiền triều Đoàn Diên Khánh đến như vậy?

Lúc đó nếu còn đủ sức lực và có một cây bút trong tay, Đoàn Diên Khánh nhất định sẽ viết một bản “Thiên vấn” đầy phẫn nộ. Nếu y không thể phục hồi sức lực, cuối cùng chết dưới cội bồ đề, thì y cũng chỉ giống như một con chó hoang không ai ngó ngàng tới, thậm chí chỉ như một hạt bụi bé nhỏ không đáng kể, theo gió bay đi, vô hình vô ảnh. Thái tử Đoàn Diên Khánh ngày nào đã thực sự chết đi, sống lại chỉ còn là một con người lòng đầy thù hận với cái tên Đoàn Diên Khánh. Từ Nam Hoang Tích Địa dưỡng thương luyện công trở về, Đoàn Diên Khánh trước tiên là đi qua lưỡng hồ, giết sạch tất cả kẻ thù của mình, thủ đoạn hung bạo tàn ác nghe rợn cả người, thiên hạ từ đó mới xuất hiện một kẻ đệ nhất đại ác nhân. Trong giang hồ người người chỉ nghe đến tên y đã sợ mất mật, nghiến răng căm hận y nhưng không ai lại có thể nghĩ rằng, cái con người “Ác quán mãn doanh” này kỳ thực là tạo vật của số mệnh, bởi tất cả những gì vừa qua đã sớm không còn ai biết đến nữa.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

38
NHẠC LÃO TAM
Danh nhân không tên


Nói đến bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ, mà không nhắc tới Nam hải ngạc thần Nhạc Lão Tam thì coi như chưa nói. Gì thì gì chứ Nhạc Lão Tam cũng là một vị danh nhân võ lâm. Dân gian Trung Quốc có câu “Đại trượng phu nếu không để lại tiếng thơm trăm đời, cũng phải lưu tiếng xấu vạn năm”. Tôi nghi các nước khác cũng có câu ngạn ngữ tương tự, nếu không tại sao có người ám sát tổng thống nước họ chỉ vì muốn lưu danh trong sử sách?

Có điều là về phương diện này, Trung Quốc chúng ta có nền văn minh năm ngàn năm, lịch sử quá dài. Nam hải ngạc thần Nhạc Lão Tam là một điển hình. Để được nổi tiếng, hắn không từ bất cứ thủ đoạn nào, bất cứ giá nào. Không làm được người tốt, người hiền, hoặc tự biết làm người tốt chưa đủ để lừng danh, hắn bèn quyết ý làm kẻ ác, do đó hắn được xếp thứ ba, và chút nữa thì đứng thứ hai, trong số “Thiên hạ tứ đại ác nhân”. Ba chữ “Nhạc Lão Tam” thực ra không phải là tên riêng. Song không thể gọi hắn là kẻ vô danh, mà chỉ có thể nói hắn là “một danh nhân không có tên”. Nói như vậy hơi mâu thuẫn, song rất đúng với tính cách của Nam hải ngạc thần Nhạc Lão Tam.

I

Nói đến Nhạc Lão Tam, tên riêng không biết, lai lịch do đó cũng chẳng rõ. Chỉ có cái ngoại hiệu “Nam hải ngạc thần” đầy hung thần ác sát để xếp Nhạc LãoTam vào vị trí thứ ba trong bốn đại ác nhân trong thiên hạ. Song ngay từ đầu hắn đã không cam chịu xếp thứ ba, chỉ muốn ngoi lên hàng thứ hai, thành Nhạc Lão Nhị. Hắn không chỉ muốn trở thành Nhạc Lão Nhị, mà còn đòi người khác phải gọi hắn là Nhạc Lão Nhị. Gia nhân Tiến Hỷ Nhi của Vạn Kiếp cốc chủ Chung Vạn Cừu cung kính đón tiếp hắn, chào hắn, gọi hắn là “Tam lão gia”, không ngờ bị hắn cho một đòn gục ngay xuống đất, chỉ vì “Ta là Nhạc Lão Nhị, sao ngươi lại gọi là Tam lão gia? Ngươi có ý coi thường ta phải không?” (Xem Thiên long bát bộ).

Rồi hắn hỏi Tiến Hỷ Nhi, có phải trong bụng nghĩ hắn là một nhân vật đại ác, không thể nào ác hơn hay chăng, Tiến Hỷ Nhi trả lời : “Nhị lão gia là người tốt đến vô cùng, không có tí ác nào”. Kết quả là bị hắn bẻ gãy cổ. Thì ra, đối với Nhạc Lão Tam, ác hay không ác là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Hắn rất thích được mọi người coi hắn là nhân vật đại ác không thể nào ác hơn. Xem ra tên hung thần ác sát này quả nhiên danh bất hư truyền. Những việc hắn làm khiến người ta không thể hiểu nổi, không thể tha thứ. Khi chúng ta cùng với Đoàn Dự gặp Nhạc Lão Tam, thấy cái đầu to tướng của hắn, cặp mắt thì nhỏ như hạt đỗ tằm, nửa thân trên vạm vỡ, nửa thân dưới teo tóp, chiếc áo dài tới gối may bằng loại gấm thượng hạng, cái quần thì bằng vải thô bẩn thỉu, “hình tướng ngũ quan, chân tay thân thể, cách ăn mặc, tất cả đều không thoả đáng đến mức tột cùng” (Xem Thiên long bát bộ)

Thì chúng ta sẽ phát hiện hình tượng và tính cách của Nhạc LãoTam khác xa sự tưởng tượng của chúng ta. Nói thẳngra, kẻ diện mạo xấu xí, võ công cao cường, hành vi thô bạo này tính nết rất ngay thẳng, đầu óc giản đơn, chưa hẳn là một kẻ xấu thật sự. Có thể nói hắn là một nhân vật châm biếm. Nói Nhạc Lão Tam chưa hẳn là một kẻ xấu thật sự, đương nhiên là có căn cứ. Nếu quan sát kỹ, ta sẽ thấy Nhạc Lão Tam cũng có không ít ưu điểm. Thứ nhất, hắn có một thói quen rất hay, ấy là ưa nói lý lẽ. Chỉ cần hắn nói “Lời này kể cũng có lý thế là có thể thương lượng với hắn xong xuôi, êm thấm rất nhiều việc. Một người thích nói lý, hoặc muốn nghe lý lẽ, thì không đến nỗi đại ác; bởi vì kẻ xấu hoặc kẻ ác thường thường không ưa nói lý lẽ, mà sẽ chuyên vi phạm lẽ phải và đạo đức. Nhạc Lão Tam rõ ràng không thuộc hạng như vậy. Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh gợi ra ưu điểm thứ hai của Nhạc Lão Tam, ấy là hắn có khả năng kiên trì một nguyên tắc, không giết nữ nhân đang bị thương, tiến tới không giết người nào hoàn toàn không có khả năng đánh trả, nếu không sẽ là con rùa đen khốn kiếp.

Nhạc Lão Tam quyết không làm con rùa đen khốn kiếp, một kẻ như thế cũng không đến nỗi quá đáng sợ, không đến nỗi không thể ở gần. Không lâu, chúng ta còn phát hiện ưu điểm thứ ba của Nhạc Lão Tam, ấy là kẻ biết giữ chữ tín. Nguyên nhân cũng đơn giản, theo hắn, nói không giữ lời là con rùa đen khốn kiếp, mà Nhạc Lão Tam có thể làm người ác, chứ quyết không muốn làm con rùa đen khốn kiếp. Do đó, có khi việc giữ chữ tín gây khổ sở cho hắn, nhưng hắn vẫn cố giữ. Kể ra, không muốn làm con rùa đen khốn kiếp cung là ưu điểm thứ tư của Nhạc Lão Tam. Một người còn chút liêm sỉ, không thừa nhận, cũng không muốn làm con rùa đen khốn kiếp, thì sẽ không phải là kẻ xấu hoàn toàn. Nhạc Lão Tam còn có ưu điểm thứ năm, là có con mắt tinh đời. Khi mà người trong giang hồ không một ai phát hiện Đoàn Dự có năng khiếu luyện võ, thì Nhạc Lão Tam là người phát hiện khả năng của Đoàn Dự, tuy hắn nói đấy là dựa vào việc thấy xương đầu của Đoàn Dự giống như hắn, lý do này hơi miễn cưỡng, song bất kể thế nào, cũng phải coi việc hắn phát hiện Đoàn Dự là có con mắt tinh đời, là một ưu điểm. Nhạc Lão Tam còn có ưu điểm hiếu học. Ví dụ, khi hắn bị Tiêu Phong ném xuống hồ nước, hắn còn muốn hỏi đấy là môn võ công gì. Diệp Nhị Nương giục hắn mau mau, thì hắn nói : “Ta để cho người ném xuống hồ, người dùng thủ pháp gì ta cũng không biết, chẳng hoá ra nhục quá hay sao? Vậy thì phải hỏi cho rõ cái đã”. (Xem Thiên long bát bộ). Khi Nhạc Lão Tam hùng hổ tìm đến Mộc Uyển Thanh để báo thù cho đệ tử duy nhất của hắn là Tôn Tam Bá bị Mộc Uyển Thanh giết, chỉ vì Mộc Uyển Thanh và Đoàn Dự nắm được các ưu điểm của hắn, mà hắn phải từ bỏ ý định báo thù cho đồ đệ, đã thế, còn muốn Đoàn Dự bái hắn làm sư phụ. Từ đó trở đi, mỗi khi trên giang hồ gặp Đoàn Dự, Nhạc Lão Tam đều không dám thất lễ sư đồ. Chuyện Nhạc Lão Tam là câu chuyện truyền kỳ giang hồ khiến người ta dở khóc dở cười.

II

Nhạc Lão Tam là người như thế nào, đương nhiên cần tiếp tục quan sát và phân tích. Thời gian gặp hắn càng nhiều, ta càng thấy hắn không chỉ có ngoại hình chứa nhiều mâu thuẫn, mà nội tâm của hắn cũng vậy. Ví dụ tiêu biểu nhất, là hắn suốt đời cầu danh, nhưng lại vứt bỏ nguyên danh của mình đi nói là nghe chướng tai. Sợ tên mình nghe chướng tai, lại chỉ mong có được cái ác danh “Thiên hạ đệ nhị đại ác nhân”; truy cầu ác danh, song dầu chết cũng không chịu mang tiếng là con rùa đen khốn kiếp, thế thì lôgich ở đâu? Chúng ta cần thấy một số ưu điểm của Nhạc Lão Tam không phải là nhất thành bất biến. Ví dụ hắn bảo là không giết người nào không có khả năng đánh lại. Phải, hắn đã làm đúng như thế đối với Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh. Nhưng tại sao hắn lại giết Tiến Hỷ Nhi, người hầu của Vạn Kiếp cốc chủ? Chẳng lẽ Tiến Hỷ Nhi có khả năng đánh lại?

Chẳng qua hắn hành hung cho xứng với cái danh kẻ đại ác thứ ba trong thiên hạ. Nhưng như vậy là đi ngược lại nguyên tắc không đánh người nào không có khả năng đánh trả. Mâu thuẫn trong hành vi nói trên đương nhiên thể hiện mâu thuẫn trong tâm lý, tính cách của Nhạc Lão Tam. Đầu óc hắn giản đơn, tính cách thô lỗ, thắng thắn, nếu truy đến cùng, ta thấy Nhạc Lão Tam vốn là một người chất phác, hành động tuy hung ác, hoang đường, song tối thiểu trong ý thức hắn vẫn còn một điều là dẫu thế nào cũng không muốn làm một con rùa đen khốn kiếp. Nghĩa là hắn không chỉ muốn làm người, mà còn làm một người xuất chúng. Chính điều này làm cho hắn khác về chất so với ba ác nhân còn lại. Nhạc Lão Tam không giống Vân Trung Hạc gian dâm nữ giới, không giống Diệp Nhị Nương tàn sát trẻ thơ, không giống Đoàn Diên Khánh có dã tâm chính tả. Hắn không giống Đoàn Diên Khánh và Diệp Nhị Nương vì quá bất hạnh mà bị biến dạng tâm lý.

Nhạc Lão Tam chỉ thích nổi tiếng, thích cái hư danh chốn nhân gian. Vấn đề là hắn không thể để lại tiếng thơm trăm đời, cũng không muốn lưu tiếng xấu vạn năm, thành thử chỉ miễn cưỡng hành ác mà thôi. Thực ra, rốt cuộc muốn gì, thành người thế nào, Nhạc Lão Tam cũng không rõ lắm. Hắn truy cầu hư danh, cốt gây ấn tượng với người khác. Cũng tức là nói, hắn bất tự bất giác sống dưới ảnh hưởng lời nói của người khác, khi thì Nhạc Lão Tam là một hung thần ác sát, lúc khác, ở ngữ cảnh khác, hắn lại thành anh hùng hào kiệt. Ví dụ khi Vân Trung Hạc cướp Chung Linh đi, Đoàn Dự bảo Nhạc Lão Tam đuổi theo, với lý do, thứ nhất “Vân Trung Hạc làm nhục Chung Linh, tức là làm nhục sư nương của người, người chẳng mất mặt hay sao, đâu còn là anh hùng hảo hán”; thứ hai, “ngay đối với ác nhân thứ tư, người còn đánh không lại, thì hãy tụt xuống thành ác nhân thứ năm hoặc ác nhân thứ sáu cho rồi”.(Xem Thiên long bát bộ).

Nhạc Lão Tam nghe rất có lý, thế là gầm lên, đuổi theo Vân Trung Hạc, quát đòi “Mau bỏ sư nương xuống”. Vân Trung Hạc lại dại dột nói thật : “Nhạc Lão Tam, huynh quá ngốc, bị người ta đánh lừa rồi!” Nhạc Lão Tam làm sao nghe lọt câu ấy? Nhạc Lão Tam ta sao lại có thể bị kẻ khác đánh lừa? Vân Trung Hạc bảo ta quá ngốc, là khinh ta lắm. Thế là Nhạc Lão Tam đuổi theo Vân Trung Hạc cho bằng được. Cả đời Nhạc Lão Tam tranh đấu để nổi tiếng, nhưng không biết thế nào là hư danh, càng không biết vì thế mà đánh mất mình. Nói Nhạc Lão Tam là hình tượng một ác nhân cũng được, song đúng hơn thì đấy là một ngôi sao hài kịch; mỗi khi Nhạc Lão Tam xuất hiện ở đâu, chỗ ấy nhất định rất vui.

III

Miêu tả kẻ ác Nhạc Lão Tam thành khả ái như thế, phải coi là một thành công lớn của Kim Dung tiên sinh. Mà muốn thấy đằng sau sự khả ái ấy ẩn giấu bi kịch cuộc đời, thì độc giả phải có kinh nghiệm sống và con mắt thẩm mỹ nhất định. Nói gì thì nói, Nhạc Lão Tam vẫn là kẻ đầu óc giản đơn thời nhỏ hắn không được dạy dỗ, nên suất đời không biết phân biệt thật giả, trắng đen. Triết lý sống của Nhạc Lão Tam, nếu như hắn có triết lý, ấy là thấy người khác làm sao, hắn sẽ làm như thế. Nhạc Lão Tam hợp bọn với Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc thành bốn đại ác nhân trong thiên hạ, bảo là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã cũng đúng, nhưng đúng hơn phải nói là gần mực thì đen.

Dẫu sao Nhạc Lão Tam cũng chưa đến nỗi “Ác quán mãn doanh”, cũng chưa đến nỗi cùng hung cực ác. Nhạc Lão Tam gặp Đoàn Dự, kẻ muốn làm sư phụ lại hoá thành đệ tử, kẻ làm đệ tử lại hoá thành sư phụ. Tuy chỉ có danh nghĩa sư đồ, thực tế thì không, nhưng mấy phen gặp Đoàn Dự trên giang hồ, Nhạc Lão Tam đều chịu ảnh hưởng thay đổi mà mình không hay biết. Càng lâu, ảnh hưởng đó càng sâu, biểu hiện cũng càng rõ. Nếu nói ban đầu Nhạc LãoTam cứu Chung Linh khỏi tay Vân Trung Hạc là bí Đoàn Dự nói khích, thì về sau ở Tây Hạ hắn cứu Vương Ngữ Yên rõ ràng là bằng chứng về sự chuyển biến tính cách. Tuy miệng nói kiên trì không đổi tính”, nhưng lời Nhạc Lão Tam chửi Vân Trung Hạc đã bộc lộ thiên cơ : “Mẹ nó chứ, Nhạc Lão Nhị đổi tính với ngươi, ra tay cứu người, chứ cứ nhớ ngoại hiệu ác nhân trứ danh mà thiên hạ đặt cho, thì để cho ngươi ngã chết quách đi, đâu còn túm tóc cứu ngươi làm gì”. (Xem Thiên long bát bộ).

Bằng chứng đổi tính rõ nhất của Nhạc Lão Tam là ở cuối bộ tiểu thuyết. Đoàn Diên Khánh muốn Nhạc Lão Tam hắn giết Đoàn Dự, có nói : “Tên tiểu tử họ Đoàn ấy là phường vô sỉ, hoa ngôn xảo ngữ, lừa cho đệ gọi nó là sư phụ, hôm nay chính là dịp tốt để trừ khử nó đi, giữ thể diện cho đệ trên giang hồ”. Nếu là trước kia, Nhạc Lão Tam hẳn đã bảo “Nói thật chí lý”; nhưng bây giờ đã khác, mặc dù Nhạc Lão Tam vẫn kính phục Đoàn Diên Khánh, nhưng lại phản đối: “Nó là sư phụ của đệ, đấy là chuyện có thực, nó không hề lừa đệ, sao đệ lại đả thương nó kia chứ?” Đoàn Diễn Khánh thúc giục, Nhạc Lão Tam vẫn nói :“Không được! Này Đoàn huynh, hôm nay Nhạc Lão Tam không nghe lời huynh đâu, đệ phải cứu sư phụ mới được!” (Xem Thiên long bát bộ).

Lúc này Nhạc Lão Tam đứng giữa Đoàn Diên Khánh và Đoàn Dự, đã có lập trường rõ ràng. Chính vì thế mà Đoàn Diên Khánh đã sát hại Nhạc LãoTam một cách dã man! Nhạc Lão Tam dám cả gan chống lệnh đại ca, phảitrả giá bằng mạng sống của hắn. Nhạc Lão Tam quyết ý cứu Đoàn Dự, đương nhiên không chỉ vì danh nghĩa sư đồ tức cười. Chỉ e Nhạc Lão Tam lúc chết cũng không biết Đoàn Dự có ý nghĩa thế nào đối với hắn, cũng như không biết vì sao Đoàn Diên Khánh cuối cùng lại tàn nhẫn vô tình đối với hắn như vậy. Đó là bi kịch lớn nhất đời của Nhạc Lão Tam.

Rất có thể Nhạc Lão Tam cảm thấy Đoàn Dự với cuộc đời vinh quang, đại diện cho một giá trị nhân sinh khác, đáng để hắn vươn tới; nhưng hắn chưa hiểu rõ, thì hắn đã bị đại ca sát hại, hắn chết không thể nhắm mắt, vì chưa hiểu ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Mỗi lần nghĩ đến đây, tôi lại cảm thấy nước mắt rưng rưng.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

39
MỘ DUNG PHỤC
Cuộc đời như mộng


Trong bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ , Mộ Dung Phục không phải là kẻ xấu, cũng không phải là ác nhân, càng không thể coi là anh hùng hiệp sĩ. Nhưng kết cục của y lại không bằng đa số kẻ xấu và ác nhân. Đệ nhất đại ác nhân trong thiên hạ Đoàn Diên Khánh tuy cuối cùng không được lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý, nhưng phát hiện mình có một đứa con trai, hơn nữa, vì đứa con ấy mà hắn rút chân khỏi chốn giang hồ, là một việc tốt cho nhân gian, coi như kết thúc tốt đẹp.

Đệ nhị đại ác nhân Diệp Nhị Nương cuối cùng cũng tìm thấy đứa con trai của mình, rồi tự sát mà chết, một mặt để tạ tội với thiên hạ, từ đây mụ không hành ác; mặt khác, đấy là Diệp Nhị Nương chủ động lựa chọn cái chết, để sang thế giới bên kia đoàn tụ với người yêu, giành được sự thông cảm và kính trọng của mọi người. Phụ thân của Mộ Dung Phục là Mộ Dung Bác và phụ thân của Tiêu Phong là Tiêu Viễn Sơn cùng buông đao đồ tể, lập tức thành Phật, đương nhiên là một kết cục tốt đẹp. Đôi oan gia Thiên Sơn Đồng Lão và Lý Thu Thuỷ tuy cuối cùng không đi đến tình yêu tốt đẹp, nhưng trước lúc chết ít ra cũng nhận biết chân tướng và hư ảo, có thể yên tâm nhắm mắt.

Tìm hiểu kỹ bình sinh của Mộ Dung Phục, một người với ngoại hiệu “Nam Mộ Dung” từng sánh ngang với “Bắc Kiều Phong”, cuối cùng hoá điên vì chấp mê bất ngộ, độc giả không khỏi thở dài. Mộ Dung Phục ngoại hình anh tuấn, đầu óc thông minh, võ công cao cường, tư chất ưu tú. Dưới con mắt của biểu muội y là Vương Ngữ Yên và rất nhiều độc giả, y là một con chim phượng hoàng hiếm có trên thế gian, lẽ ra phải được hưởng một cuộc đời sung sướng, vì dầu sao y cùng xuất thân trong thế gia Mộ Dung, có trọng nhiệm lịch sử phục hồi ngai vàng Đại Yên, tái lập vương triều Mộ Dung. Huống hồ cha y là Mộ Dung Bác cả đời không làm nên sự nghiệp, chỉ sinh được mình y là con, đặt tên y là Phục, để từ khi ra đời đã gánh vác trách nhiệm không ai thay nổi. Mộ Dung Phục tính cách ngang ngạnh cố chấp, tâm cao khí ngạo, tự cho mình là người phi thường, muốn làm những việc phi thường, điều này đã quyết định vận mệnh khác thường của công tử Mộ Dung lừng lẫy tiếng tăm.

Ở nước Trung Quốc thời trước, có thể nói giấc mơ cao nhất, ham muốn mạnh mẽ nhất của rất nhiều người là được làm hoàng đế. Hoàng đế là “con trời”, “đất đai khắp thiên hạ, đâu cũng là đất của hoàng đế, khách của mọi nhà, ai cung là bầy tôi của hoàng đế”. Làm hoàng đế mới là cực điểm vinh hoa phú quí thật sự, bởi lấy của công khắp thiên hạ làm của riêng một nhà, một người, muốn làm gì tuỳ thích, đã vậy còn được gọi là “Thiên tử thánh minh”, không một ai dám hoài nghi. Bởi thế, trong lịch sử Trung Quốc, có vô số đại trượng phu hoặc hỗn thế ma vương hoặc đục nước béo cò, hoặc giết người cướp của, sử dụng sinh mạng của mình và của người khác để ngoi lên, “vốn chỉ định thử làm vua một chỗ, không ngờ được làm vua cả nước”.

Thì gã lưu manh vô lại Lưu Bang về sau chẳng thành Hán Cao Tổ đó sao? Tôi nói thế chỉ là để lý giải mộng tưởng tổ truyền của gia tộc Mộ Dung. Nếu là một gia tộc bình thường thì khỏi nói, nhưng gia tộc Mộ Dung thì khác, chảy trong máu họ là huyết thống hoàng tộc Đại Yên, nếu không “bác” (thu lấy), không “phục” (phục hồi), thì sẽ có lỗi với tổ tiên mình. Mộ Dung Bác đã cố thu lấy cả đời, Mộ Dung Phục đương nhiên cũng phải tận lực phục hồi. Có điều là trời không giúp Mộ Dung: bấy giờ xung quanh Trung Nguyên các nước tuy phân tranh, phía bắc có Đại Liêu, phía tây có Tây Hạ, tây nam có Đại Lý, Thổ Phiên, nhưng nước nào cũng ra sức củng cố cơ nghiệp, không dễ làm cho họ lung lay.

Ở bản thân Trung Nguyên, vương triều Bắc Tống tuy suy yếu nhưng vẫn chưa chịu chết. Hơn nữa, quân thần Bắc Tống còn tiến hành nhiều cải cách, dân chúng ấm no, đương nhiên không ai muốn thiên hạ rối loạn. Trong tình hình đó, gia tộc Mộ Dung muốn khởi sự, tạo phản đoạt quyền, thật không có cơ hội. Mộ Dung Bác dày công suy tính, muốn tạo ra xung đột ngoại giao và quân sự giữa vương triều Bắc Tống với vương triều Đại Liêu, kết quả trừ việc thay đổi số phận cha con Tiêu Viễn Sơn, Tiêu Phong và một số người thiểu số ra, chẳng có ảnh hưởng gì đến quan hệ giữa hai nước ấy. Đến đời Mộ Dung Phục, tình hình vẫn thế.

Song Mộ Dung Phục lại không bằng cha về bất cứ điểm gì. Thời thế lịch sử không tạo ra anh hùng, mà cứ muốn anh hùng tạo ra thời thế, cố nghịch thiên hành sự, kết quả ra sao cũng đủ biết. Mộ Dung Phục không có nhãn quan chính trị, không có tài năng quân sự, không có tài ngoại giao, nói đến chuyện phục quốc chỉ là nằm mơ. Vậy mà Mộ Dung Phục không nhận ra điều đó, hoặc giả nhận ra mà không công nhận, còn cố dốc sức sáng tạo kỳ tích, kết quả không đâu vào đâu, ai ai cũng thấy rõ, chỉ riêng y dường như không thấy. Như vậy, Mộ Dung Phục tuy thông minh lanh lợi, võ công cao cường, nhưng không phải là người đại trí đại tuệ, không hiểu sự lý thế gian.

II

Mộ Dung Phục không hiểu sự lý, nghịch thiên hành sự, không phải do thiên tư kém cỏi, mà là y quá mơ tưởng phú quí, cá tính cao ngạo, cố chấp. Trong sách có một tình tiết rất quan trọng, “Y muốn làm người Hồ, không muốn làm người Trung Quốc, ngay chữ Trung Quốc y cũng không muốn biết, sách Trung Quốc y cũng không thiết đọc”. (Xem Thiên long bát bộ). Đó là bằng chứng Mộ Dung Phục cố chấp, cũng là nguyên nhân khiến y không hiểu sự lý. Muốn phục hồi vương triều Đại Yên, lẽ ra phải tận dụng mọi nguồn vốn có thể để làm giàu cho mình, để khi giấc mộng trở thành hiện thực còn biết cách quản lý quốc gia. Đằng này lại cố chấp, không muốn biết chữ Trung Quốc, không đọc sách Trung Quốc.

Giá như y biết chữ Trung Quốc, đọc sách Trung Quốc, thì y đã có thể hiểu ra sự lý, hiểu rõ cuộc sống, không chấp mê bất ngộ đối với sự nghiệp phục quốc như thế. Mộ Dung Phục cố chấp như thế cũng không có gì lạ. Đừng nói y là người Hồ, ngay người Trung Quốc cũng khối người không biết chữ Trung Quốc, không đọc sách Trung Quốc. Thậm chí họ còn cho rằng càng đọc sách nhiều càng có hại, càng nhiều tri thức càng ngu xuẩn. Lại nói Mộ Dung Phục, cũng may y có một người từ nhỏ đã yêu kính y là biểu muội Vương Ngữ Yên. Mộ Dung Phục không đọc sách, đã có Vương Ngữ Yên đọc giúp y, kể lại cho y nghe. Dĩ nhiên không phải là đọc sách văn học nghệ thuật, mà là đọc các bí kíp võ công, quyền kinh kiếm phổ.

Không đọc chúng, Mộ Dung Phục làm sao có thể thông hiểu tuyệt kỹ trăm nhà ở Trung Nguyên để “dùng gậy ông đập lưng ông”, trở thành nổi tiếng trên giang hồ? Đã muốn học tinh tuý võ công của Trung Nguyên, lại không chịu đọc điển tích văn hoá Trung Quốc; khinh người cũng chính là khinh mình, tính cách tâm lý của Mộ Dung Phục là vậy. Nói đến Vương Ngữ Yên, đương nhiên không thể không nói đến tình yêu sâu sắc của nàng đối với Mộ Dung Phục. Cơ hồ cả thiên hạ đều biết tình yêu đó, Mộ Dung Phục đương nhiên cũng biết. Nhưng đối với y, ngoài đại nghiệp phục quốc, không có gì đáng kể. Tình yêu ấy chỉ chiếm chỗ rất nhỏ trong lòng Mộ Dung Phục.

Nếu một ngày nào đó y có kết hôn với Vương Ngữ Yên, thì cũng không phải vì tình yêu, mà chỉ là để thực hiện nhiệm vụ duy trì dòng giống theo tập quán mà thôi. Mộ Dung Phục không có tình yêu, không hiểu tình yêu, thậm chí hết sức coi thường tình yêu. Bằng chứng : khi quốc vương Tây Hạ treo bảng kén phò mã, Mộ Dung Phục đương nhiên không bỏ qua cơ hội ngàn năm có một này, lập tức quyết định buộc Vương Ngữ Yên, người luôn ở bên chàng trên bước đường giang hồ hiểm ác, phải trở về nhà. Đoàn Dự khuyên y đừng rời bỏ Vương Ngữ Yên, nói : “Vương cô nương thanh lệ tuyệt tục, thế gian hiếm có, hiền hậu dịu dàng, tìm khắp thiên hạ không ra người thứ hai”.(Xem Thiên long bát bộ).

Song Mộ Dung Phục mặc kệ, đối với y, không gì quan trọng hơn lý tưởng chính trị, sứ mạng phục quốc, đại kế kiến quốc. Chính vì thế, trong hoàng cung Tây Hạ, khi ứng thí, gặp câu hỏi “Người bình sinh công từ yêu quí nhất tên là gì?” Tuy câu hỏi này đã có mấy người trả lời trước y đến lượt Mộ Dung Phục, y nghe xong vẫn ngây ra, rồi mới thở dài, đáp : “Tạ không yêu nhất người nào cả”. (Xem Thiên long bát bộ).

Mộ Dung Phục trả lời thế không phải để lấy lòng công chúa Tây Hạ, mà là nói thật, trong đời y, y chẳng yêu ai nhất cả. Điều đó không chỉ là vô tình vô nghĩa với nàng Vương Ngữ Yên, mà còn không có chút tình thân đối với chính cha đẻ của y. Có một chi tiết nói rõ vấn đề này. Tại Thiếu Lâm tự, khi lão tăng vô danh chỉ chỗ nội thương của Tiêu Viễn Sơn, thì Tiêu Phong là con lập tức quì xuống xin lão tăng cứu chữa cho cha mình.

Còn khi lão tăng vô danh chỉ chỗ nội thương của Mộ Dung Bác, thì phản ứng của Mộ Dung Phục là “Y biết phụ thân tranh cường hiếu thắng, thà chết cũng không chịu nhục cầu xin, nên y không muốn làm như Tiêu Phong, không quì xuống xin lão tăng cứu chữa”. Nếu lão tăng kia không chủ động cứu chữa,thì cha y bị thương có nguy hiểm ra sao, Mộ Dung Phục chắc là cũng mặc kệ.Trên thế gian ai ai cũng có tình, Mộ Dung Phục lại không hề có, chẳng qua là do ý đồ vương bá của y quá lớn, đã ức chế, đè bẹp, triệt tiêu tình cảm thông thường của con người. Lâu dần, Mộ Dung Phục biến thành một kẻ “phi nhân” vô tình.

III

Đối với một kẻ mê muội với “sứ mệnh thần thánh” của mình, chỉ cần đạt mục đích, thì hắn sẽ bất chấp thủ đoạn. Vì thế, một kẻ không xấu, cũng không ác như Mộ Dung Phục, khi mất đi tình cảm thông thường và nhân tính, sẽ còn đáng sợ hơn mọi kẻ xấu và kẻ ác. Cha y, Mộ Dung Bác, để xúi giục hai nước Tống, Liêu phân tranh, căn bản không nghĩ đến trăm họ bị thảm sát hoặc đau khổ, là một ví dụ điển hình. Mộ Dung Phục suy tính chán chê, cuối cùng lợi dụng người mợ của y là Vương phu nhân làm mồi nhử, bắt Đoàn Chính Thuần, giết Đoàn Dự, rồi chủ động câu kết với đệ nhất ác nhân trong thiên hạ Đoàn Diên Khánh để tiện sau này lên ngôi vua nước Đại Lý, phát triển thêm một bước.

Để thực hiện mưu đồ ấy, y giết Nguyễn Tinh Trúc, giết Tần Hồng Cẩm, giết Cam Bảo Bảo. Cuối cùng Vương phu nhân cũng chết dưới mũi kiếm của y, y không hề chớp mắt. Song điều bất ngờ nhất là Mộ Dung Phục thẳng tay đâm chết viên gia tướng rất mực trung thành Bao Bất Đồng, chỉ vì Bao Bất Đồng không tán thành thủ đoạn của y, nói lộ bí mật của y, sợ y biến thành “kẻ bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa, khó tránh khỏi hổ thẹn với lương tâm”.(Xem Thiên long bát bộ).

Mộ Dung Phục giết Bao Bất Đồng, bọn Lưu Bách Xuyên bỏ đi, Mộ Dung Phục không hề nuối tiếc. Để thực hiện mưu đồ phục quốc, còn việc gì Mộ Dung Phục không làm? Y nhận ác nhân làm cha, đổi sang họ của người khác, giết người vô tội, giết thân nhân, giết thuộc hạ trung thành. Tiếc rằng sau mọi hành động vô sỉ, tàn bạo, đẫm máu ấy, y vẫn chưa đạt được mục đích; chính là vì khi tính người của Mộ Dung Phục bị tuyệt diệt, thì tính người ở đệ nhất ác nhân trong thiên hạ Đoàn Diên Khánh lại bắt đầu phục hồi. Sự so sánh này thật nhiều ý nghĩa. Bắt đầu từ đây, Mộ Dung Phục bước vào thời kỳ phát điên, cuộc sống con người coi như chấm dứt.

Về điểm này, trong sách sớm đã nói đến. Trong hoàng cung Tây Hạ, trước câu hỏi Mộ Dung Phục cảm thấy sung sướng nhất đời là lúc ở đâu, y cứng lưỡi. Sách viết : “Y một đời lúc nào cũng tất bật nay đây mai đó, chỉ lo phục hưng nước Yên, chưa từng lúc nào cảm thấy sung sướng. Người khác tưởng y anh tuấn, võ công cao cường, lừng danh thiên hạ, giang hồ ai ai cũng kinh sợ, thì hẳn phải đắc chí mãn ý lắm lắm. Nhưng trong lòng y quả thực chưa từng cảm thấy sung sướng thật sự. Y ngẩn người một hồi, rồi trả lời: “Nếu bảo cảm thấy sung sướng, thì đó sẽ là trong tương lai, chứ không phải quá khứ” - Niềm sung sướng sẽ là trong tương lai, song không phải ngụ ý việc thành hôn với công chúa Tây Hạ, - Mộ Dung Phục cảm thấy sung sướng, ấy là khi nào y làm chúa nước Đại Yên”. (Xem Thiên long bát bộ).

Thành hôn với công chúa Tây Hạ chỉ là một thủ đoạn để đạt tới mục đích, Mộ Dung Phục thực tế đã không còn biết thưởng thức ý vị của tình yêu và hôn nhân như một con người bình thường. Cuộc đời Mộ Dung Phục hoàn toàn uổng phí, y chỉ tái lập vương triều Mộ Dung trong mộng tưởng. Mộng tưởng ẩy đã làm cho y phát điên; khi điên, mộng tưởng ấy càng mạnh thêm, thế là mộng tưởng và điên rồ, điên rồ và mộng tưởng là mục đích và phương thức tồn tại duy nhất của y.

Đọc phần kết bộ tiểu thuyết Thiên long bát bộ, nhìn cảnh Mộ Dung Phục ở nước Đại Lý, ngồi bên nấm mộ vương triều Mộ Dung, đầu đội chiếc mũ miện làm bằng giấy, dùng kẹo bột dụ bọn trẻ con trong làng ra làm quần thần bái kiến, tung hô vạn tuế, vạn vạn tuế, người ta không khỏi tức cười và thương hại. Nghĩ một lát, chợt cảm thấy không lạnh mà run. Không biết đến bao giờ người ta mới thôi chìm đắm, mê muội trong giấc mộng bá vương, phú quí vạn tuế.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

40
ĐINH XUÂN THU
Đòi soạn “Xuân Thu”


Tôi suy nghĩ một thời gian dài, rồi mới quyết định bàn về Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu. Sở dĩ phải suy nghĩ lâu, vì câu chuyện về nhân vật châm biếm này được tác giả viết bằng bút pháp khoa trương giản lược, một khi “hoàn nguyên”, thì hầu như không còn gì đáng nói. Nhưng cuối cùng tôi vẫn quyết định nói, bởi trong cuộc sống của chúng ta, những kẻ như Đinh Xuân Thu có quá nhiều.

I

Trước khi Đinh Xuân Thu xuất hiện, trong giang hồ đã có nhiều lời đồn đại về nhân vật này. Tinh Tú lão quái và môn “Hoá công đại pháp” của lão, làm cho các nhân vật hai phái chính tà trong võ lâm đều phải cau mày, đúng là tiếng dữ đồn xa. Nữ đệ tử A Tử của lão vừa xuất hiện đã làm cho người ta cảm thấy tà khí bức nhân, da đầu ngứa ngáy; các đệ tử phái Tinh Tú, như Trích Tinh Tử, Thiên Lang Tử còn tàn bạo độc ác đáng ghét, thì có thể suy ra sư phụ của chúng, Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu chắc không ra gì. Độc giả đoán rằng Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu lánh nạn lâu năm ở Tây Vực, làm bạn với các loại độc vật, hẳn phải là kẻ đầu trâu mặt ngựa kỳ hình quái trạng. Đến khi ta thấy Đinh Xuân Thu xuất hiện :“Đấy là một lão ông tay cầm cây quạt lông ngỗng, ánh nắng chiếu vào mặt, thấy da mặt lão hồng nhuận, mái tóc bạc phơ, râu dài ba thước cũng bạc trắng, thật như một vị tiên ông trong tranh”, (Xem Thiên long bát bộ),

thì ai cũng cảm thấy bất ngờ. Ở con người này, nội dung và hình thức chênh nhau quá xa, khiến những ai quen “trông mặt mà đặt hình dong” phải kinh ngạc. Chúng ta không thể ngờ tên ma đầu của Tây Vực này lại không chỉ là đệ tử đích truyền của phái Tiêu Dao, mà còn sinh trưởng tại Khúc phụ, Sơn Đông, quê hương của hai vị thánh Nho Khổng, Mạnh. Cuối cùng Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu bị nhốt vào chùa Thiếu Lâm, sẽ chết ở đó. Cuộc đời Đinh XuânThu, sinh trưởng ở đất Nho học, chết ở thánh địa Phật giáo, quãng giữa là năm tháng tiêu dao theo Đạo gia. Cũng có nghĩa là Đinh Xuân Thu rốt cuộc có mối quan hệ thần bí với tam giáo Nho, Đạo, Phật. Trên ý nghĩa đó, nhân vật này được coi là một điển hình con đẻ của văn hoá Trung Quốc, đương nhiên là một điển hình không ngờ. Nói nôm na, lão không phải là thứ “chính quả” của nền văn hoá, mà là một kẻ phản nghịch. Cái “ác quả” phản nghịch này rõ ràng chưa được nền văn hoá Trung Quốc cải hoá, nhưng liệu nó có phải là sản phẩm tất nhiên của nền văn hoá ấy hay không, cần được phân tích cụ thể.

Đinh Xuân Thu tuy sinh trưởng ở đất Nho học, nhưng ngoài cái tên còn giữ lại kinh điển Nho gia và ngoại hình nho nhã mô phạm, nội tâm của lão không hề tiếp thụ sự dạy dỗ của thánh nhân Nho học. Bằng chứng là Đinh Xuân Thu không chỉ chui vào phái Tiêu Dao của Đạo gia làm đệ tử, mà cuối cùng trở thành tên phản nghịch sư môn. Để tranh đoạt chức chưởng môn phái Tiêu Dao, Đinh Xuân Thu đã đẩy sư phụ của mình xuống vực, bức sư huynh phải làm kẻ câm điếc mấy chục năm. Như vậy, Đinh Xuân Thu phút chốc thành tên phản đồ của Nho giáo và Phật giáo. Là đệ tử phái Tiêu Dao, song cuộc sống của Đinh Xuân Thu chẳng có chút gì là tiêu dao cả. Bảo Đinh Xuân Thu là một kẻ xấu, đương nhiênkhông sai. Kẻ này khi sư diệt tổ, tàn hại đồng môn, hành vi độc ác, thủ đoạn xấu xa, vô tình vô nghĩa, ai ai cũng biết.

Nhưng nếu đi sâu hơn, thấy mọi hành động của Đinh Xuân Thu đều là do dục vọng sai khiến, sự thoái hoá biến chất của lão đều là vì xung đột giữa dục vọng cá nhân với qui tắc sư môn, thì chúng ta sẽ thấy hình tượng nhân vật này mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Suy cho cùng, Đinh Xuân Thu chẳng qua chỉ là tượng trưng cho “dục vọng cá nhân”. Thời đại Đinh Xuân Thu, ngoài nỗi lo thù trong giặc ngoài theo nghĩa thông thường, còn có sự băng hoại lễ nhạc về mặt văn hoá, tương ứng với nó lại là sự manh nha và hưng thịnh của Lý học; những Chu Đôn Di, Trình Hao, Trình Di lần lượt xuất hiện giảng học, hoàng dương Nho giáo, sáng lập Lý học, sử gọi là “dĩ lý sát nhân”.

Trong vòng văn hoá chủ lưu, hiển nhiên không thể có tự do và tiêu dao. Trong bối cảnh đó Đinh Xuân Thu quay lưng lại Lý học, né tránh Nho giáo, chui vào làm môn hạ phái Tiêu Dao Đạo gia, là hành động bị bắt buộc, đáng được thông cảm. Đạo gia luôn được coi là một thứ đối lập và bổ sung quan trọng đối với lễ giáo Nho gia, có khi thậm chí trở thành nơi ẩn náu tinh thần của nhiều phạm nhân Nho giáo. Lý tưởng của Đạo gia là bắt chước tự nhiên, là tự do. Trong sách, Đạo gia được mang tên phái Tiêu Dao trong võ lâm, có sức hấp dẫn rất lớn đối với một kẻ không muốn đè nén dục vọng cá nhân như Đinh Xuân Thu. Nhưng Nho gia đã không hợp, thì Đạo gia liệu có thể dung nạp? Ở trong phái Tiêu Dao không hề có sự tiêu dao, chính là nội dung quan trọng được miêu tả trong bộ tiểu thuyết này.

Đạo gia cùng phái Tiêu Dao của nó không hề thật sự vì con người, vì cá nhân, vì dục vọng và giá trị của cá nhân mà tìm cái “đạo” tiêu dao chân chính. Đinh Xuân Thu rõ ràng chỉ có hứng thú với võ công, nhưng sư phụ của Đinh Xuân Thu, ngoài võ công, còn muốn học cầm kỳ thư hoạ, y công. Đinh Xuân Thu thèm muốn chức chưởng môn, nhưng sư phụ lại bảo chỉ có người nào đạt kết quả ưu tú các môn mới được tiếp nhiệm chức vị đó. Thấy chức vị chưởng môn là vô vọng, Đinh Xuân Thu mới tính cách ra tay trước, đoạt lấy chiếc nhẫn chưởng môn từ tay sư phụ.

II

Về bất cứ phương diện nào, cũng không thể coi Đinh Xuân Thu là một vị anh hùng, nhưng cũng không nên vì thế mà bảo dục vọng cá nhân và việc lão ta truy cầu thực hiện giá trị tự thân là sai, là xấu. Đinh Xuân Thu rời bỏ Trung Nguyên, đi xa tìm chân trời mới, sáng lập phái Tinh Tú, kể cũng là một nhân vật xuất chúng. Vấn đề là sau khi rời bỏ dòng chủ lưu Nho gia, rồi lại từ bỏ chính thống Đạo gia, Đinh Xuân Thu đã sáng lập ra hệ thống giá trị như thế nào? Có thể “tự soạn ra bộ Xuân Thu mới” hay chăng? Nói nôm na, ngoài dục vọng cá nhân của mình và nhận định giá trị tự thân ra, Đinh Xuân Thu chẳng tìm ra được tài nguyên văn hoá gì mới - ở Tây Vực, giữa đại tự nhiên rộng lớn, lão chỉ tìm thấy độc vật, chỉ dấn sâu vào con đường hắc ám.

Chúng ta thấy Đinh Xuân Thu tìm ra một lối đấu tranh trần trụi, tức là để cho đệ tử môn hạ ngay từ lúc nhập môn đã học cách cạnh tranh tàn khốc giữa người này với người kia, ai có bản lĩnh cao hơn thì người ấy được làm đại đệ tử, cứ vậy mà xếp hạng trở xuống. Cuộc chiến xếp hạng không chỉ quyết định ngôi thứ cao thấp, mà còn quyết định sự sống chết mất còn của cá nhân. Cuộc đấu giữa Trích Tinh Tử với A Tử là một ví dụ điển hình. Triết lý của sự tranh giành cố nhiên có thể kích thích dục vọng sinh tồn và bản năng đấu tranh, nhưng cũng vì thế mà biến con người thành dã thú, hướng nền văn minh nhân loại sang đấu trường dã man. Đinh Xuân Thu sở dĩ làm như vậy, bởi vì hồi còn ở phái Tiêu Dao, lão đã bị văn hoá văn minh dày vò, làm nhục, khiến lão chán ghét hết thảy. Lão cho rằng ai có bản lĩnh võ công cao hơn, thì sẽ làm đại đệ tử là lẽ đương nhiên.

Kẻ có vũ lực mạnh làm chủ thiên hạ, từ cổ đã thế. Lão không nghĩ rằng cái chủ nghĩa mới ấy, cái tư tưởng mới, lý luận mới, trật tự mới ấy chẳng qua chỉ tái diễn thứ chính trị cường quyền bá đạo cổ lỗ. Trong triết lý tranh đấu một mất một còn và thực tiễn bá đạo ấy, Đinh Xuân Thu không chỉ bồi dưỡng những tài năng kế tục lão, mà còn bồi dưỡng nên những kẻ tham sống sợ chết đê hèn vô sỉ. Trong đám đệ tử của mình, Đinh Xuân Thu thích nhất, quí nhất A Tử. Song chính A Tử là kẻ phản bội sư phụ sớm nhất, lấy cắp vật quí nhất của Đinh Xuân Thu, sau lại dựa thế của bang chủ Cái Bang Du Thản Chi, công khai trước mặt anh hùng thiên hạ giương ngọn cờ đả kích “chưởng môn phái Tinh Tú”, cuối cùng làm cho vị tông sư sáng lập môn phái thân bại danh liệt, đau khổ phát điên. Đương nhiên, làm cho Đinh Xuân Thu đau khổ phát điên thực ra không phải A Tử, thậm chí cũng không phải là phù chú sinh tử của Hư Trúc, mà chính là cái triết lý tàn khốc của Đinh Xuân Thu.

Rất đơn giản, khi Đinh Xuân Thu gặp kẻ võ công cao hơn lão, lão sẽ được nếm mùi vị tàn khốc của cái triết lý kia. Võ công của Đinh Xuân Thu dĩ nhiên cũng có ngụ ý văn hoá nhất định. Tuy xuất thân từ phái Tiêu Dao, song võ công của Đinh Xuân Thu là do lão tự sáng tạo nên. Đinh Xuân Thu có hai môn võ công lợi hại nhất, một là môn “Hoá công đại pháp” được cải biến từ “Bắc Minh thần công” của phái Tiêu Dao mà ra; hai là môn “Hủ thi công” đầy độc tính do lão sáng tạo ra. Cải biến, sáng tạo võ công, một mặt chứng tỏ Đinh Xuân Thu quả có thiên tài võ học, mặt khác chứng tỏ giới hạn nhân cách và bản tính văn hoá của Đinh Xuân Thu. “Bắc Minh thần công” bắt nguồn từ ý của Trang Tử, muốn người ta nhìn thấy sự nhỏ bé của cá nhân, đồng thời thấy cái đạo tự nhiên là trăm sông đổ ra biển Bắc Minh.

Còn từ đó cải biến thành “Hủ thi công”, nghĩa là sẽ “hoá” hết thảy, phủ định, quét sạch, huỷ diệt toàn bộ nội lực của kẻ khác, ta gọi là “vũ khí phê phán” tuyệt đối. “Hủ thi công” của Đinh Xuân Thu làm cho người ta ghê sợ, chẳng qua chỉ là một thứ văn hoá lịch sử thối tha, mang hơi độc của xác chết mà thôi. Suy cho cùng, Đinh Xuân Thu tuy sáng lập phái Tinh Tú, nhưng kỳ thực chẳng sáng tạo ra được sự vật mới mẻ nào vượt qua hạn chế văn hoá lịch sử. Hùng tâm đại chí cải thiên hoán địa, viết bộ Xuân Thu mới của lão chỉ là lời nói mê sảng mà thôi.

III

Thế nhưng cái kẻ sống lâu năm ở Tây Vực, ếch ngồi đáy giếng này, không biết trời đất bao la, anh hùng thiên hạ đông đảo, sau khi lật đổ sư phụ, cứ tự cho mình là người kiệt xuất nhất thế gian. Tức cười nhất là lão không chỉ nghĩ thế, mà còn thích mọi người nói như thế. Mọi người không chịu nói, thì lão sai đồ đệ của mình dán biểu ngữ, hô khẩu hiệu diễu hành tứ xứ mà tuyên cáo. Cho nên, Đinh Xuân Thu đi đến đâu, đều có đám đông đệ tử khua chiêng gióng trống, phất cờ, trên cờ viết nào là “Tinh Tú Lão Tiên”, nào là “Thần thông quảng đại, nào là “Pháp lực vô biên”, nào là “Uy chấn thiên hạ”; đồng thời hô to tán tụng mọi lời nói, việc làm của Đinh Xuân Thu, coi lão như một đại kỳ quan trong võ lâm vậy.

Thế rồi khi Đinh Xuân Thu ở chùa Thiếu Lâm bị Hư Trúc đánh bại, thì rất nhiều đệ tử phái Tinh Tú lâu nay nhất mực trung thành, ca tụng công đức Đinh Xuân Thu, giờ đây không chút do dự chạy sang đầu hàng Hư Trúc, dùng những lời lẽ xấu xa nhất mà chửi rủa Đinh Xuân Thu, rồi dùng những lời trước đây ca ngợi Đinh Xuân Thu, nay ca ngợi Hư Trúc, khiến cho Hư Trúc “không khỏi cảm thấy lâng lâng khó tả”.(Xem Thiên long bát bộ).

Nghĩ một chút, ta thấy chuyện ấy có cái lý của nó. Về môn phong kỳ quặc của phái Tinh Tú, Bao Bất Đồng từng nói trắng ra như sau : muốn có được thành công ở môn phái này, chí ít phải luyện thành thạo ba thần công. Một là Nịnh bợ công. Không luyện thành môn này, e rằng không sống nổi ở quí môn nửa ngày. Hai là Khoác lác công, nếu không thổi phồng võ công và đức hạnh của quí môn, thì sẽ bị cả sư phụ lẫn đồng môn khinh rẻ, không có chỗ đứng. Ba là công phu mặt dày. Nếu không xoá sạch lương tâm, mặt dày mày dạn, thì không thể luyện thành hai đại kỳ công Nịnh bợ và Khoác lác”. (Xem Thiên long bát bộ).

Bao Bất Đồng nói toạc ra như tế, mà lạ thay, các đệ tử phái Tinh Tú chẳng những không tức giận, lại còn gật gù, thậm chí khen phải. Tác giả dùng bút pháp châm biếm, khoa trương, ngụ ngôn miêu tả Đinh Xuân Thu và các đệ tử phái Tinh Tú, thậm chí trực tiếp nói thẳng ra điều đó khỏi cần bàn thêm. Đinh Xuân Thu muốn viết nên lịch sử vinh quang của lão, song lão chỉ trở thành trò cười của lịch sử. Lý do rất đơn giản. Một lãnh tụ vô đức vô hạnh, dĩ nhiên có thể dùng võ lực cường quyền khi thế đạo danh, tụ tập và bồi dưỡng đám đồ đệ đê hèn; còn đám đồ đệ đê hèn thì tất nhiên là “nước có thể đẩy thuyền, cũng có thể lật thuyền”.

Có lẽ Đinh Xuân Thu không biết, rằng ngay từ lần xuất hiện “loé sáng đầu tiên”, lão đã được lịch sử dành cho một vai hề. Đinh Xuân Thu càng không biết, vở hài kịch mà lão sắm vai, chẳng có gì mới lạ cả. Suy cho cùng, Đinh Xuân Thu cũng chỉ là một thứ nhọt độc trên cái xác truyền thống đang thối nát mà thôi.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

41
KHANG MẪN
Thèm khát áo hoa


Vợ và tình nhân của vương gia phong lưu nước Đại Lý Đoàn Chính Thuần toàn là những người không được thoả mãn về ham muốn tình cảm, thành ra mắc bệnh tâm thần, rõ ràng là tác giả diễn dịch đạo lý “hữu tình giai nghiệt” của Phật gia. Có điều là trong số đó Khang Mẫn, phu nhân của Mã Đại Nguyên, cần được nói riêng. Chuyện mụ này tuyệt đối không đơn giản là vì tình sinh nghiệt, mà rõ ràng là biến dạng tâm lý, tự yêu thành cuồng, một loại tướng nhân sinh điển hình.

I

Nhìn chung, trong văn hoá Trung Quốc truyền thống, dục vọng cá thể vốn không được coi là có giá trị đáng kể. Do đó mọi dục vọng cá thể đều đáng được thông cảm, đồng tình. Nữ giới đáng thương gấp đôi. Nữ giới xuất thân từ gia đình bần hàn, đáng thương gấp ba. Nữ giới xuất thân từ gia đình bần hàn, lại bị thiên tai địch hoạ bất khả kháng, đáng thương gấp bốn. Khang Mẫn xem ra thuộc loại cuối cùng này. Khang Mẫn xuất hiện lần thứ nhất, là trong rừng hạnh đào gần Vô Tích, nhờ Từ trưởng lão chủ trì công đạo cho ả, vì chồng ả là Mã Đại Nguyên phó bang chủ Cái Bang, bị giết hại. Khang Mẫn cơ hồ khăng khăng bảo thủ phạm là bang chủ Kiều Phong.

Bấy giờ mọi người chưa nhìn rõ diện mạo của ả. Mãi đến khi ở Tụ Hiền trang, Khang Mẫn tái xuất hiện, chính thức uống rượu tuyệt giao với Kiều Phong, Kiều Phong mới nhìn kỹ, thì ra nhân này dung mạo thanh tú, rất xinh đẹp, e lệ nhút nhát, hết sức đáng yêu. Với vẻ e lệ nhút nhát hết sức đáng yêu này, chỉ số đáng thương của Khang Mẫn được tăng gấp năm lần. Thế nhưng, khi nhận ra chân tướng của Khang Mẫn, tôi tin chắc độc giả sẽ phải há hốc miệng kinh ngạc. Khi đó, chỉ số đáng thương của Khang Mẫn sẽ biến thành chỉ số kinh ngạc của độc giả. Tiếp đó, chúng ta sẽ còn thấy rằng chỉ số đáng thương của ả sẽ biến thành chỉ số đáng ghét, đáng sợ của ả. Trước tiên, Khang Mẫn lừa Kiều Phong và A Chu, bảo rằng Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý ngày trước đã suất lãnh anh hùng Trung Nguyên tại Nhạn Môn quan sát hại “đại ca đối đầu của cha mẹ Kiều Phong, khiến cho A Chu đi giết phụ thân vô tội của Đoàn Chính Thuần.

Bất ngờ hơn, Đoàn Chính Thuần bị Khang Mẫn hãm hại như vậy trong khi chàng ta hoàn toàn không phải là kẻ thù của Khang Mẫn, mà ngược lại, còn là tình nhân của ả. Tiếp đó, khi Tiêu Phong lần theo tưng tích tìm đến, thì phát hiện Đoàn Chính Thuần đang nằm trên giường của Khang Mẫn, còn Khang Mẫn đã pha thuốc mê “Thập hương mê hồn tán” vào rượu cho chàng ta uống, đang thong thả cắn chàng ta từng miếng và chém chàng ta từng nhát một. Mà nguyên nhân chỉ là vì trách Đoàn Chính Thuần quên ả, không mang ả về làm vương phi nước Đại Lý. Thứ hai, Khang Mẫn bán mình, lần lượt mua trưởng lão Cái Bang Bạch Thế Kính, Toàn Quán Thanh, bày kế sát hại chồng ả là Mã Đại Nguyên, sau lấy đó làm cớ để vạch rõ thân thế người Khiết Đan của Kiều Phong, đuổi bang chủ Kiều Phong khỏi Cái Bang, biến Kiều Phong thành kẻ tử thù của người Hán ở Trung Nguyên.

Khang Mẫn sở dĩ sát hại chồng ả, chỉ vì Mã Đại Nguyên không nghe lời ả lo đại sự, là một kẻ nhu nhược vô dụng, không dám vạch rõ thân thế người Khiết Đan của Kiều Phong. Cuối cùng, Khang Mẫn sở dĩ căm tức Kiều (Tiêu) Phong đến thế, tìm trăm phương ngàn kế dồn chàng ta vào chỗ chết, không phải vì ả có thâm cừu đại hận gì với Kiều Phong, mà chỉ vì năm trước tại Bách Hoa hội Ở Lạc Dương, Kiều Phong đã không chú ý đến ả? "..: Hừ, Bách Hoa hội có hơn một ngàn nam nhân, chỉ có mình ngươi từ đầu chí cuối không nhìn ngắm ta. Ngươi đứng đầu Cái Bang, là anh hùng hảo hán lừng danh thiên hạ, tại Bách Hoa hội này, ngươi đứng đầu đám nam tử, còn nữ giới thì dĩ nhiên ta đứng đầu. Ngươi không thèm ngắm ta, thử hỏi ta tự phụ xinh đẹp còn có ý nghĩa gì kia chứ? Hơn một ngàn người vì ta mà thần hồn điên đảo, ngươi như thế ta sao chịu nổi (Xem Thiên long bát bộ ).

Mỗi việc của Khang Mẫn hầu như đều làm cho người ta há miệng kinh ngạc. Chỉ vì một nam tử không ngắm ả, mà ả để bụng căm hận, coi như kẻ tử thù, làm cho người ấy thân bại danh liệt, ả không tiếc bất cứ giá nào. Kiều Phong tuy không bị ả hại chết, nhưng chồng ả, Mã Đại Nguyên đã vì thế mà bị mất mạng trước. Cái chết của Mã Đại Nguyên chút nữa thì dẫn đến cuộc đại chiến giữa Nam Mộ Dung với vợ chồng Bắc Kiều Phong, rồi ả gây lục đục trong nội bộ Cái Bang, cũng chút nữa dẫn đến bùng nổ nội chiến. Cuối cùng, vì thân thế Kiều Phong bị lộ ra, mà vợ chồng Kiều Tam Hoè, Huyền Khổ đại sư của Thiếu Lâm tự, gia đình Đơn Chính, Từ trưởng lão của Cái Bang, Triệu Tiền Tôn và vợ chồng họ Đàm, với vô số anh hùng hảo hán lừng Nguyên có mặt tại Tụ Hiền trang phải bỏ mạng.

Bao nhiêu tai hoạ đẫm máu đều do cái ả Khang Mẫn “e lệ nhút nhát gây nên, đâu có thua gì hậu quả tàn khốc của cuộc tranh chấp võ lâm Tống-Liêu mà Mộ Dung Bác xúi bẩy gây ra với ý đồ khôi phục vương triều Đại Yên. Do vậy, chúng ta buộc phải nhìn Khang Mẫn bằng con mắt khác. Không chịu ngắm ả, Kiều Phong bị ả dồn vào đường chết; ngắm ả, mê ả, Đoàn Chính Thuần chỉ vì có nỗi khổ không nói ra được, bất đắc dĩ phải xa ả, thế là ả chộp được cơ hội, quyết định trả thù, muốn đem đối phương ra mà lăng trì tùng xẻo. Không ngắm ả, không được, làm nhân tình của ả cũng không được; làm chồng ả cũng chết thảm; yêu ả gắn bó với ả, nhưng chỉ vì một lần không đáp ứng đòi hỏi vô lý của ả, không làm cái việc mất lý trí, thế là phải trả giá bằng tính mạng. Hành động và tâm lý của Khang Mẫn thực là hiếm có chốn nhân gian, không thể hiểu nổi.

II

Hành động và tâm lý kỳ quặc của Khang Mẫn có thể xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Trước hết cần thấy rằng, bất kể động cơ chủ quan của Khang Mẫn là gì, chúng ta cũng không thể qui kết mọi tai hoạ kể trên vào đầu Khang Mẫn. Nếu Mộ Dung Bác không xúi bẩy cuộc tranh chấp võ lâm Tống-Liêu đẫm máu, thì Khang Mẫn có muốn hãm hại Kiều Phong cũng chẳng làm gì nổi. Vợ chồng Kiều Tam Hoè và nhiều người chết thảm, chỉ e không đơn giản chỉ do Khang Mẫn gây nên.

Nếu Bạch Thế Kính không hiếu sắc có ý đồ xấu với Khang Mẫn, thì ả chẳng thể dụ hắn giết chồng ả. Nếu Toàn Quán Thanh không hiếu sắc nảy sinh dã tâm, cuộc nội loạn của Cái Bang đã chẳng xảy ra. Nếu anh hùng Trung Nguyên không tích luỹ thù hận, mà chịu khó suy nghĩ một chút, thì Tụ Hiền trang đã chẳng máu chảy thành sông. Nếu Đoàn Chính Thuần đừng đi đâu cũng trăng gió, để lại nghiệt trái, thì thể xác đâu có bị hành hạ khổ sở, con gái A Chu của Đoàn Chính Thuần đâu có phải chết thay cha? Nếu Tiêu Phong và A Chu không cải trang đánh lừa Khang Mẫn để bị ả phát hiện, thì ả muốn bới móc cũng chẳng được.

Chúng ta cũng không thể chê trách có người đứng trên lập trường bênh vực phụ nữ, cho rằng Khang Mẫn là nạn nhân của sự bức hại và khinh miệt, nện ả phẫn nộ mới chống lại và trả thù. Nếu không ngại cưỡng từ đoạt lý, thì cứ coi cái việc Tiêu Phong không để ý đến Khang Mẫn tức là đã khinh miệt hoặc làm nhục ả; quan hệ tình cảm giữa Đoàn Chính Thuần với Khang Mẫn là một trò chơi vô trách nhiệm; Mã Đại Nguyên là chồng của Khang Mẫn mà không thể bảo vệ nhân cách của vợ, còn mắng vợ sai trái v.v...Đương nhiên, đứng trên góc độ nữ quyền chủ nghĩa mà bào chữa cho Khang Mẫn, bảo Tiêu Phong, Đoàn Chính Thuần, Mã Đại Nguyên là bọn đáng chết, thì đấy không phải là ý đồ của tác giả.

Bởi lẽ, dẫu gì đi nữa, tại Bách Hoa hội ở Lạc Dương, Tiêu Phong không để ý đến Khang Mẫn hoàn toàn không phải là có ý miệt thị ả, huống hồ Khang Mẫn lúc ấy đang là phu nhân của phó bang chủ Cái Bang Mã Đại Nguyên, việc Tiêu Phong làm như không để ý đến ả là điều bình thường. Đoàn Chính Thuần tuy phong lưu hiếu sắc, nhưng quan hệ dựa trên sự tình nguyện của cả đôi bên, cũng không đến nỗi đáng chết. Mã Đại Nguyên không muốn chỉ vì sự tức giận của vợ mà vạch ra thân thế của Tiêu Phong để nguy hiểm cho Cái Bang, càng không đáng gọi là sai trái hoặc tội lỗi gì. Điều cốt yếu là tính cách và tâm lý của Khang Mẫn, mọi hành động của Khang Mẫn đều do ả quá mẫn cảm và cố chấp, nói trắng ra đó là một thứ bệnh tâm thần, bắt nguồn từ “giấc mơ áo hoa” của Khang Mẫn bị tan vỡ, theo lời ả kể cho Đoàn Chính Thuần nghe.

Câu chuyện như sau : hồi Khang Mẫn lên bảy tuổi cô bé bắt đầu nuôi gà và cừu; cha cô bé đồng ý rằng đến cuối năm sẽ bán gà và cừu, may cho Khang Mẫn một bộ quần áo hoa mới. Không ngờ cuối năm ấy ba con gà và mười mấy con cừu đều bị chó sói bắt mất sạch. Cha cô bé đuổi theo chó sói, đã không lấy lại được cừu còn bị thương. Bé Khang Mẫn khóc lóc, nhất định cứ đòi cha may áo hoa cho nó. Chuyện tiếp theo là Khang Mẫn chưa có áo hoa, thì một chị nhà họ Hồng láng giềng mặc một bồ quần áo hoa mới rất đẹp khiến Khang Mẫn vừa thèm thuồng, vừa ghen tức, ban đêm đã lẻn sang nhà láng giềng, dùng kéo cắt nát bộ quần áo hoa của chị kia.

Ý nghĩa câu chuyện thật hay. Bấy giờ Khang Mẫn phát hiện “Sau khi cắt nát bộ quần áo hoa của chị kia, thiếp cảm thấy sung sướng hơn cả việc chính mình được mặc áo hoa mới. Thiếp muốn nói để chàng biết rõ tính nết của thiếp, từ nhỏ đã thế, cái gì thiếp mong ước đêm ngày mà không có được, kẻ khác lại may mắn hơn, thì thiếp nhất định sẽ phá huỷ thứ đó đi Hồi nhỏ thiếp sử dụng cái kẻo thô thiển, càng lớn dần, thiếp sử dụng cách thức càng khôn khéo hơn”.(Xem Thiên long bát bộ ).

Rõ ràng, đối với Khang Mẫn, bang chủ Cái Bang Tiêu Phong, hoặc Đoàn Chính Thuần vương tử nước Đại Lý, đều là “bộ quần áo hoa của kẻ khác”. Tiêu Phong không buồn ngắm ả, Đoàn Chính Thuần không thể thuộc sở hữu của một mình ả, thì đương nhiên ả phải “cắt nát” chiếc áo hoa ấy mới hả dạ. Hồi nhỏ cha của ả bị thương, ả cũng mặc kệ, cứ đòi bằng được áo hoa; thế thì sau nay chồng ả không chịu giúp ả lấy cái áo hoa của người khác, ả còn thiết gì mà chẳng giết quách đi. Chuyện trên tạm gọi là “tâm trạng áo hoa” của Khang Mẫn hoặc “tâm trạng Khang Mẫn”, có thể giúp ta lý giải Khang Mẫn là người thế nào. Cái “tâm trạng áo hoa” đặc thù ấy chắc là có giá trị và ý nghĩa phổ biến nhất định dưới con mắt các nhà tâm lý học và bệnh lý học tâm thần.

III

Hình tượng Khang Mẫn và “tâm trạng áo hoa”, ngoài ý nghĩa phổ biến về mặt tâm lý học và bệnh lý học tâm thần, còn có một giá trị khải thị văn hoá không nên xem thường. “Chỉ số đáng thương” gấp năm lần của Khang Mẫn biến thành “chỉ số đáng sợ” mang một ý nghĩa văn hoá sâu xa. Một phụ nữ nghèo bị tai hoạ, lại xinh đẹp, bị kìm nén, trên ý nghĩa chung, đáng được thông cảm. Bởi vì sự kìm nén sẽ ảnh hưởng đến sự sống còn và phát triển của người ấy, không để cho họ được hưởng hạnh phúc. Lẽ thường ấy khỏi cần bàn thêm. Điều cần nói là, giống như lực tác dụng và lực phản tác dụng trong vật lý học, sức ép từ bên ngoài sẽ gặp sức chống đối của bản năng cá thể.

Sự đối kháng giữa bản năng với hoàn cảnh phần lớn trường hợp là vô hiệu, song không thể nói rằng sức ép của hoàn cảnh có thể thật sự triệt tiêu bản năng của cá thể, mà thực ra chỉ làm cho bản năng bị kìm nén ấy ngấm ngầm phát triển. Cũng tức là nói sự xung đột giữa bản năng với hoàn cảnh có “chính quả” (là sinhmệnh và ý thức tâm lý của cá thể bị co hẹp lại), song cũng có “ác quả” (là sinh mệnh và ý thức tâm lý của cá thể bị biến dạng, bành trướng méo mó). “Tâm trạng áo hoa” của Khang Mẫn là tình trạng bản năng sau khi bị kìm nén rất mạnh, từ một bông hoa đẹp biến thành một “đoá hoa tà ác” kinh người. Nguyên nhân vô cùng đơn giản, bởi ai ai cũng có cái tâm tự ngã, tự tư, tự lợi, tự yêu, trong hoàn cảnh bình thường, bản năng tự ngã được thoả mãn đến mức độ nhất định, nhân quyền cá thể được bảo đảm đến mức độ nhất định, thì xã hội sẽ là một vườn hoa lý tưởng.

Còn trong hoàn cảnh bất thường, cái tâm tự ngã, tự tư, tự lợi, tự yêu, của cá thể sẽ biến thành mãnh thú, hồng thuỷ, kết quả không ngoài hai thứ, một là trạng thái bị kìm nén thường gặp, hai là sự đột phá kìm nén mà biến dạng méo mó, tiến đến chỗ cực đoan tà ác. Tính cách và tâm lý của Khang Mẫn, theo qui tắc lực tác dụng và lực phản tác dụng, sẽ đem “chỉ số đáng thương” biến thành “chỉ số đáng sợ”. Thiếu nữ khát vọng áo hoa, đó là bản năng của con người, không có gì khó hiểu, cũng có thể thông cảm. Nhưng khi cái bản năng ấy không được thoả mãn một cách bình thường, lại phát triển thành sự đố kỵ quá mạnh đối với người khác, lại đi căm hận số phận của chính mình và của thế giới bên ngoài, đồng thời đẩy cái tâm tự ngã, tự tư, tự lợi, tự yêu đến chỗ cực đoan, thì “tâm trạng áo hoa” sẽ làm cho cá thể phát điên, đi cắt nát áo hoa của người khác.

Hình ảnh Khang Mẫn trước lúc chết thế này : “Chỉ thấy một bộ mặt bê bết máu và bụi, hốt hoảng, thảng thốt độc ác oán hận, đau đớn, tức giận, bao nhiêu cảm xúc tệ hại tập trung ở mắt mũi môi miệng, còn đâu là khuôn mặt thanh tú, xinh xắn khả ái của một giai nhân? Khang Mẫn một đời tự phụ xinh đẹp, nhưng trước lúc tắt thở nhìn trong gương chỉ thấy mình quá đỗi xấu xí (Xem Thiên long bát bộ). Thực tế ấy đương nhiên là mang tính tượng trưng. Một mỹ nữ xuất thân nghèo hèn như Khang Mẫn, biến thành một kẻ tự tư tự yêu đến mức cực đoan, hoá điên, quả có một ý nghĩa sâu xa.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [74] [75] [76] [77] [78] [79] [80] ... ›Trang sau »Trang cuối