Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [75] [76] [77] [78] [79] [80] [81] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

42
LỆNH HỒ XUNG
Tiếu ngạo giang hồ


Nếu để cho những người mê Kim Dung bỏ phiếu chọn nhân vật yêu thích nhất, thì nhân vật chính của Tiếu ngạo giang hồ là Lệnh Hồ Xung chắc sẽ là ứng cử viên số một. Nguyên nhân ưa thích thì e rằng sẽ không giống nhau. Người này thông minh lanh lợi mà cơ trí hóm hỉnh, hiền lành dễ gần mà thâm tình cố chấp, xốc nổi hăng hái mà lương thiện hồn nhiên, cẩu thả tuỳ tiện lại tự do phóng khoáng, quả thật có nhiều cái đáng yêu. Thực ra, giá trị thật sự của hình tượng nhân vật Lệnh Hồ Xung không chỉ ở đó, mà chủ yếu ở chỗ lĩnh hội dần dần và thể hiện chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do, - tức tinh thần nhân văn hiện đại “tiếu ngạo giang hồ”, - là thứ trái nghịch với môi trường và truyền thống chuyên chế văn hoá, bá quyền chính trị.

I

Khởi đầu, Lệnh Hồ Xung là một gã thanh niên “có vấn đề”. Là đệ tử danh môn chính phái, nhất là đại đệ tử khai sơn của “Quân tử kiếm” Nhạc Bất Quần lừng danh trong võ lâm, song tác phong và hành vi của Lệnh Hồ Xung chẳng những không thể làm gương cho đồng môn, mà rõ ràng còn làm tổn hại thanh danh của đệ tử chính phái. Trước khi Lệnh Hồ Xung xuất hiện, đã có nhiều tin đồn lan rộng về chàng, khiến có người há mồm trố mắt, có người khóc dở mếu dở, có người thậm chí thương tiếc cho chàng. Sư phụ Nhạc Bất Quần của chàng càng đau đầu hơn về chàng.

Cụ thể, Lệnh Hồ Xung có ba việc làm sai trái.Thứ nhất, đặc biệt thích rượu, một bữa uống đến say mèm, còn công khai đùa giỡn với đệ tử Cái Bang, làm mất thể diện đại đệ tử phái Hoa Sơn. Thứ hai, tự dưng vô cớ nghe thấy danh hiệu “Anh hùng hào kiệt, Thanh Thành tứ tú”, lại ngứa miệng nói “Cẩu hùng dã trư, Thanh Thành tứ thú (Gấu chó lợn lòi, bốn con thú Ở Thanh Thành), khiến đối phương động thủ, rồi chàng ném họ xuống khỏi tửu lâu, còn trào phúng bảo đấy là võ công độc môn của phái Thanh Thành, có tên là chiêu “bình sa lạc nhạn mông đít chạm đất”. Vụ đó nếu không có sư phụ xử lý khôn khéo, thì suýt nữa làm cho hai đại môn phái tranh chấp vô vị.

Thứ ba, Lệnh Hồ Xung công khai uống rượu với Điền Bá Quang, một gã nổi tiếng dâm tặc, lại còn rủ tiểu ni cô Nghi Lâm phái Hằng Sơn lên trên tửu lâu ba hoa khoác lác, tiếp đó lại xảy ra xung đột đẫm máu với đệ tử phái Thanh Thành, đôi bên đều bị thương vong nặng nề. Vụ này tuy có được Nghi Lâm nói đỡ phần nào, song hành vi sai trái của Lệnh Hồ Xung là điều chắc chắn, không còn nghi ngờ gì nữa. Lệnh Hồ Xung chính thức xuất hiện, là ở một kỹ viện trong thành Hoành Sơn, tuy chàng vào đó không phải do chủ động, nhưng sau khi tỉnh lại, các biểu hiện của chàng khiến các chính nhân quân tử phải cau mày. Trở về Hoa Sơn, Lệnh Hồ Xung bị sư phụ Nhạc Bất Quần trách mắng, phạt ra dãy núi sau, một mình quay mặt vào vách núi mà suy nghĩ về lỗi lầm của mình, chắc rằng mọi người đều cho rằng Lệnh Hồ Xung bị phạt như thế là đích đáng.

Lệnh Hồ Xung khi đó quả thật là một thanh niên “có vấn đề”, nếu không quản lý chặt chẽ, sao có thể làm gương cho sư môn? Nếu bảo Lệnh Hồ Xung vừa xuất hiện nói chung không khác gì một gã thanh niên “có vấn đề”, thì dưới ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của ba sự việc tiếp theo, hình tượng Lệnh Hồ Xung mới bắt đầu có biến đổi khác lạ. Việc thứ nhất, Nghi Lâm dẫn chàng từ kỹ viện chạy trốn ra ngoại thành Hoành Sơn, tình cờ được nghe Lưu Chính Phong phái Hoành Sơn cùng với trưởng lão Ma giáo Khúc Dương hợp tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ” bằng đàn và sáo như nghe khúc nhạc thần tiên, bất giác đến gần cái hiện trường lịch sử đầy ý nghĩa tượng trưng đó.

Thế là chàng nhìn thấy cao thủ phái Tung Sơn Phí Bân đối xử như thế nào với Lưu Chính Phong và Khúc Dương, thậm chí Phí Bân còn hạ sát một cách tàn bạo đứa cháu gái bé bỏng của Khúc Dương ra sao; nhìn thấy Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hoành Sơn, nghe đồn đối địch như nước với lửa với Lưu Chính Phong, đã bất ngờ giết tên sát nhân Phí Bân như thế nào. Cuối cùng Lệnh Hồ Xung nhận lời dặn dò của Lưu Chính Phong và Khúc Dương, sẽ phổ biến rộng “khúc Tiếu ngạo giang hồ” cho họ. Khi đó Lệnh Hồ Xung căn bản chưa hiểu âm nhạc, càng không hiểu rồi “khúc Tiếu ngạo giang hồ” sẽ có ảnh hưởng và ý nghĩa lớn chừng nào đến cuộc đời chàng, nhưng chàng tối thiểu cũng được chứng kiến hiện trường lịch sử, cảm thấy rõ ràng đồng tình với Lưu Chính Phong và Khúc Dương, có ác cảm với liên minh Ngũ Nhạc và những hành động của cao thủ Phí Bân phái Tung Sơn.

Việc thứ hai, sau khi bị phạt trên núi Hoa Sơn, trong sơn động chàng vô tình phát hiện vách động có một lối đi, thế là chàng bước vào một “thông đạo lịch sử” khó tin. Ở đó, Lệnh Hồ Xung vô cùng kinh ngạc phát hiện trên vách đá mười sáu chữ lớn rành rành “Ngũ Nhạc kiếm phái, vô sỉ hạ lưu, tỷ võ bất thắng, ám toán hại nhân” (Ngũ Nhạc kiếm phái là hạng người vô sỉ, đấu võ không thắng lại ngầm hại người), cùng nhiều chữ nhỏ như “vô lại hèn hạ”, “cực kỳ xấu xa”, “hết sức khiếp nhược”. Tiếp đó chàng phát hiện trên vách đá khắc chữ và hình vẽ “Phạm Tùng, Triệu Hạc phá kiếm pháp Hằng Sơn ở đây”, “Trương Thừa Vân tận phá Hoa Sơn kiếm pháp”, rồi kiếm pháp Hoành Sơn, Thái Sơn, Tung Sơn cũng đều bị “phá tan!”.

Giống như khi vừa tiếp xúc “khúc Tiếu ngạo giang hồ” chưa hiểu ý nghĩa của nó, Lệnh Hồ Xung đương nhiên không muốn tin lối nói “Ngũ Nhạc kiếm phái, vô sỉ hạ lưu”, nhưng kiếm pháp phái Hoa Sơn bị phá, các chiêu đều có hình vẽ ở đây, sự thực rành rành, không thể không tin. Điều đáng sợ là không chỉ các tuyệt chiêu kiếm pháp phái Hoa Sơn mà Lệnh Hồ Xung nắm được bị phá, mà ngay cả những tuyệt chiêu bị thất truyền từ lâu, lợi hại hơn nhiều, cũng bị người ta phá sạch! Thậm chí kiếm pháp của bốn phái còn lại trong liên minh Ngũ Nhạc cũng như thế cả! Chân tướng lịch sử bất ngờ này làm sụp đổ hoàn toàn lòng tin của Lệnh Hồ Xung vào võ công phái Hoa Sơn và toàn bộ liên minh Ngũ Nhạc, trong tiềm thức, niềm tin đạo đức của chàng vào phái Hoa Sơn và toàn bộ liên minh Ngũ Nhạc cũng lung lay.

Thế là Lệnh Hồ Xung hồn xiêu phách lạc, ốm nặng một trận. Việc thứ ba, khi Điền Bá Quang lên núi Hoa Sơn rủ Lệnh Hồ Xung đi gặp Nghi Lâm định giở thủ đoạn cưỡng chế, thì cao thủ tiền bối còn sót lại của phái Hoa Sơn là Phong Thanh Dương xuất hiện. Sự xuất hiện của Phong Thanh Dương không chỉ cứu môn “Độc Cô cửu kiếm” thiên hạ vô song của ông, thậm chí không chỉ cứu cái đạo võ học tự nhiên, linh hoạt, cơ động, hoạt học hoạt dụng, mà còn dạy chàng hiểu mình, tự tin ở mình, phát huy tính năng động chủ quan của mình như thế nào. Bước ngoặt này trong cuộc đời Lệnh Hồ Xung hiển nhiên có ảnh hưởng quan trọng, không chỉ khiến chàng trở thành một cao thủ võ học kiểu mới, mà còn trở thành một con người mới tự chủ.

II

Cần phải nói rằng Lệnh Hồ Xung không phải là người có học vấn, không phải là một phần tử trí thức thật sự, càng không phải là một nhà tư tưởng. Cho nên chàng khi xảy ra không biết, thậm chí sau đó cũng không biết, hoặc giả có biết, nhưng không rõ, ba sự việc trên có ảnh hưởng thế nào tới chàng, ý nghĩa của chúng ta ra sao. Nhưng tác giả thì biết, và độc giả cũng cần phải biết. Ý tôi muốn nói, ba hành động sai trái của Lệnh Hồ Xung, tiếp đến ba sự việc quan trọng kia cần được nhận thức lý luận sâu xa.

Lệnh Hồ Xung uống rượu với dân ăn mày, xung đột với đệ tử phái Thanh Thành, quan hệ với kẻ xấu Điền Bá Quang, ba sai phạm ấy bảo là nhỏ cũng được, bảo là lớn cũng được. Bảo là nhỏ, tức là chàng ngang bướng gây sự, hành vi thiếu kiềm chế, tác phong tản mạn. Bảo là lớn, tức là chàng đã phạm sai lầm tự do chủ nghĩa, ảnh hưởng đến mặt trận thống nhất, thậm chí mơ hồ về lập trường đường lối đấu tranh. Nghiêm trọng hơn, hành vi tự do chủ nghĩa ấy của Lệnh Hồ Xung hiển nhiên xuất phát từ cá tính mạnh mẽ của chàng, mang tính chất cá nhân chủ nghĩa nặng nề, đây là vấn đề lớn về quan điểm tư tưởng và lập trường sống, từ đó mất đi tác dụng gương mẫu của một đại đệ tử của “Quân tử kiếm” Nhạc Bất Quần phái Hoa Sơn. Điều này vô cùng nguy hiểm.

Nên biết, trong thế giới mà Lệnh Hồ Xung đang sống, quan niệm giá trị chính thống là tập thể vĩnh viễn lớn hơn cá nhân, lợi ích của môn phái vĩnh viễn quan trọng hơn lợi ích cá nhân, lập trường tư tưởng và trận tuyến đấu tranh là thứ tuyệt đối không thể xem nhẹ. Lưu Chính Phong không làm việc gì sai, chỉ hợp tấu đàn sáo với trưởng lão Ma giáo, mà bị liên minh Ngũ Nhạc nghiêm khắc trừng phạt đến mức người chết nhà tan. Nói thực, trong các tin đồn trước khi chính thức xuất hiện, tác phong tự do tản mạn của Lệnh Hồ Xung và khí chất cá tính tuy đều lộ rõ, nhưng còn lâu mới tới mức tư tưởng, tinh thần, càng chưa đạt tới mức “chủ nghĩa”.

Nhưng sau khi Lệnh Hồ Xung chứng kiến cảnh tượng lịch sử Lưu Chính Phong và Khúc Dương bị sát hại, niềm tin của chàng vào trận tuyến đấu tranh của mình hiển nhiên bắt đầu bị lung lay. Tiếp đó, trong “thông đạo lịch sử” ở sơn động, nhìn thấy các dòng chữ, các hình vẽ, niềm tin cua chàng vào trận tuyến tập thể cơ hồ mất hẳn, nên chàng bị ốm nặng một trận. Nhưng Phong Thanh Dương xuất hiện, kịp thời giúp chàng xác lập một niềm tin hoàn toàn mới vào cuộc sống, phù hợp với bản chất cá tính yêu đời của chàng. Cũng có nghĩa là bắt đầu từ khi xuất hiện, quá trình tâm lý của chàng là một sự giải phóng tư tưởng, ý thức giác ngộ về bản thân mình đạt tới trình độ lý luận nhất định. Tôn chỉ và bản chất của “Độc Cô cửu kiếm” là tinh thần tự do cơ động linh hoạt và niềm tin chắc chắn vào cá tính bản thân. “Độc Cô”, tức là cô độc, biểu thị tinh thần cá nhân.

Tôi đã nói, Lệnh Hồ Xung không phải là tư tưởng gia, mà là một con người hành động. Chàng không có thứ do dự kiểu Hamlet “Làm hay không làm? Chết hay là sống?” cũng không giống đại đa số các phần tử trí thức Trung Quốc luôn luôn là người khổng lồ về tư tưởng, song về hành động lại là kẻ lùn. Biểu hiện cái đẹp đầu tiên của Lệnh Hồ Xung là chàng đã nắm chặt lấy cánh tay bè bạn mà Điền Bá Quang chìa về phía chàng. Hơn thế, khi sư phụ Nhạc Bất Quần ra lệnh bảo chàng đi giết Điền Bá Quang, thì chàng thà tự đâm mình một kiếm, đánh lừa sư phụ, chứ không nỡ giết người đã có lòng hối hận là Điền Bá Quang.

Ý nghĩa của việc này là ở chỗ, Lệnh Hồ Xung trước hết là người kết giao với Điền Bá Quang, tự giác tách cá nhân mình ra khỏi trận doanh mà chàng sở thuộc; thứ nữa, đây là lần đầu tiên chàng công khai hoài nghi và phản đối vị sư phụ “luôn luôn đúng đắn”: chàng không chấp hành mệnh lệnh của sư phụ là do hoài nghi, việc chàng đánh lừa sư phụ rõ ràng là một sự chống đối. Thứ nữa, chàng lúc ấy có lẽ cũng không lý giải, rằng hành động của mình thực chất là sự thách thức không tự giác đối với toàn bộ lý lẽ đạo đức cũ và cơ chế vận hành của nó. Đương nhiên việc đó cũng khiến Nhạc Bất Quần tức giận, về sau ông ta đuổi Lệnh Hồ Xung ra khỏi sư môn là khởi đầu từ đây.

Từ đây trở đi, Lệnh Hồ Xung thực ra tự giác hoặc không tự giác ly tâm ly đức với sư phụ, càng ngày càng xa dần qui phạm chính thống của dòng chủ lưu xã hội mà sư phụ đại diện. Tại Lạc Dương chàng kết giao với Lục Trúc ông và “cô cô” của ông ta, được nghe lại “khúc Tiếu ngạo giang hồ”, giống như kẻ lãng du tìm về cố hương tinh thần. Cũng chính vì thế, sau này trên gò Ngũ Bá, chàng không hề do dự uống rượu kết giao với các nhân vật không hề quen biết, nhưng rõ ràng họ là những người thuộc về tam giáo cửu lưu. Không chỉ uống rượu, Lệnh Hồ Xung còn cùng với họ đưa ra những tuyên ngôn kết giao, mà xét về mặt tinh thần thì đó là tín hiệu công khai thách thức và chống đối Nhạc Bất Quần cùng phái Hoa Sơn chính tông chính thống. Có thể bản thân Lệnh Hồ Xung còn chưa ý thức được ý nghĩa thực sự của hành vi mình làm, nhưng Nhạc Bất Quần lão luyện thì rõ ngay, nên không chút do dự thông báo võ lâm thiên hạ biết ông ta chính thức khai trừ Lệnh Hồ Xung ra khỏi sư môn.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

43
NHẠC BẤT QUẦN
Quân tử hai mặt


Nói đến các nhân vật trong bộ tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ, tất nhiên không thể không nhắc tới chưởng môn phái Hoa Sơn “Quân tử kiếm” Nhạc Bất Quần, không phải vì ông ta là sư phụ của nhân vật chính, mà vì tác phong và tính cách của nhân vật này là một thể thống nhất, có tính điển hình nhất định. Cứ theo lời tác giả viết thêm ở cuối sách, thì “Tại các cuộc tranh cãi Ở Quốc hội Việt Nam Cộng hoà, các nghị sĩ thường chỉ trích đối phương là Nhạc Bất Quần (nguỵ quân tử) hoặc Tả Lãnh Thiền (kẻ có mưu đồ xác lập bá quyền)”. (XemTiếu ngạo giang hồ).

Đủ thấy người này đã nổi tiếng ở nước ngoài rất sớm, như một danh từ chung chỉ một loại nhân vật chính trị. Có điều tôi cảm thấy, trong một bộ tiểu thuyết võ hiệp “ý đồ khắc hoạ một hiện tượng rất phổ biến trong đời sống chính từ ba ngàn năm của Trung Quốc” thì không dễ chút nào. Nói thực, trong Tiếu ngạo giang hồ, số hình tượng nhân vật có chiều sâu nhân văn hoàn toàn không nhiều. Nguyên nhân e rằng chính vì tác giả muốn tả “hiện tượng phổ biến”, nên không thể không bỏ qua hoặc hi sinh việc khai thác tính cách của cá nhân. Kết quả là xuất hiện một số nhân vật loại hình hoá, bề ngoài xem ra hình tượng cũng có vẻ sinh động, nhưng tiến hành xem xét kỹ hình tượng nhân vật, thì thấy chẳng qua đấy chỉ là cái phù điêu hình tượng khái niệm chính trị rất mỏng và nông, trong đó vết tích giả tạo còn lộ quá rõ. Nhạc Bất Quần là một thứ phù điêu hình tượng “nổi bật” kiểu đó.

I

Xây dựng hình tượng Nhạc Bất Quần, chỗ đáng nói là tác giả định vị tính cách của y, để chúng ta đi cùng đường với nhân vật chính trong sách, dần dần phát hiện bên trong cái vẻ ngoài nghiêm trang đạo mạo “Quân tử kiếm” lừng danh võ lâm là một bộ mặt khác cực kỳ đáng sợ. Nhìn bề ngoài, người này đoan trang, chính khí lẫm liệt, hễ mở miệng toàn những là giang hồ hiệp nghĩa, văn chương đạo đức, xử thế vì người, cứ y như một người bảo vệ chính nghĩa công bằng trong võ lâm; nhưng bên trong thì nuôi dã tâm,suy mưu tính kế, hễ thời cơ chín muồi thì sẽ bộc lộ hết chân tướng nguy hiểm. Ví dụ, “Tịch Tà kiếm phổ” của nhà họ Lâm ở Phúc Kiến, Nhạc Bất Quần là người có mưu đồ sớm nhất, dụng tâm sâu nhất, thu được kết quả hiện thực nhất.

So với y, chưởng môn phái Thanh Thành Dư Thương Hải, rầm rầm rộ rộ chế tạo cái hoạ tiêu diệt Phước Oai tiêu cục, chẳng đáng là gì. Trong việc sáp nhập Ngũ Nhạc kiếm phái, Nhạc Bất Quần là người suy tính chu đáo nhất, thủ đoạn ghê gớm nhất. Tả Lãnh Thiền dã tâm bá đạo, diệt trừ nhiều người, làm cho võ lâm chính phái người người oán giận, không ngờ rốt cuộc chỉ dọn cỗ sẵn cho Nhạc Bất Quần đến làm ngư ông thủ lợi. Còn về chuyện Nhạc Bất Quần giả dối, miệng mật lòng đao, vu hại đồ đệ Lệnh Hồ Xung của mình, đánh lừa con gái Nhạc Linh San của mình, hãm hại con rể Lâm Bình Chi của mình, lừa dối chính vợ mình, thì khỏi cần nói nữa. Như thế là đã phá vỡ giới hạn phân minh chính tà vốn có trong tiểu thuyết võ hiệp, trả lại chân tướng lịch sử “đấu đá vô nghĩa” trong phạm vi chính trị và đấu tranh chính trị.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, địa vị của Nhạc Bất Quần được xếp vào loại “chính trong số chính”: y không chỉ là chưởng môn phái Hoa Sơn chính phái, mà còn là truyền nhân chính tông của chi Khí tông trong phái Hoa Sơn. So với tổ chức tà giáo rõ rệt như Nhật nguyệt thần giáo, thì phái Hoa Sơn và toàn bộ liên minh Ngũ Nhạc đương nhiên là tổ chức chính phái. Còn so với “Kiếm tông” chuyên đi theo bàng môn tả đạo, gọi là “tà trong số chính”, thì Khí tông phái Hoa Sơn hiển nhiên là chính tông chính phái, người đứng đầu của nó Nhạc Bất Quần đương nhiên là điển phạm “chính trong số chính”. Nhưng về sau chúng ta phát hiện phạm vi chính trị giữa hai chi Khí tông và Kiếm tông phái Hoa Sơn chẳng qua chỉ là một sự tranh chấp thuần tuý “học thuật”.

Xung đột chính trị giữa liên minh Ngũ Nhạc và Nhật nguyệt thần giáo rốt cuộc cũng chỉ khác nhau về ngọn cờ. Cuối cùng, Nhạc Bất Quần “chính trong số chính” và Đông Phương Bất Bại “tà trong số tà”, cùng luyện một loại võ công giống nhau, chẳng qua một bên gọi là “Tịch Tà kiếm phổ”, bên kia gọi là “Quì Hoa bảo điển” mà thôi. Ở một quốc gia dân chủ hiện đại, mọi công dân đều cảm thấy, cái phát hiện “kinh người” rằng trong mọi đảng phái chính trị khác nhau vừa có người tốt, vừa có kẻ xấu, thực ra chỉ là một thứ kiến thức thường thức hết sức đơn giản. Nhưng tôi tán thưởng cách thiết kế này của tác giả, bởi vì trong một xã hội chuyên chế hàng ngàn năm, người ta vẫn không ngừng phân định các đảng phái chính trị khác nhau thành địch ta rõ ràng, các thế lực chính trị khác nhau bị người ta bôi vẽ thuốc hoá trang, đạo đức hoá phe ta và yêu ma hoá phe địch.

Thuốc tô vẽ cứ ngày càng nhiều, dĩ nhiên làm cho lịch sử chính trị bị hoá trang đạo đức hoá dày tới mức hậu nhân không tài gì rửa sạch. Tiếu ngạo giang hồ chỉ hơi gột rửa, đã khiến mọi người quá đỗi kinh ngạc. Khi Nhạc Bất Quần giảng cho đệ tử nghe lịch sử “đấu tranh đường lối” giữa hai chi Khí tông và Kiếm tông trong phái Hoa Sơn, ai tỏ vẻ nghi ngờ thì Nhạc Bất Quần lấy cái chết ra đe doạ cảnh cáo. Khi đó đương nhiên chúng ta càng thêm kinh ngạc. Sau đó ta thấy xuất hiện cục diện kỳ dị “kiếm pháp của đệ tử Khí tông cao, mà nội lực của sư thúc Kiếm tông thì mạnh” khi Lệnh Hồ Xung tỷ võ với sư thúc Phong Bất Bình, thì có người thấy tức cười hoặc đáng suy nghĩ. Khi thấy Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần tiên sinh hoá ra là một đại nguỵ quân tử, mọi việc làm chẳng khác gì Tả Lãnh Thiền, Nhậm Ngã Hành, thì ngay người ngốc nghếch mấy cũng sẽ hiểu rằng trong lĩnh vực chính trị, thật sự không thể căn cứ ngọn cờ, khẩu hiệu của một cá nhân, một đảng phái để phán đoán đúng sai công tội đối với lịch sử.

II

Nhạc Bất Quần là một gã nguỵ quân tử, chuyện đó đã rõ ràng. Vấn đề là có nên, có nhất thiết coi y thành kẻ nguỵ quân tử, xấu xa trăm phần trăm hay không? Ngoại hiệu “Quân tử kiếm” của Nhạc Bất Quần có phải là hoàn toàn lừa người dối đời hay không? Trong cuộc đời cá nhân này không hề có biểu hiện quân tử chân chính hay sao? Ở đây không chỉ có vấn đề quan niệm sáng tác của tác giả, mà còn là vấn đề phương pháp đọc sách của độc giả. Ý tôi muốn nói, trong ý thức văn hoá của người Trung Quốc, luôn luôn thiếu một sự hiểu sâu về tình người và sự phức tạp của con người. Cái mô hình phán xét đạo đức cố định lâu dài làm cho người Trung Quốc không thể hiểu nổi cách tự ngã nhận thức của người phương Tây “con người vừa là thiên sứ, vừa là ma quỉ”, mà là hài lòng với ranh giới đạo đức trắng đen phân minh.

Nếu chỉ căn cứ vào kết cục, Nhạc Bất Quần hiển nhiên là kẻ có dã tâm, đầy mưu mô, nguỵ quân tử, thủ đoạn đê hèn hơn hẳn các nhân vật bá đạo như Dư Thương Hải, Tả Lãnh Thiền, đã đạt được mục đích trở thành tổng chưởng môn Ngũ Nhạc kiếm phái. Hơn nữa, từ kết quả xét động cơ, Nhạc Bất Quần hiển nhiên trong việc tranh bá võ lâm đã có mưu đồ từ sớm, trước sau suy tính kỹ càng, nhưng bề ngoài làm như không có gì. Bằng chứng quan trọng nhất là trước khi phái Thanh Thành tiến đánh Phước Uy tiêu cục, Nhạc Bất Quần đã phái đệ tử của y là Lao Đức Nặc và con gái y là Nhạc Linh San đến Phúc Châu trinh sát. Điều đó chứng tỏ Nhạc Bất Quần từ lâu đã thèm muốn “Tịch Tà kiếm phổ” của nhà họ Lâm, sau nhận Lâm Bình Chi làm đệ tử, lại tới Phúc Châu, rồi chọn Lâm Bình Chi làm con rể, đều không phải là chuyện tình cờ.

Nhậm Ngã Hành trong tử lao ở Tây Hồtừng nói với Lệnh Hồ Xung về Nhạc Bất Quần thế này : “Con người ấy hết sức giả dối, chỉ tiếc ta một là quá bận, hai là thất thủ bị ám toán, nếu không ta đã lột bộ mặt giả của hắn đi rồi”. (Xem Tiếu ngạo giang hồ). Nhậm Ngã Hành tuy không phải là người tử tế, song lời nhận xét của y đáng tin, y có con mắt tinh đời. Còn Lệnh Hồ Xung nhìn lầm về Nhạc Bất Quần, Ninh Trung Tắc vợ y nhìn lầm về y, phương trượng chùa Thiếu Lâm Phương Chứng đại sư và Xung Hư đạo trưởng phái Võ Đang cũng nhìn lầm về y; thậm chí ngay Tả Lãnh Thiền sớm có phát giác và luôn luôn đề phòng, cuối cùng vẫn mắc lừa y, hầu như mọi người trong thiên hạ đều bị Nhạc Bất Quần đánh lừa.

Tất cả đều chứng tỏ Nhạc Bất Quần là một nguỵ quân tử trăm phần trăm. Nhưng như vậy thì tính cách của nhân vật Nhạc Bất Quần sẽ mất tính phong phú, thậm chí ở mức độ nhất định sẽ mất đi tính chân thực. Bảo Lệnh Hồ Xung lương thiện vô tri mắc lừa Nhạc Bất Quần thì có lý, chứ bảo Ninh Trung Tắc làm vợ y mấy chục năm mà toàn mắc lừa Nhạc Bất Quần thì có phần khó tin; bảo Phương Chứng đại sư từ tâm hiền hậu mắc lừa Nhạc Bất Quần thì khả dĩ, chứ bảo Xung Hư đạo trưởng khôn ngoan hơn người cũng mắc lừa Nhạc Bất Quần thì hơi quá. Hơn nữa, xét về mặt lôgich, ngoại hiệu “Quân tử kiếm” của Nhạc Bất Quần vốn có từ lâu, không phải do y tự đặt ra, tối thiểu cũng phải có chút danh phó kỳ thực. Cuối cùng, và đây là điều quan trọng nhất, về lẽ thường của tính người, Nhạc Bất Quần cũng không phải luôn luôn giả dối.

Thứ nhất, Nhạc Bất Quần để đạt mục đích nào đó không thể cho ai biết, phải giả dối, đương nhiên có thể lý giải; nhưng nếu không có mục đích gì, liệu y có lấy giả dối làm vui hay không? Thứ hai, cứ coi như Nhạc Bất Quần quen giả dối trong các trường hợp công khai, vậy trong sinh hoạt riêng tư y có giả dối hay không? Ví dụ, khi Nhạc Bất Quần giảng cho đệ tử về cuộc tranh chấp giữa Kiếm tông với Khí tông phái Hoa Sơn, nói về niềm tin của y đối với Khí tông, chắc chắn y không giả dối. Rồi việc Nhạc Bất Quần khai trừ Lệnh Hồ Xung khỏi sư môn, bảo là vì chàng kết giao với tà đồ, cũng không phải là y giả dối.

Thực ra, trong tính cách và hành vi của Nhạc Bất Quần, ngoài sự giả dối, lừa đảo, còn có nhân tố hoặc biểu hiện phức tạp hơn. Các nhân tố như tâm kế, trí tuệ, quyền mưu của y thì đâu có phân ra chân nguỵ. Điều quan trọng đương nhiên còn là hoài bão chính trị, hoặc dã tâm chính trị của y. Nếu không có hoài bão cao xa, mục tiêu lâu dài, Nhạc Bất Quần đâu cần hao phí tâm cơ; nếu không thế, y đã chẳng từ quân tử biến thành nguỵ quân tử, cuối cùng thân bại danh liệt.

III

Tôi bàn vấn đề Nhạc Bất Quần là chân quân tử hay nguỵ quân tử, không phải để biện hộ, bênh vực cho Nhạc Bất Quần, mà chỉ để nhấn mạnh tính phức tạp của nhân tố tâm lý cá tính nhân vật và tính xã hội của con người. Ý nghĩa thật sự của hình tượng Nhạc Bất Quần thực ra còn ở chỗ y đại biểu cho một lý tưởng nhân cách đạo đức truyền thống, hơn nữa y đại biểu cho một lý tưởng cao nhất về chính trị truyền thống, tức là chính trị quân tử, cũng tức là “vương đạo” nội thánh ngoại vương. Đến đây nảy ra vấn đề mới, đạo đức quân tử là một thứ tu dưỡng nhân cách hoặc phong độ cá tính; hay đạo đức quân tử là một thứ vốn liếng chính trị hoặc quan điểm chính trị; hai thứ đó vừa có giá trị tích cực, vừa có giá trị tiêu cực; hơn nữa cả hai thứ đó vừa có tính chân thực nhất định, vừa có tính giả dối nhất định.

Điều này thể hiện hết sức rõ ràng qua hình tượng Nhạc Bất Quần. Ở mức độ nào đó, tôi tin rằng ba chữ “Quân tử kiếm” của Nhạc Bất Quần có tính chân thực nhất định. Cá nhân Nhạc Bất Quần tác phong nghiêm cẩn, đồng thời y còn đòi hỏi đệ tử cũng phải có hành vi gương mẫu, điều này thiết tưởng cũng không có gì đáng ngờ. Có điều là cái tác phong quân tử và hành vi gương mẫu ấy bị đẩy tới mức cực đoan, hạn chế nghiêm trọng sự phát triển cá tính của bản thân y và đệ tử của y, đè nén nghiêm trọng tính người, dẫn đến tác dụng phụ là “vật cực tất phản” (tức nước vỡ bờ).

Phải nói đấy là tác dụng phụ tất nhiên của truyền thống lễ giáo quân tử; cái tác dụng phụ này làm cho hậu nhân không dám tin vào bất cứ thứ lễ giáo, quân tử qui tắc đạo đức nào nữa; cuối cùng thành ra mất hết đạo đức trên qui mô lớn. Nguyên nhân thực ra không do bản thân lễ giáo quân tử, mà là do cái mô hình tư duy và quan niệm đạo đức đơn giản hoá mang tính truyền thống của dân tộc Trung Hoa: hoặc là hoàn toàn đúng, hoặc là hoàn toàn sai, hoặc là hoàn toàn thật, hoặc là hoàn toàn giả. Kết quả là trên một phạm vi rộng lớn, bề ngoài quân tử, bên trong tiểu nhân, ai ai cũng đều thành Nhạc Bất Quần. Trong lĩnh vực chính trị truyền thống, như được miêu tả trong Tiếu ngạo giang hồ, tuy các thế lực chính trị chồng chéo phức tạp, song quan điểm và hành động chính trị của họ chẳng qua chỉ thuộc hai loại, một là bá đạo hai gọi là “vương đạo”.

Bắt dầu từ thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đã trách đời lắm bá đạo, ít “vương đạo” , Đến thời đại Nhạc Bất Quần, tình hình vẫn thế. Dư Thương Hải, Tả Lãnh Thiền, Đông Phương Bất Bại, Nhậm Ngã Hành, thậm chí cả lãnh tụ mới phe Kiếm tông phái Hoa Sơn Phong Bất Bình cũng toàn là nhân vật bá đạo, đều muốn dùng võ công chinh phục địch thủ, tiến tới chinh phục thế giới. Ngược lại, Nhạc Bất Quần là người duy nhất giương cao ngọn cờ “vươngđạo”, như thế kể cũng quí vì ít có. Bao nhiêu năm nay chúng ta vốn tin lý tưởng “vương đạo”, vốn luôn cho rằng “vương đạo” dù thế nào cũng tốt hơn bá đạo. Nhưng chuyện Nhạc Bất Quần giáng một gậy vào đầu chúng ta, khiến chúng ta hoàn toàn tuyệt vọng, - hoặc hoàn toàn giác ngộ,- đối với chính trị truyền thống.

Thứ nhất, khoan nói Nhạc Bất Quần ngay từ đầu đã lừa dối, tối thiểu khi y lấy thân phận quân tử tham gia tranh chấp bá quyền võ lâm, y đã hoàn toàn giả đối,“vương đạo” há có thể do vũ lực đem lại? Thứ hai, bảo Nhạc Bất Quần lấy “vương đạo” làm mục tiêu phấn đấu thì không đúng, phải nói là y lấy đó làm ngọn cờ, khẩu hiệu, mà dưới ngọn cờ ấy, y có thể giở mọi thủ đoạn tàn bạo. Tức là “vương đạo” biến thành một thứ nguỵ trang đẹp đẽ khôn khéo cho bản chất bá đạo.Tôi tôn trọng giá trị đạo đức, nhưng không thích Nhạc Bất Quần, lý do rất đơn giản, theo tôi, “vương đạo” và bá đạo chẳng qua chỉ là hai mặt của một vật là chính trị truyền thống. Mỗi cá nhân dùng võ lực đoạt lấy chính quyền đều là bá đạo chủ nghĩa, còn sau khi đoạt được chính quyền thì trở thành “vương đạo” chủ nghĩa.

Tiếp đó, sau lưng mỗi chính quyền “vương đạo” thực ra đều dựa trên bá đạo vũ lực. Ở ý nghĩa nhất định mà nói, “vương đạo” còn đáng sợ hơn bá đạo, bởi vì cái sự nguy hại của bá đạo ai ai cũng thấy, cũng biết; còn sự nguy hại của “vương đạo” khiến cho người ta bất tri bất giác, hoặc có biết cũng không thể nói ra. Như thế có phải là bá đạo ghê gớm nhất hay chưa, chúng ta còn cần đi sâu nghiên cứu phân biệt.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

44
NHẬM NGÃ HÀNH
Đi chẳng được xa


Nhậm Ngã Hành và Bạch Tự Tại trong Hiệp khách hành giống như hai anh em khác họ, đều có căn bệnh điển hình tự mình bành trướng. Cái khác nhau giữa hai người chỉ là Bạch Tự Tại si tâm vọng tưởng, còn Nhậm Ngã Hành thì tức cảnh sinh tình. Tuy bảo đều là tâm bệnh, nhưng hoàn cảnh khác nhau, bệnh trạng và ảnh hưởng cũng khác nhau. Cái khác căn bản nhất giữa hai người là, Bạch Tự Tại chẳng qua chỉ là một cường hào võ lâm bình thường, còn Nhậm Ngã Hành thì muốn tranh bá võ lâm, hoặc là một lãnh tụ chính trị có hoài bão bất phàm. Nhậm Ngã Hành dĩ nhiên cũng là danh từ chung, chỉ một loại nhân vật chính trị.

I

Sự định vị hình tượng Nhậm Ngã Hành không có gì là đặc biệt thới mẻ trong tiểu thuyết lịch sử chính trị, nhưng trong tiểu thuyết võ hiệp, thì phải được coi là hết sức mới mẻ. Nói đơn giản, tác giả đặt nhân vật này vào vị trí trung gian giữa người hùng võ công và lãnh tụ chính trị, đã không tả y, người lãnh đạo một tổ chức tà giáo, xấu xa hơn so với nhân vật chính phái, cũng không tả y là người tốt hơn Đông Phương Bất Bại, kẻ bức hại y để cướp ngôi giáo chủ của y. Nhậm Ngã Hành xuất hiện lần đầu trong bộ tiểu thuyết là trong địa lao tăm tối ở Tây Hồ, Lệnh Hồ Xung không biết chân tướng đã hoàn toàn đồng tình với lão ta. Ta thấy dù bị nhốt dưới địa lao tăm tối, ẩm thấp, bị đẩy xuống đáy cuộc sống, Nhậm Ngã Hành vẫn là một nhân vật võ công cao cường, kiến thức trác việt, hào khí hơn người.

Giờ phút ấy tôi tin rằng đa số độc giả cũng hoàn toàn đồng tình với lão ta, bất giác còn kính nể lão ta. Đến khi lão ta vượt ngục thành công, do Lệnh Hồ Xung vô ý giúp đỡ trở về Mai trang, thì chúng ta cũng như Lệnh Hồ Xung, mới biết người ấy vốn là vị tiền giáo chủ “Nhật nguyệt thần giáo” đáng sợ Nhậm Ngã Hành. Theo qui tắc của tiểu thuyết võ hiệp, đã là giáo chủ tà giáo, đối địch với chính phái, thì đương nhiên không thể là người tốt. Nhưng trong bộ tiểu thuyết này, tác giả cố ý phá bỏ qui tắc ấy, không tả Nhậm Ngã Hành là kẻ xấu xa hơn so với nhân vật chính phái, ví dụ biểu hiện của Nhậm Ngã Hành ở trong chùa Thiếu Lâm. Trước hết, mới thoát ngục không lâu Nhậm Ngã Hành đã đi cứu con gái y là Nhậm Doanh Doanh, chứng tỏ tình cha con rất sâu đậm.Thứ nữa, khi nói đến ba cao nhân đương thời mà mình thán phục, mọi người không ngờ Nhậm Ngã Hành nhắc đến cả kẻ thù không đội trời chung là Đông Phương Bất Bại và xếp kẻ đó lên hàng thứ nhất, thật là một tâm hồn phóng khoáng, hào khí xung thiên.

Thứ nữa, trong tình hình địch đông ta ít, Nhậm Ngã Hành không chút lo sợ, mà định mưu đâu đấy mới hành động, ba trận quyết thắng, thể hiện võ công, tài trí hơn người, khiến ai nấy bội phục. Nhậm Ngã Hành tuy không nhân từ như Phương Chứng đại sư, song khí độ của lão ta chẳng thua gì các nhân vật còn lại bên phía đối phương. Tuy lão ta hoành hành bá đạo, nhưng trong ngoài là một, ví dụ lão công khai tuyên bố : “Họ của ta không hay, mà tên cũng không tốt. Gọi là “Nhậm Ngã Hành”, thì cứ để cho cái tính của mình thích làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi”. (Xem Tiếungạo giang hồ). Mặt khác, là người bị hại và kẻ tử thù của giáo chủ hiện nhiệm Nhật nguyệt thần giáo, Đông Phương Bất Bại, theo qui củ thông thường của tiểu thuyết võ hiệp, nếu Đông Phương Bất Bại là kẻ không tốt, thì người bị hại là Nhậm Ngã Hành sẽ là anh hùng gặp nạn.

Thực tế tác giả lại không tả như vậy. Chúng ta thấy vị tiền giáo chủ sau khi bị giam cầm, trở lại ngôi vị thành công, cũng chẳng nhân từ gì hơn so với địch thủ là Đông Phương Bất Bại. Ví dụ điển hình : lúc sắp chết, Đông Phương Bất Bại chịu nhận thua, chỉ xin Nhậm Ngã Hành nể hắn từng đối xử tử tế với con gái Nhậm Doanh Doanh của y, mà tha mạng cho Dương Liên Đình, ái đệ của hắn, thì Nhậm Ngã Hành trả lời : “Ta sẽ đem nó phanh thây làm muôn mảnh, lột da lăng trì cho đến chết, hôm nay cắt một ngón tay, ngày mai chặt nửa ngón chân nó”. (Xem Tiếu ngạo giang hồ). Kết quả làm cho Đông Phương Bất Bại như con thú cùng đường, vùng dậy đâm mù con mắt bên phải của Nhậm Ngã Hành, từ đây Nhậm Ngã Hành chỉ còn một mắt để nhìn thế giới, sẽ ngày càng thiên kiến, ngày càng tàn bạo, ngày càng khó hiểu. Chuyện này cứ như chuyện ngụ ngôn.

Đương nhiên, việc này cũng dễ hiểu. Nhậm Ngã Hành vốn đã hành sự tuỳ hứng, sau khi bị ám toán chính trị, bị nhốt vào tử lao, nay thoát ra trở về, giành lại quyền bính, báo thù rửa hận, tất sẽ giết sạch đồng đảng của Đông Phương Bất Bại, nên đối với Dương Liên Đình là nhân vật chẳng có gì quan trọng, Nhậm Ngã Hành cũng hạ độc thủ. Kẻ tiền nhiệm và hậu nhiệm của Đông Phương Bất Bại là thế đó.

II

Hình tượng Nhậm Ngã Hành sau khi trở lại Hắc Mộc nhai, - cao điểm khống chế cuộc sống, phát sinh thay đổi mạnh mẽ. Nếu nói địa lao ở TâyHồ, Hàng Châu là điểm thấp nhất, Hắc Mộc nhai là điểm cao nhất trong cuộc đời của hình tượng nhân vật này, thì sau khi đạt cao điểm khống chế, nhân cách đức hạnh của nhân vật ấy sẽ nhanh chóng tuột xuống điểm thấp nhất. Chỉ khác là trước kia Nhậm Ngã Hành tuy vọng động tuỳ tiện, song vẫn còn giữ bản sắc người hùng chốn giang hồ; còn bây giờ, sau khi trở lại Hắc Mộc nhai, y chính thức đi vào quĩ đạo lịch sử của thể chế chuyên chế, dẫn tới hủ bại truỵ lạc. Vài chi tiết dưới đây có thể chứng minh điều đó.

Chi tiết thứ nhất, sau khi Nhậm Ngã Hành giành lại quyền bính, lập tức có người đến đầu hàng chúc tụng, theo lệ cũ từ hồi Đông Phương Bất Bại, kẻ đó hô to “Giáo chủ thiên thu vạn đại, nhất thống giang hồ”, thì Nhậm Ngã Hành cười, chửi : “Nói nhăng nói cuội! Cái gì mà thiên thu vạn đại, nhất thống giang hồ? Đột nhiên lão cảm thấy, nếu quả thật có thể thiên thu vạn đại, nhất thống giang hồ, thì đúng là sướng nhất trần đời, lão không nhịn được, bèn cười ha hả. Tràng cười này mới thực hả hê, đắc chí hết chỗ nói”. (Xem Tiếu ngạo giang hồ). Lúc này tâm lý của Nhậm Ngã Hành bắt đầu có thay đổi rất nhỏ , nhưng rất quan trọng.

Chi tiết thứ hai, tiếp liền đoạn trên, khi các giáo chúng dựa theo lệ cũ, đến chúc mừng tân giáo chủ, cùng quì xuống, thì thoạt tiên Nhậm Ngã Hành còn chưa quen : “Trước đây Nhậm Ngã Hành làm giáo chủ, vẫn xưng huynh gọi đệ với giáo chúng thuộc hạ, lúc gặp nhau chỉ khoanh tay thi lễ mà thôi. Nay thấy mọi người quì xuống, lão bèn đứng dậy xua tay, nói : không cần ...Nhưng lão bỗng nghĩ : “Không đủ oai thì mọi người không phục, năm xưa ngôi giáo chủ của ta bị gian nhân cướp đoạt là vì ta đối đãi quá thân thiện với mọi người. Nghi lễ này Đông Phương Bất Bại đã đặt ra, ta cũng không cần bãi bỏ”. Lão không nói tiếp hai chữ ‘đa lễ’ nữa, đoạn ngồi xuống. Không lâu, lại có một tốp người vào điện tham kiến, khi họ quì vái lão lão cũng chẳng buồn đứng dậy, chỉ gật đầu. (Xem Tiếu ngạo giang hồ).

Từ lúc bắt đầu không đứng lên, Nhậm Ngã Hành không còn hoàn toàn là Nhậm “Ngã” Hành, mà bất tri bất giác thành Nhậm “Lễ” Hành, chịu sự chi phối của hoàn cảnh xã hội và qui luật lịch sử. Chi tiết thứ ba, trên đỉnh Hoa Sơn, cũng là đỉnh cao nhất trong cuộc đời Nhậm Ngã Hành, đương nhiên không thiếu gì lời ca tụng nhiệt liệt của giáo chúng. Có kẻ bốc đồng, nói Gia Cát Lượng, Quan Vân Trường, Khổng Phu Tử cũng không bằng thánh giáo chủ Nhậm Ngã Hành. Lúc ấy Nhậm Ngã Hành nghe giáo chúng thuộc hạ nịnh hót như sóng dậy, tuy có những lời quá hoang đường, nhưng nghe rất êm tai, nghĩ : “Họ nói thế kỳ thực cũng đúng.

Gia Cát Lượng võ công cố nhiên không địch nổi ta, sáu lần ra Kỳ Sơn mà không lập được công trạng gì, nói về mưu trí, không lẽ bằng nổi ta ư? Quan Vân Trường qua năm cửa ải, chém sáu tướng, quả là thần dũng, nhưng nếu đơn đả độc đấu với ta, làm sao thắng nổi Hấp tinh đại pháp của ta? Khổng Phu Tử thì đệ tử không quá ba ngàn người, trong khi giáo chúng của ta đâu phải chỉ có ba vạn? Khổng Phu Tử thống lĩnh ba ngàn đệ tử hớt hải chạy đông chạy tây, bị cạn lương ở đất Bái, bó tay chịu chết. Ta thì thống lĩnh mấy vạn giáo chúng, tung hoành thiên hạ, muốn sao được vậy, chẳng ai ngăn nổi. Tài trí của Khổng Phu Tử mà đem so với Nhậm Ngã Hành ta thì còn kém xa...” (Xem Tiếu ngạo giang hồ).

Đến lúc này, dù Nhậm Ngã Hành còn chút lý trí để cảm thấy những lời nịnh hót là hoang đường, song tiếng hoan hô dậy đất cũng khiến y bị lây nhiễm, làm gì chẳng có ảo giác “Thiên địa chi gian, duy ngã độc tôn” (Khắp thiên hạ, chỉ có ta tài giỏi). Mấy chi tiết trên chứng tỏ, chế độ chuyên chế cực quyền tất nhiên đẻ ra sự a dua nịnh hót, sự ca tụng công đức trên qui mô lớn, sự thổi phồng đến mức phổ biến. Đồng thời các nghi lễ ca tụng, các phong trào tâng bốc, những lời lẽ hoang đường của quần chúng cũng từng giọt từng giọt thấm vào lý trí của nhà lãnh đạo, khiến y càng thêm chuyên chế độc tài, càng tự cho mình là đúng, càng hủ hoá truỵ lạc. Cái đó vốn chỉ là “hiệu ứng tà giáo”, nhưng do lặp đi lặp lại thành một thể chế văn hoá lịch sử thì sẽ biến thành một thứ ở bên bãi phân lâu ngày không ngửi thấy mùi thối, thành một thứ qui luật văn hoá-lịch sử. Dưới tác động của qui luật đó, người nói đương nhiên không biết ngượng, kẻ nghe càng không biết ngượng. Tuy nói Nhậm Ngã Hành suy cho cùng là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử, nhưng sự bành trướng tự ngã và biến dạng tâm lý của y không hoàn toàn là sản phẩm của hoàn cảnh. Về điểm này, trong sách có một chi tiết đầy ý nghĩa.

Khi Đông Phương Bất Bại chết rồi, Nhậm Ngã Hành dương dương tự đắc lục trong xác Đông Phương Bất Bại, lấy ra cuốn sách Quì hoa bảo điển, phóng cước đá vào xác Đông Phương Bất Bại một cái nữa, rồi nói : “Dù ngươi gian trá như quỉ, cũng không ngờ được dụng ý của lão phu khi truyền Quì hoa bảo điển cho ngươi. Dã tâm và sự lộng quyền lồ lộ của ngươi, lão phu há không nhận ra? Ha ha, ha ha!” (Xem Tiếu ngạo giang hồ). Y thừa biết mình đã luyện được đại pháp của hoá công, không cần luyện Quì hoa bảo điển nữa, thế mà lại bảo y cố ý để cho đối phương mắc lừa; thừa biết mình hoàn toàn không đề phòng Đông Phương Bất Bại, nên bị đối phương cướp mất quyền bính và đày xuống địa lao, thế mà lại bảo y đã phát giác từ sớm, để Lệnh Hồ Xung ở bên cạnh cứ tưởng là thật.

Chẳng trách lịch sử là do người chiến thắng viết nên; Nhậm Ngã Hành đã trở lại nắm quyền, Đông Phương Bất Bại hoàn toàn thất bại rồi, Nhậm Ngã Hành tự tổng kết thì ai mà chẳng tin ? Thực ra, người tinh ý sẽ nhận biết, câu nói của Nhậm Ngã Hành chứng tỏ y đã bắt đầu hư cấu lịch sử theo ý mình, tự tô điểm cho mình, đợi đến lúc y chính thức lên ngôi giáo chủ, nghe giáo chúng a dua nịnh bợ, tâng bốc, Nhậm Ngã Hành sẽ còn biểu hiện thế nào, không nói cũng đoán trước được.

III

Điều rất có ý nghĩa là Nhậm Ngã Hành trên đỉnh Hoa Sơn đang dương dương tự đắc, quyết định quét sạch Ngũ Nhạc kiếm phái, diệt trừ Thiếu Lâm, Võ Đang, để nhất thống giang hồ, hoàn thành bá nghiệp, đang thích chí tiếp nhận sự sùng bái của vạn chúng, thì vị giáo chủ vĩ đại mà Gia Cát Lượng, Quan Vân Trường, Khổng Phu Tử cũng không sánh bằng ấy, lại không nói xong được chữ cuối cùng trong câu “ước gì thiên thu vạn đại, vĩnh viễn như ...” đã ngoẹo đầu, ngất lịm, rồi tắt thở. Lúc đó đại lễ chưa xong, hai chữ “hôm nay” chưa nói ra, khiến ước mong của Nhậm Ngã Hành vĩnh viễn không thành, mà còn có ý trào phúng.

Trong Ngũ Nhạc (năm núi lớn) của Trung Quốc, cổ nhân ví Hoa Sơn như là kinh “Xuân Thu” trong ngũ kinh, tượng trưng danh sơn văn hoá của lịch sử dân tộc cuối cùng là nhân chứng cho việc Nhậm Ngã Hành không thể đi xa. Kết cục đó đương nhiên lại là một ngụ ngôn. Mọi con người phàm tục đều không thể thắng nổi qui luật tự nhiên sinh lão bệnh tử, Nhậm Ngã Hành cũng như mọi đế vương, giáo chủ cũng không phải là ngoại lệ. Có điều, Nhậm Ngã Hành chết không phải vì trúng gió, mà là chết vì sự bành trướng nội lực và sự cắn trả, lại thêm một ngụ ý văn hoá. Môn võ công cao nhất của Nhậm Ngã Hành là Hoá công đại pháp, tức là có thể tuỳ ý biến nội lực của người khác thành của mình.

Thứ võ công tà môn này đã tạo nên Nhậm Ngã Hành, cuối cùng cũng huỷ diệt Nhậm Ngã Hành, không chỉ là lẽ công bằng trong trời đất, mà còn cảnh tỉnh con người. Người trong võ lâm sở dĩ căm thù và kinh sợ Hoá công đại pháp, bởi vì môn võ công này là một thứ trộm cướp cực kỳ tệ hại đối với công sức của mọi người. Có điều họ không nghĩ rằng thực ra Hoá công đại pháp còn có một cách sử dụng khác, ấy là khi lên làm giáo chủ, Nhậm Ngã Hành có thể tuỳ thích biến hoá trí tuệ , sức mạnh của tập thể thành vật sở hữu của y, thành tư tưởng lý luận, thành tích và vinh quang của y, tạo nên vòng hào quang giáo chủ anh minh vĩ đại.

Nhậm Ngã Hành đương nhiên không nghĩ rằng, dù y có tài giỏi mấy, nhiều mưu mô thủ đoạn đến mấy, y cũng không thể trộm cướp được tất cả của người khác, các thứ hút vào cũng sẽ xung đột với nội lực bên trong, cuối cùng làm y phải chết. Đấy là một mặt khác của qui luật lịch sử tự nhiên.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

45
NHẠC LINH SAN
Nhân gia hiến tế


Tôi đoán rằng có nhiều độc giả không mấy thiện cảm đối với nhân vật Nhạc Linh San. Cái đó không phải vì họ ghét nguỵ quân tử Nhạc Bất Quần nên ghét lây sang nàng, mà là vì họ bất bình thay cho nhân vật chính Lệnh Hồ Xung. Nhạc Linh San rời bỏ Lệnh Hồ Xung , người được ai nấy yêu quí, đi yêu cái gã Lâm Bình Chi tâm thần, để cho vị đại sư huynh, người bạn thanh mai trúc mã của nàng, người nhất mực yêu nàng tha thiết, phải chịu thiệt thòi.

Thậm chí cuối cùng Nhạc Linh San bị Lâm Bình Chi sát hại mà vẫn còn mê muội, đòi Lệnh Hồ Xung phải suốt đời quan tâm giúp cái gã đáng ghét đó. Thú thật, cái cô nương Linh San này chỉ e không hề có chút trí tuệ linh tính gì, chẳng hiểu gì về người yêu nàng là Lệnh Hồ Xung, cũng như về người nàng yêu là Lâm Bình Chi, nếu không, cuộc đời của nàng đã chẳng đến nỗi bi thảm. Dẫu rằng kết cục bi thảm của đời nàng có làm cho người ta thông cảm với nàng.

I

Vận mệnh của một người, nhất là vận mệnh tình cảm, nghe bảo là yêu ai, không yêu ai, là do duyên số, duyên phận. Mà duyên số, duyên phận lại là thứ không thể biết trước. Chuyện Nhạc Linh San tựa hồ là bằng chứng rõ nhất về điều đó. Ai có thể nói, vì sao nàng lại yêu cái gã Lâm Bình Chi đến chết cũng không hối hận như thế ? Nhưng nếu bảo cái việc Nhạc Linh San yêu Lâm Bình Chi là nhân duyên tiền kiếp, số phận của nàng là thần xui quỉ khiến, thì hiển nhiên lại không đúng. Cái việc Nhạc Linh San quen biết Lâm Bình Chi, gần gũi Lâm Bình Chi, phải nói là xuất phát từ bàn tay sắp đặt của cha nàng, Nhạc Bất Quần. Thứ nhất, Nhạc Bất Quần đồng ý, thậm chí khuyến khích nàng cùng Lao Đức Nặc đi Phúc Châu thăm dò tình hình Phước Uy tiêu cục của nhà họ Lâm, để nàng có dịp gặp Lâm Bình Chi trước các đồng môn.

Thứ hai, sau khi mọi người trở về Hoa Sơn, Nhạc Bất Quần bắt phạt vị đại sư huynh gần gũi lâu nay của nàng là Lệnh Hồ Xung phải ra núi sau một mình suy nghĩ về sai phạm của mình, như vậy là làm giảm cơ hội tiếp xúc giữa nàng với Lệnh Hồ Xung; về mặt khách quan đã tăng cơ hội tiếp xúc với Lâm Bình Chi. Thứ ba, để khuyến khích nàng tăng cường tiếp xúc với Lâm Bình Chi, cha nàng mặc nhiên để nàng phụ đạo võ công cho Lâm Bình Chi, không cần biết tình hình thực tế võ công của hai người ấy như thế nào. Thứ tư, sau khi chi Kiếm tông đoạt quyền xuất hiện ở Hoa Sơn, Nhạc Bất Quần lại sắp đặt cho mọi người đi Phúc Châu, đi qua Lạc Dương quê ngoại của Lâm Bình Chi, thể hiện ngụ ý rõ ràng về quan hệ giữa Lâm Bình Chi với Nhạc Linh San.

Những sự bố trí có suy tính kỹ ấy đương nhiên không phải vì bản thân Nhạc Linh San, mà là dùng nàng làm sợi dây dẫn tới và trói buộc Lâm Bình Chi, để bảo đảm với nhà họ Lâm rằng “Tịch Tà kiếm phổ” sẽ không rơi vào tay người ngoài. Để đạt mục đích ấy, Nhạc Bất Quần thực chất đã đặt con gái y và Lâm Bình Chi lên lòng bàn tay mà đùa giỡn. Đương nhiên, việc Nhạc Bất Quần tạo cơ hội cho Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi tiếp xúc, thân cận, khuyến khích hai người phát triển quan hệ yêu nhau, cũng chỉ là nguyên nhân bên ngoài làm cho Nhạc Linh San rời bỏ quan hệ với Lệnh Hồ Xung. Việc Nhạc Linh San yêu Lâm Bình Chi còn do nhân tố chủ quan là bản thân nàng. Song nhân tố chủ quan ấy phần lớn cũng nằm trong sự trù tính của Nhạc Bất Quần. Biết con không ai bằng cha, một kẻ mưu mô lão luyện già đời như Nhạc Bất Quần không thể không biết tính cách của con gái mình.

Trước hết Nhạc Bất Quần thừa biết Nhạc Linh San kiến thức không rộng, linh tính không sâu quá nửa sẽ thuận theo cách sắp đặt của người khác. Thứ hai, Nhạc Linh San cũng như các cô nương giỏi võ công, có tính kiêu ngạo tuỳ tiện, thích cảm giác mới lạ, nhất là thích hoạt động có tính chất mạo hiểm. Thứ ba, Nhạc Linh San còn có một đặc điểm lớn, là hi vọng tự mình có thể kiến lập sự nghiệp, để người khác phải kinh ngạc, kính trọng nàng, thoả mãn cái thói ưa hư vinh của nàng. Dạo trước nàng cùng Lệnh Hồ Xung sáng tạo “Xung Linh kiếm pháp” chính là một ví dụ.

Ngày Lâm Bình Chi nhập môn, Nhạc Linh San nhất định phải sắm vai sư tỷ, thể hiện uy phong, là một ví dụ khác. Ví dụ hùng hồn nhất, là tại đại hội cuối cùng của Ngũ Nhạc kiếm phái, Nhạc Linh San đã sử dụng võ công các phái mà nàng học được trong sơn động Hoa Sơn, xuất kỳ bất ý đánh bại các vị chưởng môn phái Thái Sơn, phái Hoành Sơn, phái Hằng Sơn, thậm chí thách đấu với chưởng môn phái Tung Sơn, trổ tài trước anh hùng thiên hạ, trực tiếp giúp cha tranh bá võ lâm. Nhạc Linh San sở dĩ bắt đầu thích gần gụi Lâm Bình Chi, có một nguyên nhân là mượn việc đó thoả mãn cái tính hiếu thắng của nàng. Lâm Bình Chi nhập môn chưa lâu, võ công thua xa nàng, chỉ có ở trước mặt Lâm Bình Chi, tính hiếu thắng của nàng mới được thoả mãn thật sự. Dầu sao, việc Nhạc Bất Quần cách ly Lệnh Hồ Xung cũng có tác dụng rất quan trọng.

Trong thời gian Lệnh Hồ Xung bị cách ly, Nhạc Linh San sở dĩ nhanh chóng thay đổi thái độ, biểu hiện tình yêu với Lâm Bình Chi mà nhạt dần với Lệnh Hồ Xung, chính là vì nàng ưa cảm giác mới lạ và tính hiếu thắng. Đối với Nhạc Linh San mà nói, đại sư huynh tuy tốt, nhưng lâu năm sống như huynh muội một nhà, không có kích thích mới lạ. Quan trọng hơn, võ công của Lệnh Hồ Xung cao hơn nàng quá nhiều, không thể thoả mãn cái tính hiếu thắng của nàng. Lâm Bình Chi xuất hiện vừa hay đáp ứng nhu cầu tâm lý, tình cảm của Nhạc Linh San; Nhạc Bất Quần chỉ cần sắp đặt thêm, thế là bọn trẻ không thể bước ra khỏi bàn tay y. Xét về mặt này, Nhạc Bất Quần hiển nhiên là nguyên nhân số một dẫn đến bi kịch tình cảm và cuộc sống của Nhạc Linh San. Nếu bảo Nhạc Linh San yêu Lâm Bình Chi hoàn toàn là kết quả sắp đặt của Nhạc Bất Quần, thì đương nhiên cũng không phù hợp thực tế.

Trong quá trình quan hệ với Lâm Bình Chi, Nhạc Linh San từ “kẻ chinh phục” về võ công, biến thành “kẻ bị chinh phục” về tình cảm thế nào, tại sao nhất mực yêu gã tiểu sư đệ tính khí quật cường, võ công kém hơn nàng, hẳn còn do một nguyên nhân sâu xa mà ngay cả Nhạc Bất Quần cũng không hiểu nổi. Quá trình Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi thoạt đầu yêu nhau như thế nào, trong sách không miêu tả trực tiếp, chỉ để Nhạc Linh San vô tình để lộ dấu vết trước mặt Lệnh Hồ Xung. Tìm hiểu khởi nguyên tình cảm của Nhạc Linh San đối với Lâm Bình Chi chỉ uổng công, bởi vì bản thân Nhạc Linh San cũng không thể nói rõ, tình cảm ấy nảy sinh từ lần đầu tiên nàng gặp Lâm Bình Chi tại quán rượu ngoại thành Phúc Châu, hay là sau này, khi hai người ngày ngày luyện kiếm với nhau ở Hoa Sơn?

Chúng ta chỉ biết sau khi gặp Lâm Bình Chi lần đầu tiên, Nhạc Linh San bất tri bất giác đã có thiện cảm với Lâm Bình Chi, thiện cảm ấy có xen chút cảm kích và có lỗi. Thì ra Lâm Bình Chi lần đầu tiên giết người là vì Nhạc Linh San, người mà chàng ta chưa quen biết và đang cải trang. Do đó khi Lâm Bình Chi chính thức gia nhập phái Hoa Sơn, Nhạc Sinh San từng thề với Lâm Bình Chi : “Lâm sư đệ, việc ấy (việc giết người) có thể nói là do ta gây nên hoạ, sau này sư đệ báo thù, ta là sư tỷ quyết không khoanh tay”. (Xem Tiếu ngạo giang hồ ).

Kỳ thực, bấy giờ ai ai cũng biết tai hoạ của nhà họ Lâm hoàn toàn không phải vì Lâm Bình Chi bênh vực Nhạc Linh San, giết con trai của Dư Thương Hải mà ra, mà là do Dư Thương Hải muốn cướp lấy “Tịch Tà kiếm phổ” của nhà họ Lâm. Nhạc Linh San cứ nói tai hoạ của nhà họ Lâm vì nàng mà ra, thật là khôn khéo. Thứ nhất, nàng muốn khoe khoang vai trò quan trọng của mình, chí ít cũng là nhân vật chính của bi kịch. Thứ hai, từ đó suy ra Lâm Bình Chi sớm có tình cảm với nàng, đã vì nàng mà giết kẻ khác. Thứ ba, kín đáo biểu lộ rằng số phận của mình gắn liền với vận mạng của Lâm Bình Chi. Chúng ta biết chắc điều này : Lục Đại Hữu, sư đệ thân thiết với Lệnh Hồ Xung, - phát hiện Lâm Bình Chi cứ “quấn lấy” Nhạc Linh San, thì tìm mọi cách moi móc thiếu sót của Lâm Bình Chi, không chỉ đánh mắng gã sư đệ mới nhập môn này, mà còn đi mách với sư phụ, sư nương. Lục Đại Hữu làm thế là đắc tội với Nhạc Linh San, nhưng thực ra lại có tác dụng ngược là thúc đẩy hai người ấy yêu nhau. Bởi vì, thứ nhất, Nhạc Linh San cho rằng Lục Đại Hữu công khai khinh thường Lâm Bình Chi, tức là thách thức nàng, vì nàng là người che chở cho Lâm Bình Chi.

Tại Hoa Sơn, Nhạc Linh San tuy là tiểu sư muội, nhưng địa vị thật sự của nàng là công chúa ở Hoa Sơn, ngay cả đại sư huynh Lệnh Hồ Xung cũng chưa bao giờ dám đắc tội với nàng. Bây giờ Lục Đại Hữu làm thế thì nàng không thể chấp nhận. Thứ hai Nhạc Linh San biết Lục Đại Hữu rất thân với Lệnh Hồ Xung, Lục Đại Hữu làm thế rõ ràng để giúp Lệnh Hồ Xung, không chừng còn do Lệnh Hồ Xung sai làm, vậy thì càng không thể chấp nhận. Thứ ba, đại sư huynh và Lục Đại Hữu đã “bất nhân như thế, thì Nhạc Linh San ta càng phải “bất nghĩa” hơn : họ càng moi móc sai sót của Lâm Bình Chi, nàng sẽ càng gần gũi, quan tâm đến sư đệ !

Nếu không, làm sao thể hiện vai trò Nhạc đại công chúa kia chứ? Không chỉ từ đùa hoá thật, mà còn từ nông đến sâu. Tóm lại từ đây trở đi tình cảm của Nhạc Linh San đối với Lâm Bình Chi càng ngày càng chân thành và sâu đậm. Nhạc Linh San có tình yêu sâu đậm đối với Lâm Bình Chi còn do một nguyên nhân quan trọng, ấy là Lâm Bình Chi sau khi trải qua thảm kịch gia đình tan nát, tính cách thay đổi hẳn, trở nên hướng nội, thâm trầm, già trước tuổi. Chính tính cách đó thúc đẩy sự thay đổi cách nhìn của Nhạc Linh San, từ vai trò người chinh phục, người che chở, biến thành toàn tâm toàn ý ngưỡng mộ, chung tình. Sở dĩ như thế, nguyên nhân bên ngoài là Lâm Bình Chi muốn sớm báo thù rửa hận, chỉ chăm chăm học võ luyện công, luôn luôn học hỏi sư tỷ, chứ không nghĩ ngợi gì khác.

Nhưng càng như vậy càng kích thích ý muốn chinh phục của Nhạc Linh San, đồng thời cũng càng khiến nàng kinh ngạc phát hiện cái mới ở chàng ta. Nguyên nhân sâu xa hơn, tính cách đó của Lâm Bình Chi vừa hay phù hợp tiêu chuẩn thẩm mỹ của Nhạc Linh San. Nói đơn giản, tính cách đó rất giống tính cách của Nhạc Bất Quần. Mà Nhạc Linh San thì vốn nhất mực sùng bái, yêu quí cha nàng, coi cha nàng là mẫu mực, cho nên nàng yêu Lâm Bình Chi cũng không có gì lạ. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến Nhạc Linh San rời bỏ Lệnh Hồ Xung. Cái tính cách ngông nghênh, xốc nổi, hướng ngoại, cái tác phong luôn gây chuyện sai phạm của Lệnh Hồ Xung thật trái ngược với tính cách của Nhạc Bất Quần. Lệnh Hồ Xung là đại sư huynh, đại ca ca tốt của Nhạc Linh San, nhưng quyết không phải là bậc nam nhi mà trái tim nàng lựa chọn. Điều này, rất lâu sau Lệnh Hồ Xung mới hiểu ra. Nhạc Linh San không chỉ trong hành động, mà cả trong tâm khảm và quan niệm giá trị, nàng cũng hoàn toàn chịu ảnh hưởng của cha nàng.

III

Rất nhiều người không thể hiểu, tại sao Nhạc Linh San đã nhận ra hôn lễ hữu danh vô thực, Lâm Bình Chi không có tình nghĩa gì với nàng, rồi lại biết chân tướng việc Lâm Bình Chi vung đao tự thiến, cuối cùng bị Lâm Bình Chi đâm kiếm vào ngực, nàng hấp hối mà thuỷ chung vẫn mê muội không tỉnh ngộ, vẫn còn yêu hắn? Xem chừng chỉ có thể giải thích bằng sự mù quáng của tình yêu, càng chung tình, sự mù quáng càng trầm trọng, hết phương cứu vãn. Như trong sách viết, cuối cùng Lâm Bình Chi bị mù mắt, nhưng lòng hắn bắt đầu sáng ra; còn Nhạc Linh San hai mắt sáng, nhưng lòng lại mù quáng hồ đồ.

Tác giả không đưa ra cách giải thích nào cả, nhưng chúng ta không thể giải thích một cách đơn giản cái tình yêu đến chết không đổi, không hối của Nhạc Linh San là sự chung tình hoặc sự mù quáng. Nhạc Linh San ngầm thừa nhận cuộc hôn nhân hữu danh vô thực, một mặt là xuất phát từ tình yêu sâu sắc đối với Lâm Bình Chi, sự chờ mong, kỳ vọng ở hắn; mặt khác, tự nàng lý giải, cho rằng đấy là do Lâm Bình Chi nặng lòng báo thù, không muốn vướng bận tư tình nhi nữ, nàng cho rằng “đại trượng phu chính là phải như thế mới đúng”. Nguyên nhân sâu xa hơn, bí ẩn của tình yêu Nhạc Linh San đối với Lâm Bình Chi có lẽ là do nàng vừa coi Lâm Bình Chi như hoá thân đáng kính của cha nàng, vừa coi hắn như một đứa con đáng thương của mình. Lời trối trăn của nàng như sau : trên thế gian này Bình đệ côi cút, mọi người đều khinh khi ...khinh khi Bình đệ. Đại sư ca, sau khi tiểu muội chết, xin đại sư ca hết lòng chăm sóc cho Bình đệ, đừng...đừng để cho người ta khinh khi Bình đệ . .”. (XemTiếu ngạo giang hồ).

Khẩu khí đó không giống lối nói về người tình của mình hay chồng mình, mà y như nói về đứa con đáng thương của mình vậy. Vìcuộc hôn nhân của hai người là hữu danh vô thực, nhất là sau khi biết Lâm Bình Chi đã tự thiến từ lâu, quan hệ đôi bên vĩnh viễn không thành vợ chồng, tình cảm của Nhạc Linh San đối với Lâm Bình Chi mới thực sự thăng hoa. Khi đó Lâm Bình Chi không còn là chồng nàng, mà biến thành đứa con đáng thương, mãi mãi cần được quan tâm săn sóc, của nàng. Lúc ấy, trong tim nàng chỉ còn nổi lên tình mẹ. Dưới ánh sáng của tình mẹ, Lâm Bình Chi đương nhiên không phải là một hung thủ sát nhân tàn bạo, một gã tâm thần đáng sợ, mà là một đứa con đáng thương, mãi mãi cần được quan tâm săn sóc.

Cũng chỉ lúc ấy, Nhạc Linh San mới thực sự là nàng. Bởi vì cả cuộc đời ngắn ngủi của mình, nàng bị người cha khôn khéo khống chế về hành vi, thậm chí về tinh thần, tâm lý cũng bị ảnh hưởng chi phối hoàn toàn, chỉ có tình mẹ là bẩm tính thiên phú của nàng là không liên quan tới Nhạc Bất Quần. Chỉ lúc ấy nàng mới thoát khỏi ảnh hưởng tai hại của Nhạc Bất Quần, vượt qua thân phận làm vật hi sinh chính trị, mà đem tình mẹ cao quí của mình cống hiến cho nhân gian.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

46
NGHI LÂM
Khả ái đáng thương


Nếu bỏ phiếu bầu cho nhân vật nữ đáng yêu nhất trong tiểu thuyết của Kim Dung, tôi khẳng định sẽ chọn Quách Tương trong Thần điêu hiệp lữ và Nghi Lâm trong Tiếu ngạo giang hồ. Quách Tương tự nhiên đứng đắn, giàu linh tính; Nghi Lâm thì độc đáo thuần khiết tề chỉnh lạ lùng. Tôi thấy câu này rất hay: nữ nhân đáng yêu hoàn toàn không phải vì sắc đẹp, mà là vì đáng yêu nên mới đẹp. Sự đáng yêu của Nghi Lâm không chỉ vì nàng thanh tú tuyệt tục, xinh xắn dịu hiền, dáng hình uyển chuyển, giọng nói kiều mị, mà còn vì nàng hồn nhiên chân thật, trong sáng vui tươi.

I

Nghi Lâm xuất hiện là một cảnh tượng đầy xúc động, được bố trí khéo léo. Nàng như làn gió nhẹ , như dòng suối trong. Như một vầng trăng sáng, Nghi Lâm vừa xuất hiện đã làm tất cả mọi người có mặt xúc động, ngay đến kẻ lòng dạ hẹp hòi, hoành hành bá đạo như Dư Thương Hải cũng bất giác tin rằng tiểu ni cô đẹp như viên ngọc minh châu Nghi Lâm sẽ không nói dối. Không giống như lối miêu tả khoác lác trong Thư kiếm ân cừu lục, hàng vạn tướng sĩ nhìn thấy Hương Hương công chúa vội hạ vũ khí, cái đáng yêu và đáng thương của Nghi Lâm ở đây tựa hồ có thể sờ thấy được.

Tác giả bố trí để Nghi Lâm tự thuật về những gì nàng trải qua, tuy kể quá dài, nhưng rất khéo, không giả tạo, phải nói là một cách bố trí tuyệt vời, một là nghe thật đến mức phải chính người kể trải qua mới nói được như thế; hai là tình tiết câu chuyện đan xen rắc rối, khó phân định phải trái, nếu không phải do Nghi Lâm kể, người ta sẽ khó tin. Độc giả nói chung sẽ chăm chú theo dõi nội dung câu chuyện, tức là chỉ quan tâm đến nhân vật chính của bộ tiểu thuyết, đại đệ tử phái Hoa Sơn Lệnh Hồ Xung, xem y là người thế nào, y cùng ngồi uống rượu với gã dâm tặc Điền Bá Quang và tiểu ni cô Nghi Lâm ra sao, Nghi Lâm đã gặp chuyện gì.

Đoạn tự thuật ấy rất đáng chú ý không chỉ về mặt nội dung, mà còn cả về mặt hình thức. Câu chuyện không chỉ làm nổi bật hình tượng nhân vật Lệnh Hồ Xung, mà đồng thời cũng biểu lộ đầy đủ tính cách, khí chất, tâm lý và mối thâm tình vô hạn của tiểu ni cô Nghi Lâm đối với Lệnh Hồ Xung. Đoạn miêu tả hình tượng Nghi Lâm khiến tôi có ấn tượng sâu đậm, là khi Lệnh Hồ Xung hôn mê tỉnh lại, cái cảnh Nghi Lâm vui mừng, tình ý miên man, mâu thuẫn trùng trùng, ngượng ngùng e thẹn, bối rối luống cuống. Trong đó cảm động nhất là việc nàng phá giới lấy trộm dưa cho Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung bị thương khát nước, Nghi Lâm định đi tìm nước, chàng lại muốn nàng đi hái dưa. Mà nàng thì một là không có tiền trong người, hai là gần đây không có người để có thể hoá duyên, ý của Lệnh Hồ Xung là bảo nàng cứ đi hái trộm cũng được. Nhưng “làm như thế là ... ăn trộm, là điều giới kỵ thứ hai trong ngũ giới, không được làm”, nàng định cầu Bồ Tát phù hộ, nhưng lại nghĩ nêu lý do “Lệnh Hồ đại ca thèm ăn dưa hấu” hoàn toàn không chính đáng.

Sau đó nàng lại nghĩ : “Người ta cứu mạng, ngươi lại để người ta rơi xuống địa ngục, chịu mãi cái khổ luân hồi hay sao? Một mình làm một mình chịu. Nghi Lâm ta phạm giới luật, không liên quan gì đến Lệnh Hồ đại ca”. (Xem Tiếu ngạo giang hồ). Cuối cùng nước mắt lưng tròng, Nghi Lâm cả quyết phá giới, chịu xuống địa ngục, mới đi hái dưa. Nghi Lâm chân thành như thế, trong trắng như thế, lại thâm tình như thế, thật làm cho người ta vừa yêu quí, vừa đau lòng thay cho nàng. Có thể nói chuyện đó là một ngụ ngôn quan trọng về tính cách và vận mệnh của Nghi Lâm. Nghi Lâm dường như ngay từ đầu đã yêu Lệnh Hồ Xung sâu sắc, đương nhiên không chỉ vì chàng là ân nhân cứu mạng, cũng không chỉ bởi Lệnh Hồ Xung đã “chết” vì nàng, thậm chí cũng không chỉ bởi Lệnh Hồ Xung có tính cách phóng khoáng, mà còn vì nàng bẩm tính si tình, đây lại là mối tình đầu của nàng.

Dường như định mệnh từ đầu đã quyết rằng mối tình si này là vĩnh viễn vô vọng, chỉ đem lại cho nàng đau khổ và bất hạnh. Trước hết đó là vì đối tượng tình yêu của Nghi Lâm lại là Lệnh Hồ Xung, mà Lệnh Hồ Xung thì đã si tình đối với sư muội Nhạc Linh San, sau đó lại nhất mực chung tình với Nhậm Doanh Doanh của Nhật Nguyệt thần giáo, trong trái tim chàng trước sau không có chỗ nào dành cho Nghi Lâm cả. Nói tình yêu chỉ đem lại cho nàng đau khổ và bất hạnh, bởi vì nàng là ni cô phái Hằng Sơn, từ bé đã một mực tuân thủ các giới luật của sư môn Phật giáo. Việc phá giới hái trộm dưa còn làm cho nàng khổ sở giằn vặt mãi, nữa là phạm giới luật nghiêm trọng hơn nhiều cái việc hái trộm dưa - là tình yêu nam nữ.

Theo giới luật của nàng, nàng không được đối diện với Lệnh Hồ Xung; nhưng tình cảm của nàng thì lại khiến nàng lúc nào cũng cứ mong mỏi được ở bên cạnh người yêu sớm chiều. Theo thân phận của nàng, Nghi Lâm không dám đối diện với mối tình cố giấu trong lòng; nhưng do thiên tính, cái tình yêu không thể ức chế ấy cứ trào lên mãnh liệt trong lòng. Nghi Lâm hồn nhiên dĩ nhiên cũng từng có ảo tưởng, cũng từng mấy phen cố vùng vẫy kiểu như phá giới hái trộm dưa, thậm chí phụ thân nàng là Bất Giới hoà thượng và mẫu thân nàng là Lung Á bà bà phí tận tâm cơ lo cho nàng, song kết quả chỉ uổng công.

Đào Cốc lục tiên vì nàng đi tìm Lệnh Hồ Xung, Điền Bá Quang đến mời Lệnh Hồ Xung, Bất Giới hoà thượng cũng đích thân cầu xin Lệnh Hồ Xung, thậm chí Lung Á bà bà còn dùng vũ lực đe doạcưỡng bức Lệnh Hồ Xung, song thảy đều không làm cho Lệnh Hồ Xung thay đổi tình cảm của mình; ngược lại mỗi hi vọng và cố gắng vì nàng của mấy người ấy chỉ đem lại thêm phần đau khổ, tuyệt vọng, xấu hổ cho Nghi Lâm. Tựa hồ định mệnh định sẵn là bông hoa tuyệt đẹp trong trắng ấy vĩnh viễn không có dịp nở ra hoàn toàn, chỉ chớm nở trong đài hoa là phải héo úa rồi lụi tàn.

II

Số phận bất hạnh của Nghi Lâm hẳn làm cho vô số người hữu tình trên thế gian cảm khái thốt lên tiếng “ôi!”. Truy tìm nguyên nhân, tất mọi người sẽ còn kinh ngạc hơn. Nhớ lần đầu tiên Nghi Lâm xuất hiện trước mọi người, ai nấy đều nghĩ : “Một mỹ nữ như thế kia, sao lại đi làm ni cô kia chứ?” (Xem Tiếu ngạo giang hồ). Thực ra câu hỏi này chính là điểm mấu chốt trong số phận cuộc đời Nghi Lâm. Như đã nói, nỗi khổ tâm lớn nhất của Nghi Lâm là do nàng là ni cô mà lại yêu đương say đắm. Vị trưởng lão của Nhật Nguyệt thần giáo từng trải lão luyện Khúc Dương vừa nhìn thấy Nghi Lâm đã thấy “tiểu ni cô này là một kẻ đa tình”, “cô bé đâu có hiểu gì mà lại đi làm ni cô”. (Xem Tiếu ngạo giang hồ).

Nhận xét đó, tôi chắc không một ai phản đối. Thực ra, Nghi Lâm xuất gia hoàn toàn không phải là do nàng tự lựa chọn, mà do định mệnh - thân thế của nàng dẫn đến. Nghi Lâm ra đời là một câu chuyện tình yêu kỳ lạ Phụ thân nàng vốn là một đồ tể, yêu một ni cô xinh đẹp đến mức điên cuồng, nói nhất quyết phải lấy nàng ta làm vợ. Ni cô bảo nàng là người xuất gia, nếu nghĩ đến chuyện kết hôn, sẽ bị Bồ Tát quở trách. Thế là gã đồ tể kiên quyết xuất gia, lấy pháp danh Bất Giới, tiếp tục cầu hôn, nói nếu Bồ Tát quở trách, bắt nàng xuống địa ngục, thì gã sẽ xuống đó trước; thế là nàng cảm động, đồng ý hoàn tục kết hôn.

Không lâu, tình yêu của họ có kết tinh là sinh ra con gái, đặt tên Nghi Lâm. Khúc Dương bảo Nghi Lâm “là một kẻ đa tình”, là đúng với nguồn gốc gia đình của nàng. Có điều, không ai ngờ được cái mối tình cực kỳ lãng mạn kia lại dẫn đến một kết cục không thể hiểu nổi. Mẹ của Nghi Lâm thấy Bất Giới hoà thượng đứng ngoài cổng nói chuyện vài câu gì đó với một thiếu nữ lạ mặt, liền xung đột với chồng, cho rằng chồng mình “là một kẻ bạc tình, hiếu sắc số một trong thiên hạ”, thế là quyết ý bỏ chồng con dứt áo ra đi. Bất Giới hoà thượng bế con đi khắp nơi tìm kiếm, nhưng không có tin tức gì. Sau do Nghi Lâm bị bệnh, Bất Giới hoà thượng khó bề chăm sóc, đành mang bé Nghi Lâm đến Hằng Sơn gửi cho Định Dật sư thái nuôi dưỡng; từ đó Nghi Lâm, giống như Hư Trúc trong Thiên long bát bộ, từ ấu thơ đã thành đệ tử cửa Phật, coi thân phận, mạng vận ấy như chuyện tất nhiên.

Số phận Nghi Lâm khác Hư Trúc ở chỗ giữa cha mẹ nàng hoàn toàn không có trở ngại hoặc ngăn cách nào đáng kể. Truy cứu cuộc xung đột ngớ ngẩn vô vị và sự chia ly của vợ chồng Bất Giới hoà thượng xem ai đúng ai sai đã là điều vô nghĩa. Vấn đề là một cặp vợ chồng vô trách nhiệm, chỉ vì tình cảm riêng của mình mà tạo ra bé Nghi Lâm trên thế gian; rồi vì một chuyện cãi cọ vô vị, đem bé ném vào cửa Phật, để nó thành một đứa bé mồ côi trong khi cha mẹ vẫn sống. Một người mẹ nhất thời xốc nổi, đã làm cho con gái mình sau này phải trả một cái giá quá đắt. Nghi Lâm muốn thoát khỏi đau khổ, chỉ có cách “giá như năm xưa mẹ đừng sinh ra con”.(Xem Tiếu ngạo giang hồ).

Nhìn lại câu chuyện về Nghi Lâm, giá như từ nhỏ nàng không xuất gia, thì đương nhiên nàng sẽ không phải coi tình yêu nam nữ bình thường của mình là một thứ nghiệt chướng quá lớn. Càng quan trọng hơn, sở dĩ Lệnh Hồ Xung trước sau không đáp ứng tình yêu tha thiết của Nghi Lâm, hẳn chủ yếu là vì thân phận đặc thù của nàng là ni cô phái Hằng Sơn. Giả dụ Nghi Lâm không phải là ni cô, tuy Lệnh Hồ Xung chưa chắc đã yêu nàng, song tối thiểu chàng cũng sẽ không như hiện tại, là hoàn toàn không dám “tơ tưởng” gì cả. Nếu thế số phận của Nghi Lâm và Lệnh Hồ Xung sẽ khác hẳn đi không biết chừng.

III

Chính vì Nghi Lâm là ni cô phái Hằng Sơn, không gặp Lệnh Hồ Xung cố nhiên là một sự khổ sở về tình cảm, nhưng gặp chàng thì lại càng khổ sở thêm về tinh thần. Sau khi Lệnh Hồ Xung lên làm chưởng môn phái Hằng Sơn, tuy hai người thường xuyên gặp nhau, nhưng càng gặp chàng thì Nghi Lâm càng đau khổ, tiều tuỵ. Càng không cách gì chịu nổi, khi hai vị sư tỷ đồng môn Nghi Hoà, Nghi Thanh cứ thúc nàng tăng cường luyện công để sớm hoàn thành trọng nhiệm báo thù, chuẩn bị tiếp nhiệm chức vị chưởng môn, gánh vác trọng trách chính trị quá sức nàng.

Tai hại hơn, họ thừa biết dục tốc bất đạt, họ thừa biết Nghi Lâm tinh thần không yên, không nên thôi thúc nàng; họ thừa biết Nghi Lâm tinh thần không yên chính là vì Lệnh Hồ Xung, biết Nghi Lâm chẳng những không thích hợp với vai tro chưởng môn phái Hằng Sơn, mà còn không nên tiếp tục tu luyện Phật môn, vậy mà họ vẫn cứ kiên trì việc đó. Nghi Hoà, Nghi Thanh vì sao cứ chọn Nghi Lâm làm chưởng môn phái Hằng Sơn trong tương lai? Vì họ cảm thấy nàng có tài lãnh đạo, có tiềm lực võ công nhất, hay vì họ biết Nghi Lâm yêu Lệnh Hồ Xung đến mức khổ sở, hi vọng Lệnh Hồ Xung sẽ nhìn Nghi Lâm bằng con mắt khác đi?

Thậm chí mượn việc đó để giữ Nghi Lâm lại trong phái Hằng Sơn? Bất kể là vì lẽ gì, thì cũng đều không phải vì Nghi Lâm, không phải xuất phát từ tâm tình, nguyện vọng của Nghi Lâm; ngược lại, còn làm cho nàng khó khăn hơn. Tình cờ thế nào, cuối cùng để cứu cái mạng Lệnh Hồ Xung đang treo trên sợi tóc, Nghi Lâm lại giết đại địch của sư môn là Nhạc Bất Quần. Nàng có thể vì Lệnh Hồ Xung mà chết, đương nhiên có thể vì cứu Lệnh Hồ Xung mà giết người, các đồng môn của nàng cũng hoan hô nàng, thậm chí độc giả cũng vỗ tay khen hành động ấy của nàng.

Chỉ e không ai nghĩ hộ nàng một chút, từ nay trở đi không còn Lệnh Hồ Xung bên cạnh, mỗi khi nhớ lại cảnh tượng mình giết Nhạc Bất Quần, nàng Nghi Lâm tâm địa hiền lành sẽ làm thế nào xua đuổi cơn ác mộng. Cuộc đời Nghi Lâm là thế: nàng cần hưởng tình yêu của người mẹ và sự ấm cúng của gia đình, thì không được; nàng chỉ mong có tình yêu của Lệnh Hồ Xung thì không được; lại phải vĩnh viễn tu hành với tâm trạng không thể nào yên, với cái số phận không bao giờ được tự làm chủ, với cái vết thương lòng không cách gì chữa khỏi.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

47
GIANG NAM TỨ HŨU
Đồ bi thán


Hình tượng “Giang Nam tứ hữu” trong Tiếu ngạo giang hồ, hiển nhiên là đơn giản hoá hình tượng “Hàm Cốc bát hữu” trong Thiên long bát bộ. Bất kể tứ hữu hay bát hữu, đều là nhân vật loại hình hoá. Giang Nam tứ hữu thậm chí không có tên riêng từng cá nhân, tác giả chỉ căn cứ sở trường hoặc sở thích của mỗi người mà xác định ngoại hiệu của họ, lần lượt là Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử, Thốc Bút Ông và Đan Thanh Sinh, cũng tức là cầm, kỳ, thư, hoạ. Chỉ luận về hình tượng, “Giang Nam tứ hữu” hoàn toàn không cao minh hơn “Hàm Cốc bát hữu”. Sở dĩ tôi không bàn về “Hàm Cốc bát hữu”, mà nói đến “Giang Nam tứ hữu” là vì hoàn cảnh của bốn người sau không giống nhau, lối sống, cách lựa chọn cuộc sống và kết cục cuối cùng của họ có ý nghĩa phổ biến, vượt khỏi cá nhân.

I

Danh hiệu “Giang Nam tứ hữu” có thể xem xét từ hai phương diện. Thứ nhất, họ tự mình chủ động rút ra khỏi dòng chủ lưu của xã hội, qui ẩn ở Cô Sơn Mai trang, ven Tây Hồ, Hàng Châu - vì vậy chúng ta cũng có thể gọi họ là “Mai trang tứ hữu” - để sống một cuộc sống hoàn toàn mới, quên bản thân mình, nên ngay cả tên riêng họ cũng chẳng cần, kiên quyết đặt lại tên mình theo sở trường hoặc sở thích của mình. Hoàng Chung Công là biệt danh của nhà âm nhạc, Hắc Bạch Tử là ngoại hiệu của vua cờ vây, Thốc Bút Ông là tiêu chí của nhà thư pháp, Đan Thanh Sinh đương nhiên là lối xưng hô của hoạ sĩ. Các tên gọi ấy hiển nhiên gửi gắm mộng tưởng nhân sinh của họ. Thứ hai, xã hội xem nhẹ hoặc coi thường bốn người ấy, bốn loại người ấy, bốn lĩnh vực nghệ thuật và hình thức nghệ thuật ấy, khiến họ lâm vào tình trạng “vô danh hoá”.

Tức là Hoàng Chung Công gảy đàn, Hắc Bạch Tử đánh cờ, Thốc Bút Ông viết chữ và Đan Thanh Sinh chỉ vẽ mà thôi. Tuy nói là nhân vật loại hình hoá, không có tên riêng từng cá nhân, song trong sách chúng ta vẫn phân biệt phong độ cá tính và phẩm chất tâm tư khác nhau của từng người. Trước hết là sở thích, cầm, kỳ, thư, hoạ, bốn người khác nhau. Thứ đến võ công, cũng theo trật tự cầm, kỳ, thư, hoạ mà xếp hạng cao thấp. Cuối cùng là sự khác nhau tinh vi về phẩm chất cá nhân của họ. Nói cụ thể, trong bốn người ấy, Đan Thanh Sinh có cá tính hướng ngoại hơn cả, cũng đơn giản, nhiệt tình hơn cả. Y tự nói bình sinh có ba sở thích : một thích rượu, hai thích vẽ, ba thích kiếm.

Trong ba cái thích ấy, thích rượu chiếm số một, điều đó cũng nói lên cá tính của y. Chính vì vậy, y mới vừa gặp Lệnh Hồ Xung, một gã thích rượu như y, đã như gặp tri kỷ, thậm chí còn “phát hiện” một thứ “cao luận” cho rằng phàm ai thích rượu nhất định đều là người tốt. Chẳng hạn, khi đánh giá đại sư thảo thư Trương Húc, y nói: “Phải, người ấy đã thích rượu, tất là người rất tốt, viết chữ ắt cũng không sai”. (Xem Tiếu ngạo giang hồ ). Sở thích của Thốc Bút Ông gần giống Đan Thanh Sinh, thư hoạ khó phân biệt, tính cách cũng vậy. Nếu có gì khác, thì đấy là Thốc Bút Ông si mê thư pháp hơn Đan Thanh Sinh.

Thấy Hướng Vấn Thiên chìa ra bức thảo thư “Suất ý thiếp” của Trương Húc, y liền đem hai mươi tám chiêu tuyệt kỹ bút pháp “Thạch cổ đả huyệt” của mình ra trao đổi. Hắc Bạch Tử và Đan Thanh Sinh giận, bảo “Không được!”, thì y nói: “Được, có gì mà không được? Đem bút pháp “Thạch cổ đả huyệt” của ta đổi lấy bức cuồng thảo chân tích này của Trương Húc, có gì phải tiếc?” (XemTiếu ngạo giang hồ ). Nhờ thế y mới đem kiếm pháp võ công của mình kết hợp với thư pháp văn tự; sau khi tỷ võ thua Lệnh Hồ Xung, viết được mấy chữ đẹp, y căn bản chẳng để tâm đến chuyện thắng thua, chỉ muốn giữ lại kiệt tác do mình tạo ra. Còn Hắc Bạch Tử, vì giỏi đánh cờ, nên tâm tư kín đáo, suy xét kín nhẽ. Không chỉ có phong cách võ công độc đáo, mà còn suy tính trước sau đâu ra đó, trong đầu cũng nhiều tạp niệm hơn cả.

Ví dụ điển hình là việc y tìm cách bí mật giao dịch với tiền giáo chủ Nhật nguyệt thần giáo Nhậm Ngã Hành đang bị nhốt, do “Giang Nam tứ hữu” giám quản, sau bị Lệnh Hồ Xung lợi dụng, khiến một người tâm cơ sâu sắc như y lại trở thành khâu yếu nhất ở Mai trang; y quá thông minh, cuối cùng cũng không thoát đại hoạ. Trong bốn người, Hoàng Chung Công không chỉ võ công cao cường nhất, mà kiến thức sâu rộng nhất, tiết tháo cũng cao nhất. Tuy lão xuất hiện muộn nhất, thời gian ngắn nhất, nhưng phong độ nho nhã, khí phách oanh liệt để lại trong ta ấn tượng rất sâu đậm. Vào giờ phút sinh tử hệ trọng, lão vẫn có thể tuẫn tiết vì niềm tin cuộc sống và lý tưởng nghệ thuật, thật khiến người ta phải kính trọng.

II

Đương nhiên, trong bộ tiểu thuyết này, điều quan trọng không phải là cá tính khác nhau giữa bốn người ấy, mà là cái tính chung của họ. Bất kể xét từ góc độ nào, “Giang Nam tứ hữu” hoặc “Mai trang tứ hữu” cũng là bốn nhà nghệ thuật, thậm chí là bốn người say mê nghệ thuật. Bốn người khác nhau, mỗi người mê một bộ môn nghệ thuật khác nhau, nhưng là cùng một loại người - người si mê nghệ thuật. Cũng chính vì thế, Hướng Vấn Thiên mới dẫnLệnh Hồ Xung tới Mai trang, giả làm sư thúc của chưởng môn phái Tung Sơn Tả Lãnh Thiền và chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần mà dễ dàng đùa giỡn với bốn người ấy.

Trước tiên là Hướng Vấn Thiên “theo bệnh cắt thuốc”, đem tới cho kẻ say mê hội hoạ Đan Thanh Sinh bức tranh “Tây Sơn hành lữ đồ” của Phạm Trung Lập thời Bắc Tống, đem tới cho kẻ say mê thư pháp Thốc Bút Ông bức thảo thư “Suất ý thiếp” của Trương Húc đời Đường; đem tới cho kẻ say mê âm nhạc Hoàng Chung Công tuyệt khúc “Quảng Lăng tán” của Kê Khang; đem tới cho kẻ say mê cờ vây Hắc Bạch Tử “Âu huyết phổ” là ván cờ mà Lưu Trọng Phủ đánh với tiên trên núi Lệ Sơn; đánh trúng vào sở thích của từng người, khiến cả bốn mê say, hoá ra mê muội, khó tránh bị lừa. Thứ nữa, bốn người này ẩn cư chốn lâm tuyền, không quan tâm thế sự, không hay biết gì về thế giới bên ngoài, nên Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung đóng giả người khác tới đây, tuy lộ rõ nhiều điểm sơ hở, mà bốn người không hề nghi ngờ. Cuối cùng, đây là điều quan trọng nhất, nghệ thuật và tài trí của nhà nghệ thuật mà gặp quyền mưu lão luyện của chính trị và nhà mưu lược, thì không cách gì chống đỡ nổi. “Giang Nam tứ hữu” si mê nghệ thuật chỉ là đứa con nít trước Hướng Vấn Thiên chính trị gia lão luyện mà thôi.

Nhà chính trị mưu lược và nhà nghệ thuật là hai loại người khác hẳn nhau, điều này đã rõ. Trong hoàn cảnh bình thường, ai lo việc nấy, đương nhiên tất cả đều êm đẹp. “Giang Nam tứ hữu” say mê cầm kỳ thư hoạ, say mê kinh điển của cổ nhân, không đề phòng người khác, điều đó không có gì xấu. Nếu không thế, họ đã chẳng phải là nhà nghệ thuật chân chính, chẳng phải là người say mê nghệ thuật thực thụ. Vấn đề là trong bộ tiểu thuyết này,“Giang Nam tứ hữu” không phải là các nhà nghệ thuật được tự do hoàn toàn; họ ẩn cư ở Mai trang bên Tây Hồ này không phải là sự tiêu dao tự tại đơn thuần. Thân phận của họ là mấy gã cai ngục đặc biệt của Nhật nguyệt thần giáo; nhiệm vụ của họ là canh giữ tiền giáo chủ Nhật nguyệt thần giáo Nhậm Ngã Hành đang bị nhốt trong địa lao dưới đáy hồ.

Trên cương vị đó, họ vì say mê nghệ thuật mà lơi là nhiệm vụ, để Nhậm Ngã Hành vượt ngục thành công, làm thay đổi hẳn tình hình; vì “sai lầm” của mình, nói đúng ra, vì sở thích của mình, họ đã phải trả giá bằng sinh mạng. Như vậy, “Giang Nam tứ hữu” đối mặt với sự “khủng hoảng thân phận” nghiêm trọng. Họ muốn lựa chọn cuộc sống nghệ thuật, nhưng thân phận xã hội của họ lại là một loại ngục tốt đặc biệt. Họ muốn làm tốt cả hai, nhưng không được, thế là lòng say mê nghệ thuật trở thành căn nguyên “phạm tội”, “đáng chết” của họ. Đằng sau sự khủng hoảng thân phận của các nhà nghệ thuật, là cuộc “khủng hoảng văn hoá” của kinh điển nghệ thuật và truyềnthống. Đáng chú ý là cái thân phận nhà nghệ thuật kiêm ngục tốt hoặc ngục tốt kiêm nhà nghệ thuật là do “Giang Nam tứ hữu” tự chủ động lựa chọn.

Ta hãy nghe câu nói sau của Hoàng Chung Công trước khi lão tự sát : “Bốn huynh đệ tại hạ thân ở trong Nhật nguyệt thần giáo, vốn chỉ muốn hành hiệp trượng nghĩa, làm nên sự nghiệp tốt đẹp. Nhưng tính nết Nhậm giáo chủ bạo tàn, chỉ thích ra oai làm phúc, bốn huynh đệ tại hạ đã thoái chí từ lâu. Sau khi Đông Phương giáo chủ tiếp nhiệm, tin dùng bọn gian nịnh, trừ khử huynh đệ cũ trong bổn giáo,thì bốn huynh đệ tại hạ càng thêm chán nản, mới nhận việc trông coi nơi này, một là để lánh xa Hắc Mộc nhai, khỏi phải tranh giành với ai nữa, hai là nhàn cư Tây Hồ, hưởng thú cầm thư”. (Xem Tiếu ngạo giang hồ). Nói thế tức là say mê nghệ thuật, cầm kỳ thư hoạ, thực ra không phải là sự lựa chọn đầu tiên của “Giang Nam tứ hữu’. Lựa chọn đầu tiên của họ là trượng nghĩa giang hồ, tạo phúc cho dân, “thắng thì được cả thiên hạ”.

Thấy mục tiêu thứ nhất không thành, họ mới đi tới cách lựa chọn thứ hai, tức là ẩn cư Tây Hồ, say mê nghệ thuật, thua thì tự lo riêng cho mình. Kết quả cuối cùng là họ đã không được cả thiên hạ, cũng chẳng thể tự lo riêng cho mình. Số phận của họ thực ra còn thể hiện nguyên nhân thể chế chính trị xã hội đằng sau sự “khủng hoảng thân phận”, sự khủng hoảng văn hoá. Đây cũng chính là chủ đề sâu xa của bộ tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ. Với ý nghĩa đó, chuyện “Giang Nam tứ hữu nói lên số phận bi kịch của các nhà nghệ thuật thời cổ Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc, không hiếm văn nhân bị tù đày, thậm chí bị giết vì tác phẩm của mình, như Khuất Nguyên với Ly Tao , Tư Mã Thiên với Sử ký chẳng hạn. Trong cuộc cách mạng văn hoá vĩ đại thời hiện đại, thì “càng cao quí càng ngu xuẩn”, “tri thức càng nhiều càng phản động”, biết bao nhiêu phần tử trí thức gặp số phận bất hạnh, phải chết trong cảnh nhục nhã.

III

Trong “Giang Nam tứ hữu”, Hắc Bạch Tử chết nhục nhã vì ý muốn riêng, Hoàng Chung Công tự sát vì tuyệt vọng, Thốc Bút Ông và Đan Thanh Sinh thì đáng buồn và đáng thương thay phải uống viên “Tam thi não thần đan” đáng sợ để biểu thị tuyệt đối khuất phục và trung thành phục vụ Nhậm Ngã Hành; thực khiến cho người ta cảm thấy nhục nhã và bi phẫn. Chẳng lẽ các văn nhân, nghệ thuật gia Hoàng Chung Công, Hắc Bạch Tử, Thốc Bút Ông và Đan Thanh Sinh đáng phải chịu số phận như vậy sao? Tôi biết, tôi không có quyền chỉ trích Hoàng Chung Công tại sao không chống trả, mà lại tự sát, không có quyền chỉ trích Hắc Bạch Tử có ý muốn riêng, không có quyền chỉ trích Thốc Bút Ông và Đan Thanh Sinh sao lại khuất phục.

Nhưng nghe câu nói cuối cùng của Hoàng Chung Công : người sống trên đời, vui ít buồn nhiều, vốn chỉ vậy thôi ...” (Xem Tiếu ngạo giang hồ), tôi bất giác rất đau lòng: đứng trước cuộc sống đau khổ, số phận bất hạnh như thế, cho dù không thể đấu tranh lại, song cũng không dám phản tỉnh và suy xét hay sao? Từ đó, chúng ta thấy, ngoài khủng hoảng thân phận, khủng hoảng văn hoá và khủng hoảng thể chế xã hội, còn có cuộc khủng hoảng thứ tư, là khủng hoảng nhân cách và tinh thần của văn nhân, nghệ thuật gia. Bất kể thắng hay thua, sống hay chết, được cả thiên hạ hay lo riêng cho mình, “Giang Nam tứ hữu” thực ra đều không hề tự kiện toàn nhân cách và tinh thần của mình.

Họ phục tùng vô điều kiện di huấn của cổ nhân thắng thì thế nào, thua thì sao, chỉ nghĩ làm sao hoàn toàn thoả hiệp với hoàn cảnh, khi không còn đường tiến thoái, họ chỉ tìm cách tự sát hoặc đầu hàng, hơn nữa, đến lúc chết vẫn còn cho rằng “vốn chỉ vậy thôi”! Họ không hề suy nghĩ nếu không được cả thiên hạ thì sao, thậm chí nếu không thể lo riêng cho mình thì sao. Họ là văn nhân, nghệ thuật gia, chứ không phải triết gia, tư tưởng gia. Nhưng vấn đề là văn nhân, nghệ thuật gia mà không có nhân cách và tinh thần độc lập, tự chủ, thì hết sức đáng buồn.

Thực tế, ta thấy bất kể là văn nhân hay “võ nhân”, họ đều không là chủ nhân thật sự của mình, mà chỉ làm tôi tớ cho dòng chính trị xã hội chủ lưu, mượn nghệ thuật làm chất ma tuý cho mình. Trong truyện, nghề hoạ của Đan Thanh Sinh có kiếm ý, thư pháp của Thốc Bút Ông hoà với kiếm pháp, người ngoài cho là hay, nhưng dưới con mắt của Nhậm Ngã Hành thì chẳng ra gì. Sự đánh giá của Nhậm Ngã Hành về võ công của “Giang Nam tứ hữu” cố nhiên là đi sâu vào võ công, song thực ra nhằm chê bai họ “không có đầu óc”. Sự chê bai ấy cố nhiên là sự miệt thị vốn có của nhà chính trị đối với văn nhân, nghệ thuật gia, song phải nói là nhắm trúng vào sự thiếu nhân cách, thiếu tinh thần của họ.

Tôi muốn nói không chỉ đến bản thân bi kịch của “Giang Nam tứ hữu” và các văn nhân, nghệ thuật gia, mà là cần tiêu hoá và suy nghĩ thế nào về bi kịch đó. Nhìn chung, số phận của văn nhân, nghệ thuật gia, phần tử trí thức đương nhiên do hoàn cảnh xã hội quyết định, do xã hội định vị họ như thế nào, đối xử với họ ra sao. Nhưng mặt khác, văn nhân, nghệ thuật gia, phần tử trí thức cũng phải tự xác định vị trí của mình như thế nào, có ý thức tư tưởng và nhân cách tinh thần ra sao. Trên thế giới này họ dĩ nhiên là người bị hại, nhưng ở mức độ nhất định, họ cũng cần thấy mình là người bị “mất chức” trên thế gian.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

48
TIỂU HUYỀN TỬ
Lộ có nửa mặt


Không đọc Lộc đỉnh ký của Kim Dung, đương nhiên không thể biết “Tiểu Huyền Tử” chính là hoàng đế triều Thanh Huyền Diệp - Khang Hy. Ai đọc Lộc đỉnh ký, sẽ biết Huyền Diệp trong truyện, nói về việc, thì quá nửa là chuyện có thật về hoàng đế Khang Hy trong lịch sử; nói về người, thì một nửa là hình tượng nhân vật Tiểu Huyền Tử do tác giả hư cấu. Do đó, không nên đánh đồng làm một hình tượng nhân vật trong bộ tiểu thuyết với hoàng đế Khang Hy trong lịch sử. Cái việc “học tập lịch sử” trong tiểu thuyết có khi sai một ly, đi một dặm.

Điều đó rất đơn giản, giống như không thể coi bộ tiểu thuyết thông tục Tam quốc diễn nghĩa là trước tác lịch sử Tam quốc chí . Tiểu Huyền Tử là ngoại hiệu của Huyền Diệp, khi lần đầu tiên gặp Vi Tiểu Bảo, thấy Vi Tiểu Bảo có hoá danh “Tiểu Quế Tử”, thì Huyền Diệp cũng lấy biệt danh Tiểu Huyền Tử cho tiện. Mọi chuyện kỳ diệu trong Lộc đỉnh ký bắt đầu từ đây.

I

Sự tích về hoàng đế Khang Hy Huyền Diệp, trong sử sách có rất nhiều. Nhưng tính cách cá nhân người đó thế nào, đặc điểm tâm lý ra sao, thì hoàn toàn không rõ, cần có công trình nghiên cứu riêng. Mà nói đến nghiên cứu tính cách, tâm lý, thì tiểu thuyết gia Kim Dung rất có sở trường, bởi vì ông không chỉ am hiểu nhân tình thế cố, mà còn có sự tưởng tượng kỳ diệu, giỏi đưa ra các “giả thiết táo bạo” đối với các nhân vật lịch sử. Từ nhân vật lịch sử Huyền Diệp đẻ ra chuyện Tiểu Huyền Tử là một ví dụ tiêu biểu. Vi Tiểu Bảo giả làm thái giám Tiểu Quế Tử, theo lệnh lão thái giám Hải Đại Phú đi đánh bạc, lúc trở về bị lạc đường, loanh quanh trong hoàng cung thế nào, lại đi nhầm vào phòng luyện công của vị tiểu hoàng đế. Vi Tiểu Bảo căn bản không biết đây là hoàng cung, gặp một gã thiếu niên trạc tuổi như mình, một là không hiểu, hai là không sợ, liền chơi trò vật nhau.

Không ngờ Tiểu Huyền Tử hứng chí lên, hẹn mỗi ngày hai đứa chưa gặp nhau thì chưa về. Lâu dần thành hai người bạn chí thân. Nghĩa là thái giám giả Tiểu Quế Tử và hoàng đế thật Tiểu Huyền Tử hoá thành đôi bạn chí thận, và đó là lý do căn bản khiến Vi Tiểu Bảo về sau trở thành người thân tín số một trong triều đình. Ở đây tác giả không chỉ đưa ra giả thiết táo bạo, mà có luận cứ hẳn hoi. Thứ nhất, hoàng thái tử đã được định sẵn là sẽ làm hoàng đế, nên ngay từ nhỏ việc nuôi dạy đã khác hẳn người thường. Nhất cử nhất động, mọi tiếng khóc cười đều bị mọi người nhìn thấy, để ý, quả thật không được tự do tuỳ tiện chút nào. Hoàng thái tử bị trói buộc còn hơn cả tù nhân. Hoàng thái tử chỉ cần nói năng, hành động hơi tuỳ tiện một chút, tức thì bị sư phụ khuyến cáo nhắc nhở, vì sợ làm cho hoàng thượng nổi giận; thái tử chỉ cần mặc thiếu một cái áo mỏng, cung nữ và thái giám có thể bị hoạ mất đầu như chơi, nếu vì thế mà hoàng thái tử bị sổ mũi nhức đầu.

Thứ hai, trẻ con thích đùa giỡn, đấy là thiên tính, hoàng đế hay kẻ ăn mày cũng thế cả. Con em bách tính ngày ngày tha hồ chơi đùa, vật lộn, cãi cọ nhau; còn hoàng thái tử trẻ tuổi thì làm sao có được “cơ may” đó? Thứ ba, tác giả đưa ra một suy đoán lý thú, để các nhà sử học, tâm lý học, giáo dục học và xã hội học tham khảo : “Một cá nhân từ bé đến lúc trưởng thành, suốt ngày đêm cứ bị giám quản nghiêm ngặt, thật là mất hết lạc thú cuộc sống. Một trong những nguyên nhân khiến nhiều triều đại có hôn quân bạo chúa, là từ ngày hoàng đế được tự do hành động, thì lập tức phát tiết nỗi buồn bực uất kết nhiều năm trong lòng, khiến người ta không hiểu nổi, phần lớn cũng chẳng qua là phát tiết quá mức mà thôi”. (Xem Lộc đỉnh ký).

Cụ thể nói về Tiểu Huyền Tử, từ bảy tám tuổi đã bắt đầu làm hoàng đế, một cậu bé phải đóng vai người lớn, muốn đùa, nhưng biết tìm ai? Nhất là cái khoản đánh vật, trong hoàng cung chẳng thiếu gì cung nữ, thái giám, thị vệ, thử hỏi có ai dám vật nhau thật sự với vị hoàng đế nhỏ tuổi? Nếu buộc phải làm theo lệnh, cũng vừa làm vừa run rẩy, không thật, thế thì còn gì lý thú nữa? Chỉ có cái gã Vi Tiểu Bảo từ trên trời rơi xuống, đã không hiểu gì qui củ trong hoàng cung, lại tính tình hoạt bát hay đùa, thì mới dám đánh vật cật lực với Tiểu Huyền Từ mà thôi. Bởi vậy, “chỉ khi có Vi Tiểu Bảo ở bên cạnh, hoàng đế Tiểu Huyền Tử mới không bị trói buộc, vứt bỏ cái vai hoàng đế, tha hồ đánh vật, thật là cái lạc thú bình sinh chưa từng có; dạo này trong lúc nằm mơ Tiểu Huyền Tử cũng có lúc chơi trò đánh vật với Vi Tiểu Bảo”. (Xem Lộc đỉnh ký).

Thành thử lúc đánh vật là thời gian thuộc loại cơ hội hiếm có đối với Tiểu Huyền Tử và cũng cảm thấy thú vị hơn hẳn Vi Tiểu Bảo. Tiểu Huyền Tử hết sức trân trọng tình bạn này. Sau này, cuối cùng Vi Tiểu Bảo biết Tiểu Huyền Tử là hoàng đế, gã từng sợ vã mồ hôi lạnh, nhưng vì Tiểu Huyền Tử và Tiểu Quế Tử đã thành “đôi bạn thân”, dĩ nhiên hai đứa vẫn tiếp tục đùa giỡn với nhau. Đối với hoàng đế Tiểu Huyền Tử, tình bạn này là hiếm có, nên không chỉ được duy trì, mà còn được củng cố sâu thêm. Vi Tiểu Bảo nhanh chóng trở thành người thân tín số một trong triều đình mà ai cũng biết. Đương nhiên, càng lớn tuổi, quan hệ giữa Vi Tiểu Bảo với hoàng đế Tiểu Huyền Tử càng phức tạp hơn.

Giao tình hồi còn đánh vật nhau chỉ là nền tảng quan trọng, chứ sự tiếp tục phát triển và thay đổi dĩ nhiên còn do các nguyên nhân khác. Tổng kết lại, có ba điểm dưới đây. Thứ nhất, Vi Tiểu Bảo không chỉ biết đánh vật, mà còn giỏi xã giao, biết nghe giọng nói, nhìn sắc mặt mà lựa lời chiều ý, càng giỏi a dua nịnh bợ. Có gã ở bên cạnh, hoàng đế Tiểu Huyền Tử thường là rất vui Chẳng hạn khi gã phát hiện hoàng đế Tiểu Huyền Tử không thật mặn mà với “giao tình” giữa hai người, càng không muốn người ngoài hay biết, thì Vi Tiểu Bảo bèn chủ động xuống cấp, bái hoàng đế Tiểu Huyền Tử làm thày. Bái sư không phải để học cái gì, mà chỉ cốt để củng cố quan hệ thêm vững chắc. Thứ hai, Vi Tiểu Bảo lập được không ít công trạng, có thể nói gã là phó tướng của hoàng đế Tiểu Huyền Tử. Nói về việc Vi Tiểu Bảo lập được không ít công trạng, có phần tác giả phải hư cấu, song phần khác cũng rất có lý.

Bởi nguyên nhân cơ bản nhất, Vi Tiểu Bảo là người thân tín số một của hoàng đế Khang Hy, văn võ trong triều ai mà chẳng biết. Có “vương bài” trong tay, Vi Tiểu Bảo vô hình trung làm bất cứ việc gì cũng thuận lợi. Hoàng đế Tiểu Huyền Tử tuy được tiếng sáng suốt, nhưng vị tất hiểu ra điều đó. Tiểu Huyền Tử cho rằng Vi Tiểu Bảo chẳng có quyền thế gì so với mình, mà có thể đi khắp thiên hạ chỗ nào cũng lọt, thế thì mình cũng có thể xuất cung công cán, há chẳng phải là làm chơi ăn thật hay sao? Nghĩa là hoàng đế Tiểu Huyền Tử coi Vi Tiểu Bảo như người thay mình, có thể trong trí tưởng tượng thoả mãn ham muốn và thói hư vinh tiềm ẩn trong mỗi cá nhân. Thứ ba, giữa hoàng đế Tiểu Huyền Tử và Vi Tiểu Bảo cuối cùng có bao nhiêu chân tình? Điều này khó nói. Một mặt, Tiểu Huyền Tử là cô gia quả nhân, tuy bảo là nhất hô bách ứng, song cũng không thể nào có bạn tri kỷ.

Cho nên Vi Tiểu Bảo đối với hoàng đế là người rất quí. Vì thế, khi Vi Tiểu Bảo trốn khỏi kinh thành, hoàng đế Tiểu Huyền Tử nhớ gã vô cùng, không chỉ sai người đi tìm gã, mà còn viết thư theo : “Tiểu Quế Tử, mẹ nó chứ, ngươi đi đâu vậy hả? Ta nhớ ngươi vô cùng, ngươi là gã thối tha vô tình vô nghĩa, quên mất lão tử rồi sao?” “Ta sắp cưới vợ, ngươi không đến uống rượu mừng, lão tử sẽ rất buồn đó”. (Xem Lộc đỉnh ký). Mấy lời này phải nói là chân tình, chứng tỏ quan hệ giữa hai người khá thân mật, bình đẳng, song không thật vững chắc. Mấy điều vừa nói cũng làm cho hình tượng Tiểu Huyền Tử đầy tính người. Nói quan hệ giữa hoàng đế Tiểu Huyền Tử với Vi Tiểu Bảo không thật vững chắc, đó là sự thể nghiệm thiết thân của Vi Tiểu Bảo. Hai người kết bạn không lâu, thì Vi Tiểu Bảo phát hiện vị tiểu hoàng đế càng lớn tuổi thêm chút nào, uy quyền càng cao thêm chừng ấy, thái độ cũng ngày càng nghiêm trang hơn, khiến Vi Tiểu Bảo cảm thấy ngày càng lo sợ hơn. Lý do rất đơn giản, vì Tiểu Huyền Tử là hoàng đế, hơn nữa là một vị hoàng đế tài giỏi.

Mà hoàng đế càng tài giỏi thì càng đáng sợ. Nói hoàng đế đáng sợ, vì hoàng đế có địa vị đặc biệt, hoàng đế không chỉ có quyền lực tối cao, tuyệt đối mà còn có nếp nghĩ và quan niệm giá trị đặc biệt riêng. Càng đáng sợ hơn là hoàng đế có tâm lý cá nhân cực kỳ khác biệt, gọi là cái uy khó lường của bậc quân vương. Khang Hy trưởng thành đã không còn là Tiểu Huyền Tử, đương nhiên cũng không thể đùa giỡn như xưa. Về điểm này, Vi Tiểu Bảo thấm thía hơn cả : gã giữ chức hương chủ trong Thiên Địa hội, cứ tưởng là quỉ thần không hay biết, ai ngờ hoàng đế Tiểu Huyền Tử biết rõ việc đó như trong lòng bàn tay : hoàng đế đã sớm sai người lọt vào nội bộ bang hội bí mật này. Thế rồi bố trí mấy lớp pháo đội xung quanh phủ bá tước của Vi Tiểu Bảo, tóm được đủ cả người lẫn tang vật tiêu diệt toàn bộ đầu não của Thiên Địa hội.

Cuối cùng, thâm độc nhất, còn phân bố thánh chỉ nói Vi Tiểu Bảo đã “bắt được và chém đầu bọn thủ lĩnh phản nghịch Trần Cận Nam, Phong Tế Trung...” không chỉ xác định bọn tay sai đã chết là loạn đảng, mà quan trọng hơn, là gán cho Vi Tiểu Bảo cái tội sát sư, làm cho gã bị thiên hạ phỉ nhổ, từ nay không thể nào bước chân vào giang hồ được nữa. Vi Tiểu Bảo nói với hoàng đế Khang Hy, rằng gã dầu có bảy mươi hai phép biến hoá như Tề Thiên Đại Thánh, cũng không thoát khỏi lòng bàn tay Phật Như Lai của Khang Hy; câu này không đơn thuần nịnh bợ, mà quả là có thâm ý. Đương nhiên, con khỉ Vi Tiểu Bảo ấy cuối cùng vẫn mang theo bảy phu nhân của gã chạy trốn mất tiêu. Cuộc chạy trốn của Vi Tiểu Bảo là bằng chứng về chuyện “không dễ đùa giỡn” với Khang Hy.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

II

Hình tượng Khang Hy trong Lộc đỉnh ký có điểm rất mới, chỉ tiếc yếu tố nghệ thuật mới mẻ ấy lộ ra có một nửa, từ Tiểu Huyền Tứ đến đại hoàng đế, bút pháp của tác giả lại đi quay về con đường truyền thống miêu tả minh quân. Một số độc giả và nhà bình luận rất có phản cảm với lối miêu tả hình tượng nhân vật này là có lý của họ, nói nôm na thì hình tượng Khang Hy đã bị mỹ hoá. Bình tâm mà xét, Khang Hy đúng là một trong những vị hoàng đế tốt nhất, vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc. Theo tư duy của tác giả, so với các vị hoàng đế người Hán của nhà Minh, thành tựu của Khang Hy càng nổi bật hơn hẳn.

Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung tiên sinh từ lập trường Hán tộc hẹp hòi chuyển biến lên chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, coi trọng các dân tộc thiểu số trong dân tộc Trung Hoa như nhau, đương nhiên là quan điểm tiến bộ, nhưng vấn đề là tác giả miêu tả hình tượng “vị hoàng đế” Khang Hy quá ưu việt, lại thành ra dở. Trong Lộc đỉnh ký, tác giả tả Khang Hy có đủ thành tựu văn trị võ công, mọi đặc trưng trí tuệ phẩm hạnh, không chỉ là minh quân, mà còn là một ông vua nhân đức. Còn đối với một số phương diện khác, tác giả hầu như không đả động tới, điều đó đương nhiên có thể nói là hạn chế nổi bật của loại hình tiểu thuyết võ hiệp truyền kỳ. Nhưng chính Kim Dung tiên sinh đã viết trong lời bạt cuối sách Lộc đỉnh ký : “Nhân vật trong tiểu thuyết nếu thập phần hoàn mỹ, thì khó tránh sự thiếu chân thực.

Tiểu thuyết phản ánh xã hội, hiện thực xã hội không có người nào tuyệt đối hoàn mỹ”. Tác giả trong bộ sách này đã tả một điển hình không hoàn mỹ là Vi Tiểu Bảo, lại đồng thời tả một điển hình gần như hoàn mỹ là Khang Hy. Ở một ý nghĩa nào đó, tác giả vô tình hay hữu ý dùng hình tượng tên vô lại trâng tráo Vi Tiểu Bảo làm nền cho hình tượng Khang Hy anh minh. Một ví dụ đầy ẩn ý trong sách là việc hư cấu một thái hậu giả Mao Đông Châu - mọi chuyện về bà này đương nhiên đều do tác giả hư cấu nên. Mao Đông Châu “nằm vùng” trong hoàng cung nhiều năm, sau Vi Tiểu Bảo bắt được, giao cho Khang Hy.

Tâm tình của Khang Hy đối với Mao Đông Châu cực kỳ phức tạp. Phản ứng đầu tiên của Khang Hy là bà này đã hại chết mẹ đẻ của Khang Hy, làm cho phụ hoàng phải xuất gia, giam cầm thái hậu thật mấy năm, khiến Khang Hy từ nhỏ hoá thành người không cha không mẹ, tội ác của Mao Đông Châu thật tày trời. Phản ứng thứ hai là “Trong thâm cung, người thật sự tử tế với ta, e chỉ có người phụ nữ này và cái gã Tiểu Quế Tử giảo hoạt mà thôi”. Nhưng phản ứng sâu xa hơn là trong đáy lòng lờ mờ cảm thấy “Nếu bà ta không hại chết Đổng Ngạc phi và Vinh Thân vương con trai của Đổng phi, thì phụ hoàng sủng ái Đổng phi như thế, ngôi báu nhất định sẽ truyền cho Vinh Thân vương. Ta chẳng những không được làm hoàng đế, mà còn lo tính mạng khó toàn. Như vậy, người phụ nữ này phải nói là có công với ta”. (Xem Lộc đỉnh ký). Tả tâm lý như thế là rất hay.

Sau đó tác giả viết : “Mấy năm trước, Khang Hy còn nhỏ tuổi, chỉ cảm thấy đại hận lớn nhất trên thế gian là mất cha mất mẹ ; nhưng giờ đây khi chính Khang Hy nắm chính sự, mới hiểu thấm thía rằng nếu ngai vàng bị kẻ khác cướp mất, thì vạn sự thành số không, trong nội tâm Khang Hy đã thấy quyền lực đế vương quan trọng hơn lòng từ ái của cha mẹ”. Tổng kết thế đương nhiên không sai, vấn đề là tiếp đó có câu này : “Chỉ có điều việc này không thể nói ra, ngay trong lòng cũng không được nghĩ thế, để tránh tội nghiệt thêm nặng”. (Xem Lộc đỉnh ký).

Một câu này đủ xoá bỏ toàn bộ nội dung trước đó, làm cho Khang Hy trở thành một vị thánh. Thực tế, tác giả không chỉ dùng Vi Tiểu Bảo làm nền cho hình tượng Khang Hy, mà đáng sợ hơn, đem cả triều đình văn võ làm nền cho vị hoàng đế vĩ đại. Các nhân vật lịch sử trong sách như Sách Ngạch Đồ, Minh Châu ...chẳng những không có một chút thành tựu lịch sử nào đáng phải có, mà ngược lại, tất cả bọn họ chỉ toàn là một bọn tham công danh phú quí, giỏi tâng bốc nịnh bợ, vô tri vô dũng. Trong sách có một đoạn tả tâm lý của Khang Hy sau khi nghe Vi Tiểu Bảo nịnh hót “Triều đình không có đại tướng, tự ta là đại tướng rồi, câu này kể cũng đúng. Tám chữ “Tuy bại không loạn, bình tĩnh như không , trừ ta ra, chẳng có đại thần tướng soái nào trong triều làm được như thế cả”. (Xem Lộc đỉnh ký).

Câu này nếu chỉ tả sự kiêu ngạo tự cho mình là đúng của một cô gia quả nhân thì rất hay, có điều là chúng ta thấy tình hình trong sách đúng như thế cả. Trong triều đình Khang Hy không có bất cứ nhân vật nào có được một phần trăm đức độ và tài trí như Khang Hy! Đáng sợ cũng chưa phải là bản thân việc thiết kế và miêu tả chuyện đó, mà là quan niệm giá trị và nếp nghĩ hình thành dưới thể chế truyền thống đằng sau chuyện đó. Ấy là mọi công lao của đại thần văn võ đều qui cho một mình hoàng đế, đều thể hiện sự sáng suốt vĩ đại của một cá nhân, đều chứng tỏ “thiên tử thánh minh”; ngược lại, mọi sai phạm của đại thần văn võ đều qui cho kẻ khác, không liên quan tới hoàng đế, do đó, hoàng đế vĩnh viễn là “thiên tử thánh minh”; “thiên tử thánh minh” là một “chân lý” bất di bất dịch. Càng tiêu biểu phải nói là lời Khang Hy nói với Vi Tiểu Bảo khi ca ngợi trước tác Minh di đãi phỏng lục của nhà tư tưởng Hoàng Tông Hy : “Sách ông ta viết, làm vua là một người hầu thiên hạ, chứ không phải thiên hạ hầu một người. Ý này rất đúng.

Sách lại viết, “thiên tử cho là đúng vị tất đã đúng, thiên tử bảo sai vị tất đã là sai”, câu này cũng đúng. Có ai không sai nào? Thiên tử cũng là người, không lẽ khi làm hoàng đế, thì làm gì cũng đúng, chẳng bao giờ sai hay sao? Rồi Khang Hy đọc to nguyên văn viết trong trước tác của Hoàng Tông Hy : “Cho rằng quyền lợi hại của thiên hạ đều do ta mà ra, ta gom hết cái lợi trong thiên hạ về cho mình, đẩy hết cái hại trong thiên hạ cho kẻ khác, ta đều làm được cả. Làm cho người trong thiên hạ không dám tự tư, không dám tư lợi. Lấy cái đại riêng tư của ta làm thành cái công của thiên hạ.Thoạt đầu còn ngượng, lâu dần quen đi, coi thiên hạ là sản nghiệp của mình mà truyền cho con cháu mình hưởng phúc mãi mãi”. (Xem Lộc đỉnh ký). Những lời này rất có lý, giải thích cũng đúng, có điều là từ miệng hoàng đế Khang Hy nói ra, chẳng hoá ra làm đẹp mặt Khang Hy hay sao?

Thử nghĩ, một vị hoàng đế cho rằng “trừ ta ra, chẳng có đại thần tướng soái nào trong triều làm được như thế cả”, làm sao lại đi tán thưởng câu “thiên tử cho là đúng, vị tất đã đúng, thiên tử bảo sai, vị tất đã là sai” được kia chứ? Khang Hy sẽ không đời nào thay đổi cục diện chính trị chuyên chế truyền thống “ta gom hết cái lợi trong thiên hạ về cho mình, đẩy hết cái hại trong thiên hạ cho kẻ khác”, mà ngược lại, sẽ ra sức duy trì nó. Cứ theo cách miêu tả của Kim Dung tiên sinh, hoàng đế Khang Hy sáng suốt như thế, chắc sẽ xây dựng chế độ quân chủ lập hiến, dân chủ.

Sự thực hoàng đế Khang Hy không xây dựng, con cháu ông ta cũng đương nhiên không xây dựng, cho đến khi nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Xương hai trăm năm sau, cũng chưa xây dựng. Đáng chú ý là Kim Dung tiên sinh yêu quí hoàng đế Khang Hy như thế, cứ không tiếc gom công lao của thiên hạ về cho Khang Hy, đẩy cái hại trong thiên hạ cho người khác. Sở dĩ như vậy, tôi đoán rằng tác giả cũng như bao nhiêu người Trung Quốc trong đáy lòng vẫn cứ nuôi giấc mộng có một vị minh quân, cái giấc mộng làm họ trăn trở mấy ngàn năm nay rồi.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

49
TRẦN CẬN NAM
Anh hùng mạt lộ


Trần Vĩnh Hoa là một nhân vật lịch sử, từng có đóng góp quan trọng trong quá trình lịch sử thu hồi và xây dựng Đài Loan, được coi như một vị anh hùng trong lịch sử Trung Quốc. Nhân vật lừng danh Trần Cận Nam trong Lộc đỉnh ký, tuy nói là hoá danh của Trần Vinh Hoa trên giang hồ, song hình tượng và phần lớn câu chuyện đều là hư cấu của tác giả. Có thể nói nhân vật này là một anh hùng mạt lộ điển hình -cá nhân Trần Cận Nam thành anh hùng mạt lộ, cũng là người anh hùng võ hiệp cuối cùng của ngòi bút Kim Dung.

Kết cục câu chuyện cuộc đời Trần Cận Nam được coi là tấm bia, cột mốc cuối cùng trong lịch sử tiểu thuyết võ hiệp và văn hoá võ hiệp. Nhưng trên tấm bia ấy viết gì đây, thật là một câu hỏi khó. Nói về võ công và nhân phẩm, Trần Cận Nam đương nhiên đủ tiêu chuẩn là một anh hùng hiệp nghĩa, hơn nữa, còn là một bậc đại hiệp vì nước vì dân như Quách Tĩnh. Thế nhưng nhìn từ đầu chí cuối thấy bề ngoài có vẻ oanh liệt lắm, thực ra chỉ là một cuộc đời hết sức tầm thường, cuối cùng còn chết một cách oan uổng, khiến người ta không khỏi lấy làm khó hiểu.

I

Thiên địa hội coi trời là cha, đất là mẹ, coi thiên hạ là nhiệm vụ của mình. Với tư cách Tổng đà chủ của Thiên địa hội, Trần Cận Nam phải là một tấm gương tốt về mặt đó. Nhiều người cũng mong Trần Cận Nam có thể trở thành một nhân vật anh hùng, đại diện cho nguyện vọng của người Hán trong thiên hạ, cho trào lưu lịch sử. Nhưng chúng ta thấy Trần Cận Nam làm sao có thể vượt ra khỏi sự trói buộc của hiện thực và giới hạn lịch sử? Trước hết, mục tiêu căn bản của Trần Cận Nam và Thiên địa hội là phản Thanh phục Minh (chống nhà Thanh, khôi phục nhà Minh), bản thân cái đó đã là một hạn chế của lịch sử. Đứng trên lập trường dân tộc Hán, cái tình cảm trừ bỏ dị tộc, phục hồi giang sơn của người Hán ấy đương nhiên có thể thông cảm; nhưng từ tầm cao lịch sử chính trị mà xét, cuộc phản Thanh phục Minh rốt cuộc có thể đem lại điều gì tốt đẹp cho người Hán trong thiên hạ hay không, thì còn là một nghi vấn lớn. Trong cùng một thể chế chuyên chế vương quyền, hoàng đế Khang Hy so với bất cứ vị hoàng đế họ Chu nào của nhà Minh cũng đều sáng suốt hơn, quốc gia của thời Khang Hy so với bất cứ thời nào triều Minh cũng đều cường thịnh hơn. Trần Cận Nam và Thiên địa hội nếu không quên tội ác đẫm máu “mười ngày Dương Châu và “tam đồ Gia Định” sau khi người Thanh tiến vào nội địa, thì cái nhân chính trong việc phục hồi lý tưởng người Hán đương nhiên có thể chấp nhận.

Nhưng mục đích chống Thanh lại chỉ là để phục hồi sự “chính thống” của triều Minh, thì rõ ràng là không cao cả, là hạn chế của lịch sử. Hơn nữa, vấn đề còn ở chỗ dù là phản Thanh phục Minh, song họ muốn phục hồi “chính thống Long Võ”, hay là “chính thống Vĩnh Lịch” của triều Minh, Đường vương hay Quế vương, Chu tam thái tử hay Chu ngũ thái tử, còn là cả một vấn đề. Thiên địa hội muốn phản Thanh phục Minh, tập đoàn Mộc vương phủ ở Vân Nam cũng muốn phản Thanh phục Minh; lập trường phản Thanh cố nhiên giống nhau, nhưng mục tiêu phục Minh thì khác nhau. Cụ thể là Thiên địa hội muốn ủng hộ Chu tam thái tử, còn Mộc vương phủ thì muốn ủng hộ Chu ngũ thái tử. Trần Cận Nam tuy cố tìm cách tránh sự phân tranh giữa đồng đạo, nhưng lập trường chính trị của Trần không rõ ràng :“Trời không có hai vầng dương, dân không thể có hai chúa. Chu tam thái tử đang Ở Đài Loan. Đài Loan có mấy chục vạn quân dân, Thiên địa hội có mấy chục vạn huynh đệ, đã ủng hộ Chu tam thái tử từ sớm”.(Xem Lộc đỉnh ký).

Xem ra, về vấn đề này, Trần Cận Nam rõ ràng còn không bằng Lý Tây Hoa là kẻ ít tuổi hơn nhiều: “Sau này con cháu họ Chu có bao nhiêu công lao, hiện giờ chẳng ai biết cả”, “Việc dựng vị vua mới, là chuyện sau khi đánh đuổi Thát tử, chúng ta lo rằng đánh Thát tử chẳng xong, còn chuyện dựng ai làm vua mới thì tốt, cuối cùng sẽ tìm được thôi”. (Xem Lộc đỉnh ký ). Đối với Trần Cận Nam, quan hệ lợi hại thật sự không chỉ là ủng hộ Đường vương hay Quế vương, mà quan trọng hơn còn là hai thế lực xung đột nhau trong “á triều đình” Bình quận vương phủ họ Trịnh ở Đài Loan, xung quanh hai đứa cháu gọi anh hùng Trịnh Thành Công là ông, tức Trịnh Khắc Tạng và Trịnh Khắc Sảng. Trần Cận Nam ủng hộ huynh trưởng Trịnh Khắc Tạng là con của thứ mẫu, trong khi Phùng Tích Phạm thì ủng hộ Trịnh Khắc Sảng.

Hai phái không ngừng minh tranh ám đấu với nhau, cơ hồ không đội trời chung. Tình hình thực tế hoá ra Trần Vĩnh Hoa là nhạc phụ của Trịnh Khắc Tạng, còn Phùng Tích Phạm là nhạc phụ của Trịnh Khắc Sảng; bố vợ ủng hộ con rể tranh giành quyền lợi, lý do rất giản đơn, khỏi cần nhiều lời. Thú vị là ở chỗ, về sự thực hệ trọng ấy, tác giả miêu tả rất sơ sài, chỉ chú trọng tả Trịnh Khắc Tạng thành một vị lãnh đạo vừa tài giỏi vừa rộng lượng, chỉ vì Tạng không phải là con bà vợ cả sinh ra, mà là kết quả Trịnh Kính tư thông với chị vú em, cho nên luôn bị Đổng thị phu nhân Trịnh Thành Công và bọn Phùng Tích Phạm căm ghét. Đối với Đổng thị lão phu nhân và bọn Phùng Tích Phạm thì đứa cháu thứ hai Trịnh Khắc Sảng bất tài vô đức, nhưng là đích tôn, nên quan trọng hơn thằng anh cùng cha khác mẹ của nó vạn lần. Thế là xung quanh hai anh em họ Trịnh hình thành hai trận doanh rất rõ ràng.

Lối miêu tả khen chê rõ ràng của tác giả đối với hai anh em họ Trịnh, tuy khó tránh bên trọng bên khinh, nhưng cũng phù hợp qui tắc thông thường của tiểu thuyết truyền kỳ. Ý đồ của tác giả là không để hình tượng anh hùng Trần Cận Nam bị ảnh hưởng bởi lập trường tư tình cá nhân, mà cố tả Trần Cận Nam thành một người nhất mực chí công vô tư, song rốt cuộc cũng không thể thay đổi bi kịch của người anh hùng chống chọi với sóng dữ. Cục diện lịch sử nói trên quả thật Trần Cận Nam không thể thay đổi nổi. Trần Cận Nam tài giỏi mấy cũng không thể thay đổi cái tính xấu tư tâm tự lập, thiếu đoàn kết của dân tộc Hán.

II

Làm Tổng đà chủ của Thiên địa hội, một vị anhhùng được thiên hạ kính ngưỡng. Trần Cận Nam tuy trước sau tận tâm kiệt lực, nhưng cuối cùng chẳng làm nên trò trống gì . Sở dĩ như vậy, ngoài nguyên nhân hạn chế của lịch sử và hiện thực bên ngoài, hiển nhiên còn do nguyên nhân tính cách bên trong của Trần Cận Nam. Trong bộ tiểu thuyết, phục Hán hay phục Minh, ủng hộ Đường vương hay Quế vương, ủng hộ con cả hay con thứ, bề ngoài là phạm vi chính trị, thực chất là sự tranh giành quyền lực. Ngoài ra, nội bộ Thiên địa hội, cụ thể là trong Thanh Mộc đường của Thiên địa hội, cũng có sự tranh chấp quyền lực cho ai làm hương chủ.

Nếu bảo Trần Cận Nam không làm chủ được những việc ở bên ngoài Thiên địa hội, thì về lý mà nói, Trần Cận Nam phải có quyền tuyệt đối về chuyện tranh chức hương chủ trong nội bộ Thiên địa hội. Vậy mà chẳng hiểu vì bận bịu, hay vì căn bản không tìm ra biện pháp thích hợp, vấn đề trên cứ bỏ ngỏ không quyết, để Thanh Mộc đường chia năm xẻ bảy, chút nữa thì đánh nhau to. Phải đến khi Vi Tiểu Bảo xuất hiện, Trần Cận Nạm cuối cùng mới nghĩ ra được một biện pháp hết sức bất ngờ với mọi người, tức là căn cứ lời thề của huynh đệ Thanh Mộc đường, ai giết được Ngao Bái báo thù cho hương chủ tiền nhiệm, người ấy sẽ lên làm tân hương chủ Thanh Mộc đường, Trần Cận Nam nhận Vi Tiểu Bảo làm đệ tử, sau đó đưa Vi Tiểu Bảo gia nhập hội, rồi cho hắn làm hương chủ Thanh Mộc đường.

Việc này xem ra rất sáng suốt, là một mũi tên nhắm hai đích, vừa hồi ứng lời thề của mọi người, vừa chấm dứt sự giành giật trong nội bộ; nhưng ai có chút đầu óc cũng đều nghi ngờ: để một gã thiếu niên như Vi Tiểu Bảo làm hương chủ thì thật là loạn. Thứ nhất, chẳng ai biết lai lịch thật sự của Vi Tiểu Bảo, cũng chưa có điều tra thử thách gì đối với gã, đã cho giúp vào hội, như thế là vi phạm nguyên tắc tổ chức của Thiên địa hội. Thứ hai, Vi Tiểu Bảo hiển nhiên là một kẻ mồm mép giảo hoạt, võ công thấp kém, tư cách xấu xa, làm sao có thể bảo đảm gã sẽ giữ bí mật cho Thiên địa hội? Thứ ba, giả dụ Vi Tiểu Bảo có lý lịch trong sạch và tư cách chưa đến nỗi quá tệ, nhưng một gã thiếu niên mười ba, mười bơn tuổi như thế làm sao đảm đương nổi trọng nhiệm hương chủ kia chứ?

Về chuyện đó, Trần Cận Nam hầu như không cần suy nghĩ, tựa hồ tin vào “mệnh trời”, cậu bé ấy đã giết Ngao Báo tức là trời sai xuống làm hương chủ. Nếu ai hỏi Trần Cận Nam dựa vào đâu mà tín nhiệm Vi Tiểu Bảo, hẳn Trần Cận Nam cứng lưỡi. Bấy giờ Trần Cận Nam từng nói với Vi Tiểu Bảo: “Nhận ngươi làm đệ tử, chỉ e sẽ là sai lầm lớn nhất của đời ta. Nhưng lấy đại sự thiên hạ làm trọng, cũng đành mạo hiểm một chuyến”. Việc mạo hiểm thì đã rõ, riêng việc “lấy đại sự thiên hạ làm trọng” thì độc giả nghĩ nát óc cũng chẳng hiểu thế nào.

Trần Cận Nam nhận Vi Tiểu Bảo làm đệ tử, rồi cho gã làm hương chủ, một là vị anh hùng giết Ngao Bái nay thành đệ tử của Trần Cận Nam, hai là cho đệ tử của mình làm hương chủ, thử hỏi mọi người trong Thiên địa hội ai dám không nể mặt Trần Cận Nam? Điều lý thú là cái chiêu tưởng chừng ngớ ngẩn này của Trần Cận Nam lại hoá hay. Vi Tiểu Bảo khôngchỉ làm tốt vai trò hương chủ, lập nhiều công trạng, mà luận về bất cứ ý nghĩa nào, thì thành tựu của đồ đệ Vi Tiểu Bảo cũng khiến cho sư phụ của gã thua xa gã. Điều đó không hề chứng tỏ sự sáng suốt của Trần Cận Nam đã đành, lại còn là một thứ châm biếm đối với Trần Cận Nam.

Bởi tuy nói Vi Tiểu Bảo là đệ tử của Trần Cận Nam, nhưng chỉ là hữu danh vô thực, không hề học bất cứ công phu gì của sư phụ, hơn nữa, phương pháp đi tới thành công của Vi Tiểu Bảo đều không phải học của sư phụ, mà toàn là cách sư phụ hoặc không biết, hoặc căm ghét, hoặc phản đối. Tuy tôi không nỡ nói thế này, nhưng Trần Cận Nam cả đời không làm nên trò gì, rõ ràng có liên quan mật thiết với tư chất tầm thường bất tài của y. Y tuy võ công cao cường, uy vọng lớn, song trước sau chẳng thấy y có bất cứ biểu hiện gì của tài lãnh đạo và trí tuệ chính trị tương xứng với địa vị của y. Nói phản Thanh phục Minh, nhưng một là không cương lĩnh, hai là không hành động.

Nói đánh đổ Ngô Tam Quế, nhưng một là không có kế hoạch, hai là không hành động. Ví dụ rõ nhất là khi đứa con ngớ ngẩn của vợ chồng Qui Tân Thụ nghe lời xúi của Ngô Tam Quế, giết chết hương chủ Hồng kỳ của Thiên địa hội là Ngô Lục Ký, mà Tổng đà chủ Trần Cận Nam vẫn hoàn toàn không biết cách đối phó. Rồi cả nhà họ Qui định vào hoàng cung giết Khang Hy, Vi Tiểu Bảo tìm mọi cách ngăn cản, đôi bên tranh chấp không xong, Trần Cận Nam cũng chẳng có định kiến. Sau Vi Tiểu Bảo nghĩ ra cách hoang đường là gieo con xúc xác để quyết định, Trần Cận Nam lại cho rằng cách làm vớ vẩn đó “rất có lý”, còn nói: “Việc này hết sức trọng đại, rốt cuộc đại nghiệp quang phục của chúng ta là phúc hay hoạ, thật là khó đoán. Cổ nhân dùng bói toán để quyết định, chúng ta gieo xúc xắc cũng là cách hay. Mọi người đừng tranh chấp nữa, hãy theo ý trời mà hành sự”. (Xem Lộc đỉnh ký). Càng tức cười hơn, trong lúc gieo xúc xắc, Vi Tiểu Bảo phát hiện Qui Tân Thụ dùng miệng thổi con xúc xắc thì vị tổng đà chủ Thiên địa hội uy danh lừng lẫy lại làm ngơ, coi như không thấy.

III

Trần Cận Nam cuối cùng chết bởi tay vị thiếu chủ Trịnh Khắc Sảng của y, là một đoạn đặc sắc trong bộ tiểu thuyết. Giả sử chúng ta không biết hoặc giả vờ không biết, Trần Vĩnh Hoa là nhạc phụ của Trịnh Khắc Tạng, anh trai và kẻ thù chính trị của Trịnh Khắc Sảng, thì ngòi bút miêu tả càng đặc sắc hơn. Cái vị anh hùng quá nửa đời phấn đấu cho đại nghiệp phản Thanh phục Minh này cuối cùng lại chết hoàn toàn không phải trên trận tuyến phản Thanh phục Minh, mà ngay trong cuộc tranh chấp nội bộ tập đoàn của mình, một cái chết vô giá trị. Bất cứ xem xét từ phương diện nào, một kết cục như vậy cũng đều hết sức bất ngờ.

Tôi nói đoạn miêu tả đó đặc sắc, bởi vì tác giả biểu thị một bí mật giữ kín từ trước tới giờ của Vi Tiểu Bảo: “Hắn vốn không hề có cha, trong đáy lòng hắn vốn coi sư phụ như cha mình để bù vào chỗ trống kia, có điều là tự hắn không biết mà thôi; bây giờ sư phụ chết đi, nỗi đau đớn trong lòng trào ra như nước vỡ đê khó bề kìm nén; thì ra hắn vốn là một đứa trẻ đi hoang, không có cha”. (Xem Lộc đỉnh ký). Đọc đến dòng chữ bộc lộ bí mật lòng dạ con người, tôi rưng rưng nước mắt. Tôi nói đoạn miêu tả đó đặc sắc, còn có một nguyên nhân quan trọng hơn, là kết cục bi thương của cuộc đời Trần Cận Nam có một sức lay động đạo đức mạnh mẽ.

Về một ý nghĩa nhất định mà nói, Trần Cận Nam tuy sinh tiền có tiếng anh hùng, nhưng kỳ thực bất lực; Trần Cận Nam bị gã thiếu chủ của y sát hại tàn nhẫn như vậy, tưởng là chết vô giá trị, song thực ra đã hoàn thành hình tượng anh hùng đạo đức của mình. Trần Cận Nam tuy không làm nên trò trống gì, nhưng thuỷ chung cúc cung tận tuỵ, tuy bị chết oan uổng, song chẳng những không để cho Vi Tiểu Bảo sát hại người của mình, mà còn để lại di ngôn “Thà hắn phụ ta, ta không thể bất nghĩa”, “Người Hán chúng ta đồng tâm hiệp lực, cuối cùng sẽ khôi phục được giang sơn”, làm sao không khiến mọi người thương tiếc và kính trọng y?

Ý của tác giả là, ý nghĩa thật sự của hình tượngTrần Cận Nam và câu chuyện đời y không phải ở chỗ y có làm nên công trạng gì, mà là ở giá trị đạo đức mà y thể hiện. Trong sách Lộc đỉnh ký, nếu nói hình tượng nhân vật tên vô lại hèn hạ Vi Tiểu Bảo làm nền cho hoàng đế Khang Hy vĩ đại sáng suốt, thì sự tầm thường bất tài của Trần Cận Nam làm nền cho tài cán hiển hách của Vi Tiểu Bảo. Nhưng hình tượng minh quân của Khang Hy không thể có ý nghĩa văn hoá bằng hình tượng nhân vật Vi Tiểu Bảo, mà hình tượng Vi Tiểu Bảo tài cán hiển hách thì làm sao bằng hồi quang phản chiếu đạo đức sáng ngời của hình tượng Trần Cận Nam?

Đương nhiên, bất kể tác giả vô tình hay cố ý, cái chết của Trần Cận Nam trong Lộc đỉnh ký đã vạch rõ sự đổ vỡ hoàn toàn của một thế giới đạo đức truyền thống mang tính hư cấu rõ rệt và bước đường cùng của người anh hùng hiệp nghĩa cổ điển. Thành công của Vi Tiểu Bảo và thất bại của Trần Cận Nam thì rõ ràng dự báo rằng lịch sử một dân tộc đã bước vào buổi hoàng hôn đạo đức sa sút, thế tục nhơ nhớp.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

50
A KHA
Số phận đau buồn


Cái đắc ý nhất đời của gã Vi Tiểu Bảo khôngphải là được phong tướng phong hầu, mà như chính gã nói, “Ta có bảy phu nhân đẹp như hoa như ngọc, thiên hạ không thể tìm đâu ra nữ nhân thứ tám đẹp tới mức này. Hoàng thượng hồng phúc ngang trời, Vi Tiểu Bảo ta diễm phúc ngang trời. Vua tôi hai ta mỗi người đều có cái phúc ngang trời của mình”. (Xem Lộc đỉnh ký).

Sau câu nói khoác của y, như trong sách viết, bảy phu nhân của gã cười mãi không dứt. Như thế nghĩa là A Kha cũng cười như các phu nhân khác, có điều không biết lúc ấy trong lòng nàng thật sự cảm thấy thế nào. Trong bảy phu nhân của Vi Tiểu Bảo, A Kha không chỉ là người đẹp nhất, thân thế cũng rắc rối bí ẩn nhất, mà còn là người Vi Tiểu Bảo khó lấy được nhất, hao tốn sức lực nhiều nhất! Vì vậy, chuyện của A Kha đáng được bàn tới.

I

Chuyện của A Kha quả khá bí ẩn. Không chỉ là việc mẫu thân của A Kha là Trần Viên Viên cuối cùng đã theo Ngô Tam Quế đi Vân Nam, sao lại còn có thể “đi lại” với Lý Tự Thành để sinh ra A Kha, mà còn là chuyện “Độc tí thần ni” Cửu Nạn sư thái tại sao phải tốn bao công sức bắt cóc cô bé A Kha khỏi mẹ cô bé, đem về nuôi dạy thành sát thủ trở về giết Ngô Tam Quế. Tôi muốn nói, Ngô Tam Quế tuy không tốt đẹp gì, nhưng rốt cuộc Ngô Tam Quế đâu có thâm cừu đại hận trực tiếp gì với nàng công chúa A Cửu cuối đời nhà Minh. Khi Lý Tự Thành bức Sùng Trinh tự sát Ngô Tam Quế vẫn đang trấn giữ Sơn Hải quan cho triều đình nhà Minh; sau đó Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh tiến vào nội địa, đánh bại Lý Tự Thành,thực tế là gián tiếp báo đại cừu cho tôn thất nhà Minh. Vậy thì tại sao công chúa A Cửu hồi ấy, tức Cửu Nạn sư thái sau này, lại căm thù Ngô Tam Quế như vậy chẳng hoá ra đem oán báo ân, quá vô lý hay sao? Hơn nữa, Cửu Nạn sư thái võ công cao cường, muốn giết Ngô Tam Quế có thể nói dễ như trở bàn tay, hà tất phải hao công tốn sức nuôi dưỡng một sát thủ từ bé?

Ngoài ra, vị Cửu Nạn sư thái tuy dấn thân giang hồ nhiều năm, nhưng vẫn giữ nguyên lối sống giàu sang cao quí, làm sao chịuchăm sóc một đứa bé từ nhỏ đến lớn, tự chuốc lấy vất vả phiền toái vào người ? Đương nhiên đó vẫn chưa phải là trọng điểm tôi muốn nói. Tiểu thuyết truyền kỳ, trên thế gian có quá nhiều chuyện lạ, chỉ e kẻ phàm phu tục tử như tôi khó biết. Có khi Cửu Nạn sư thái sau khi mất giang sơn, nhà tan người chết, cô khổ bơ vơ, lưu lạc giang hồ rồi, bây giờ trong lòng hăng lên, muốn tìm tên Hán gian Ngô Tam Quế để gây sự không chừng. Rất nhiều người Hán căm thù Ngô Tam Quế; Cửu Nạn sư thái là công chúa người Hán, bảo nàng căm ghét Ngô Tam Quế cũng phải thôi. Tóm lại, Cửu Nạn sư thái vì sao phải tìm Ngô Tam Quế để chuốc lấy phiền toái, ta cứ tạm cho qua, còn việc Cửu Nạn sư thái tự bày kế hoạch để con gái của Ngô Tam Quế đi giết Ngô Tam Quế, bất kể kết quả có giết được hay không, đều phải coi là một kế hoạch báo thù rửa hận rất cao minh.

Có điều kế hoạch càng cao minh, thì đối với A Kha lại càng tàn khốc. Một thiếu nữ hoàn toàn vô tội bị một người không hề quen biết sử dụng làm công cụ trả thù, bồi dưỡng nàng để nàng đi giết cha mình, trong khi hai cha con đều không hề hay biết, quả là chuyện tàn nhẫn hiếm có trên thế gian. May mà A Kha võ công không cao, nàng không phải là một thích khách, càng may hơn là về sau nàng được biết Ngô Tam Quế không phải là cha ruột của mình, mới thay đổi hẳn tính chất của bi kịch thảm thương kia. Nhưng dẫu có thay đổi hẳn tính chất của bi kịch kia, thì bi kịch của số phận A Kha vẫn không thay đổi. Dù là con của Ngô Tam Quế hay của Lý Tự Thành, đối với nàng cũng không có gì khác nhau.

Mẹ nàng là Trần Viên Viên di truyền cho nàng không chỉ diện mạo xinh đẹp, mà luôn cả số phận bất hạnh. Là con của Ngô Tam Quế, cố nhiên sẽ bị người Hán trong thiên hạ khinh bỉ; mà làm con của Lý Tự Thành thì cũng khó dám ngẩng mặt lên. Càng quan trọng hơn, chính vì là con gái của hai kẻ đó, trên danh nghĩa hoặc trong thực tế, - nàng mới bị người ta biến thành một kẻ mồ côi. Rõ ràng cha mẹ song toàn, vậy mà nàng không biết chân tướng, nên từ nhỏ đã không được hưởng tình yêu thông thường của cha mẹ, thật đáng buồn! Nhưng đáng sợ nhất lại chính là sư phụ Cửu Nạn sư thái của nàng.

Tuy Cửu Nạn sư thái nuôi nàng lớn lên, dạy võ công cho nàng, tuy hai người có danh sư đồ nhưng không có tình sư đồ thật sự. Cửu Nạn sư thái đã coi đệ tử là công cụ thuần tuý để báo thù cho mình, thì đối với con gái của kẻ thù, đương nhiên bà ta không có tình yêu thương gì hết. Điều này càng thấy rõ sau khi Vi Tiểu Bảo trở thành đệ tử của bà ta.Thái độ của Cửu Nạn sư thái đối với gã đệ tử mới còn tử tế hơn nhiều so với A Kha. Như vậy ta có thể hình dung tình cảnh của A Kha từ nhỏ đến lớn, tình cảnh ấy có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính cách và tâm lý của nàng. Tôi thậm chí đoán rằng nếu không trải qua cuộc sống như thế, tính cách của A Kha đã chẳng nông nổi, tâm lý đã chẳng trống trải như vậy, đến mức tự dưng vô cớ chạy đến cổng Thiếu Lâm tự, thánh địa của võ lâm, mà sinh sự.

II

A Kha đến Thiếu Lâm tự, đáng sợ không phải chuyện nàng và sư tỷ A Kỳ bị Thiếu Lâm tự trách phạt vì tội hai người đánh tiểu hoà thượng Thiếu Lâm tự, mà là việc nàng bị Vi Tiểu Bảo đang tạm thời sắm vai hoà thượng ở đó phát hiện. Bắt đầu từ lúc gặp A Kha, Vi Tiểu Bảo phát điên phát rồ, thề có phải vượt rừng đao biển lửa, lên trời hái trăng, xuống biển mò ngọc, cũng không sợ gian khổ hi sinh, kiếp này phải lấy nàng cho bằng được. Điều đó đã quyết định số phận cả cuộc đời của A Kha. Chuyện sau khỏi cần nói nhiều, dù A Kha tức giận, xa lánh, nhiếc móc, cầu xin, căm ghét, chống cự, truy sát,tự sát liều mạng, cũng không làm sao thoát nổi con ma hiếu sắc Vi Tiểu Bảo trâng tráo, mặt dày mày dạn.

Mặc dù thừa biết A Kha đối với hắn đã không một chút cảm tình, còn căm ghét tận xương; mặc dù biết người nàng yêu là chàng trai Trịnh Khắc Sảng cao lớn tuấn tú, song Vi Tiểu Bảo chẳng những không rút lui, mà còn bám riết hơn nữa. Vi Tiểu Bảo tuy không xâm hại bản thân A Kha, nhưng đối với “tình địch” của hắn là Trịnh Khắc Sảng, thì hắn dùng mọi thủ đoạn, mọi lực lượng, làm cho Trịnh Khắc Sảng mất thể diện, điêu đứng khổ sở. Nếu không có sự nghiêm huấn của sư phụ, thì dù Trịnh Khắc Sảng có mười cái mạng, hắn cũng lấy cả mười cái rồi. Đa số độc giả sẽ coi chuyện ấy như một vở hài kịch, thậm chí cho rằng hành động của Vi Tiểu Bảo “chẳng đến nỗi nào”, hắn một mực chung tình, trước sau “đối xử tử tế” với A Kha, mà nàng đòi giết hắn là “có bé xé ra to”.

Họ quên rằng, thực chất, hành động của Vi Tiểu Bảo đối với A Kha là sự cưỡng gian đáng sợ nhất về tinh thần và tâm lý, còn nguy hiểm và tệ hại hơn mọi hành động côn đồ dâm tặc xưa nay. Vi Tiểu Bảo không cưỡng gian thân xác A Kha, nhưng trắng trợn cưỡng gian ý chí của nàng, nghĩ đủ cách phá hoại tình yêu của nàng, hiển nhiên cố ý tước đoạt tự do nhân thân của nàng, không ngừng vũ nhục và chà đạp nhân cách của nàng. Vết thương tinh thần và tâm lý mà Vi Tiểu Bảo gây ra cho A Kha còn nặng gấp trăm lần việc hắn cưỡng gian thể xác nàng. Do đó, A Kha muốn giết Vi Tiểu Bảo hoàn toàn không phải là chuyện “có bé xé ra to mà là bị đẩy vào bước đường cùng, không còn cách nào khác.

A Kha nói: “Tên khốn ấy khinh người quá chừng, thù này không báo, kiếp này ta không thể sống nổi nữa. Ta muốn chặt hai tay hắn, cắt cái lưỡi nói năng bậy bạ của hắn! Con quỉ đó, ta căm hận vô cùng!” (XemLộc đỉnh ký). Để giết được Vi Tiểu Bảo, A Kha không những vạn bất đắc dĩ nhận cha ruột Lý Tự Thành, cầu xin ông ta ra tay trừ khử Vi Tiểu Bảo, mà còn vạn bất đắc dĩ nhận người cha danh nghĩa Ngô Tam Quế, cầu xin Ngô Tam Quế phái người đi trợ giúp kế hoạch của nàng giết Vi Tiểu Bảo. Nếu không căm thù Vi Tiểu Bảo tận xương tuỷ, A Kha sao lại làm như vậy? Trong câu chuyện về A Kha, tác giả vô tình hay cố ý bênh vực hoặc trợ giúp cho Vi Tiểu Bảo. Không phải là tác giả đứng ra biện hộ cho hắn, hoặc che giấu chân tướng việc làm xấu xa của hắn, mà là thể hiện qua việc miêu tả hình tượng “tình địch” của hắn là Trịnh Khắc Sảng.

Nói nôm na, tác giả tả Trịnh Khắc Sảng là kẻ không ra gì, là hạng giá áo túi cơm, tham sống sợ chết, lại còn tàn nhẫn nữa. Điều này trực tiếp có ảnh hưởng mạnh tới tình cảm của độc giả : Trịnh Khắc Sảng đã là kẻ không ra gì, thế thì A Kha có mù không mà lại đi yêu Trịnh Khắc Sảng, chi bằng lấy Vi Tiểu Bảo, làm một “phu nhân sung sướng” chẳng hơn sao? Với cách nghĩ đó, mọi hành vi của Vi Tiểu Bảo trở nên bớt xấu xa, chỉ tức cười mà thôi. Tôi nói tác giả bênh Vi Tiểu Bảo không phải chỉ trong vụ A Kha, mà còn đối với Phương Di cũng thế. Thái độ và cách làm của Vi Tiểu Bảo đối với A Kha và Phương Di hệt như nhau, đều là trắng trợn cướp đoạt tình yêu của người khác; song tác giả lại miêu tả người yêu của A Kha và Phương Di chẳng ra gì.

Trịnh Khắc Sảng là phường giá áo túi cơm, người yêu của Phương Di là Lưu Nhất Châu thì tham sống sợ chết, ham hư vinh, bán rẻ đồng đảng. Tác giả miêu tả như thế, hoá ra một sự định hướng rõ rệt, hai kẻ kia đã thua xa Vi Tiểu Bảo như thế, thì A Kha và Phương Di lấy quách Vi Tiểu Bảo còn hơn. Đồng thời mọi sự bạo hành xấu xa của Vi Tiểu Bảo vô hình trung coi như được cho qua. Thực ra, suy luận như vậy là sai lầm, hoặc là hệ quả sự miêu tả của tác giả. Suy luận sai lầm ấy đã coi thường hai nguyên tắc quan trọng. Thứ nhất, suy đoán đạo đức không thể thay thế cho sự lựa chọn của tình yêu.

Giống như trường hợp Mục Niệm Từ yêu Dương Khang, Mã Xuân Hoa yêu Phúc Khang An, Nam Lan bỏ Miêu Nhân Phụng đi theo Điền Qui Nông, chúng ta không thể căn cứ phẩm chất đạo đức của mấy nam nhân đó mà xoá bỏ tình yêu của phía nữ. Nguyên tác thứ hai, mọi sự cảm thụ, suy luận, phán đoán hoặc lựa chọn của người khác đều không thể thay thế cho đương sự, bất cứ ai khác cũng đều không có quyền lựa chọn thay cho đương sự. Can thiệp vào quan hệ của A Kha với Trịnh Khắc Sảng, của Phương Di với Lưu Nhất Châu, rõ ràng là trắng trợn cướp đoạt, lấy mạnh hiếp yếu là bạo hành chính trị trong lĩnh vực tình yêu.

III

Những ai bênh vực Vi Tiểu Bảo đều không thay đổi nổi một sự thực là tại viện Lệ Xuân ở Dương Châu, cuối cùng thì Vi Tiểu Bảo cũng thực thi hành động cưỡng gian A Kha. Bút pháp hài kịch, dí dỏm của tác giả không thể thay đổi sự thật tàn nhẫn và tính chất phạm tội của hành động đó. Kết cục câu chuyện A Kha khá bất ngờ. Sau khi Trịnh Khắc Sảng giết Trần Cận Nam, Vi Tiểu Bảo theo yêu cầu của Trần Cận Nam tuy không giết Trịnh Khắc Sảng, nhưng lại đòi Trịnh Khắc Sảng phải “trả nợ”, - món nợ mà trước đây Vi Tiểu Bảo vì muốn cướp A Kha đã buộc Trịnh Khắc Sảng phải ký một tờ giấy “vay nợ” không ai hiểu nổi.

Lúc này Trịnh Khắc Sảng đương nhiên không có tiền để trả nợ, nhưng việc gia mạng quan trọng hơn, bèn trước mặt mọi người, bằng lòng đem A Kha thế chấp cho Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo sung sướng, quả nhiên tạm thời không tìm Trịnh Khắc Sảng gây khó dễ. Việc này xem chừng có thể giảm nhẹ hẳn tội lỗi của Vi Tiểu Bảo, thậm chí làm thay đổi tính chất tội cưỡng gian A Kha của Vi Tiểu Bảo. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua, một là Trịnh Khắc Sảng đem A Kha làm vật thế chấp, chủ yếu đương nhiên là để bảo vệ tính mạng cho y, song cũng còn vì A Kha bị Vi Tiểu Bảo cưỡng gian, đã mang thai với hắn, nên Trịnh Khắc Sảng cũng chẳng “thiết” nàng nữa. Nói khác đi, tội ác của Vi Tiểu Bảo đã dẫn đến một tội ác mới.

Thứ hai, hành động vô tình vô nghĩa, đê hèn của Trịnh Khắc Sảng đối với A Kha làm cho nàng đau đớn và nhục nhã thêm, nàng không chỉ bị Vi Tiểu Bảo làm nhục, mà còn bị Trịnh Khắc Sảng đem bán. Thời điểm ấy không còn là hài kịch nữa, mà là cao trào của bi kịch. Đương nhiên, chúng ta cũng không thể không thấy rằng lúc đó thái độ của A Kha tựa hồ có chuyển biến. Cứ theo lời Trịnh Khắc Sảng nói với Vi Tiểu Bảo, thì A Kha “Từ khi trong bụng mang đứa con của ngươi, cứ luôn nhớ đến ngươi, trong lúc nói chuyện với ta mà lúc nào cũng luôn miệng nhắc đến ngươi. Ta nghe thấy chán, chẳng còn muốn nàng ta nữa”.(Xem Lộc đỉnh ký).

A Kha đứng bên cạnh tức giận nói với Trịnh Khắc Sảng : “Sao chàng ... có chuyện gì cũng nói ra thế ? “Câu này hoá ra chứng thực lời Trịnh Khắc Sảng vừa nói là thực. Hoá ra từ khi bị Vi Tiểu Bảo cưỡng gian, A Kha đối với Vi Tiểu Bảo không còn căm hận nữa, ngược lại dần dần nảy sinh cảm tình với hắn ư ? Vậy Vi Tiểu Bảo cưỡng gian là có lý ư ? Chuyện này rõ ràng kỳ quặc. Thứ nhất, A Kha cùng đi với Trịnh Khắc Sảng tới đây, chứng tỏ quan hệ giữa hai người thực tế còn nguyên trạng, thậm chí A Kha hi vọng giữ nguyên trạng. Thứ hai, câu A Kha trách Trịnh Khắc Sảng “Chàng đã đồng ý không nói kia mà” chứng tỏ hai người từng thoả thuận không đề cập chuyện này, còn muốn duy trì quan hệ.

Thứ ba, Trịnh Khắc Sảng nói toạc ra bí mật A Kha bị cưỡng gian, A Kha rõ ràng bị bất ngờ, tức giận chạy ra phía biển, chứng tỏ nàng thất vọng về Trịnh Khắc Sảng đến cùng cực. Trịnh Khắc Sảng đã tuyệt tình như thế, đã đem nàng làm vật thế chấp, nàng đã bị Vi Tiểu Bảo cường gian, đã có thai với hắn, bây giờ còn không “chịu” thì biết làm sao đây? Mà A Kha bị cưỡng gian,có thai và bị bán đi, đấy là bi kịch thứ ba, không còn đường nào khác, A Kha bị số phận đánh gục hoàn toàn, không thể phản kháng gì được nữa. Trong cuộc hôn nhân với Vi Tiểu Bảo, A Kha không chỉ không được tự chủ, mà còn đánh thất chính mình.

Cái “cuộc sống êm ấm” sau đó là theo quan niệm hôn nhân truyền thống mang tính chất bạo hành chính trị rõ ràng. Cái “cuộc sống êm ấm” ấy là một tiêu chí của văn minh phương Đông chúng ta. Bà Trần Viên Viên, mẹ của A Kha, tuy bất hạnh, nhưng lúc buồn khổ còn có thể lấy cây đàn tì bà gảy khúc “Viên Viên” mà đại tài tử Ngô Mai Thôn sáng tác tặng riêng cho bà, để tìm sự an ủi. Chứ A Kha thì không biết gảy đàn, cũng không có đàn mà gảy, không có khúc nhạc để hát. Càng đáng buồn hơn, từ khi lấy Vi Tiểu Bảo, nhất là sau khi sinh đứa con trai Vi Hổ Đầu cho hắn, nàng không thiết bất cứ gì nữa, còn nói gì đến chuyện đàn hát.
15.00
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [75] [76] [77] [78] [79] [80] [81] ... ›Trang sau »Trang cuối