Ghé thăm Hậu Lộc, chợ Dầu
Rẽ qua Hanh Cát, Hanh Cù làng xưa
Rừng phi lao dịu nắng trưa
Xoã xanh mái tóc, hàng dừa đưa duyên
Biển vui sóng dỡn mạn thuyền
Mát chân lối cát, chẳng quen ngõ về
Ngày xưa, mái rạ phên tre
Mà nay nhà bạn bốn bề gạch xây
Vườn xưa, dứa dại, gai mây
Mà nay na, mít, trái cây trĩu cành
Cháu con rúi rít vây quanh
Nhìn ông khách lạ... Chú Lành khác đâu?
Bạn rằng: dù bạc mái đầu
Thuỷ chung nghĩa nặng tình sâu vẫn là...
Ôm hôn hai má bạn già
Ra về ấm mãi lòng ta với đời.


23-10-86

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Đồng cảm cùng nhà thơ Tố Hữu

Hậu lộc là quê hương của tôi, có lẽ chính vì lẽ đó khi đọc bài thơ này của Tố Hữu sự cảm nhận của tôi chắc chắn có sự khác biệt với mọi người... Tôi tự hào về vẽ đẹp quê hương mình và hãnh diện vì có một nhà thơ lớn đã sáng tác một bài thơ hay về Hậu Lộc.
Cũng xuất phát từ tình yêu quê hương, giờ tuy ở một nơi cách Hậu lộc gần 1000 km nên vào một đêm chính tôi đã biến những cảm xúc đó thành một bài thơ nhỏ dưới đây. Khi Đăng bài thơ của mình vào trang này tôi không có ý so sánh với thơ của nhà thơ Tố Hữu nhưng để nói một điều rằng: Chúng tôi có cùng một tình yêu với mãnh đất Hậu lộc...


HẠT MUỐI QUÊ TÔI
-------------------------
Ngắm nhìn hạt muối mến thương…
Thân sao trong trắng lạ thường muối ơi?
Những trưa hè mẹ đem phơi
Bao dòng nước biếc, mặn tươi thắm nồng
Mồ hôi mẹ chảy thành sông...
Ngấm vào tình đất ruộng đồng quê ta
Nên dù muối có đi xa
Ra nơi Hải đảo hay qua Phố phường
Dẫu rằng đi khắp bốn phương
Sao em vẫn mặn vấn vương lòng người?
Quê tôi! Hạt muối bao đời…
Nuôi làng quê nhỏ với người quê tôi

Về thăm Hậu lộc quê tôi…
Cùng nhau xem lại cái nôi làng nghề
Biển Diêm phố ngắm thấy mê
Nhà cao san sát bờ đê trải dài
Rừng phi lao tạo vành đai
Dang tay che chắn làng chài bao năm
Người làm muối nước da ngăm…
Chắc vì nắng gió ghé thăm đêm ngày
Còn vì cả những tháng ngày
Phơi dòng nước mặn thành khay muối nồng
Nên em... Hạt muối biết không?
Mặn vì thắm đượm bao công sức người./.
                                  Nhớ Hậu lộc!  Đêm 24.4.2009
                                     T/giả: Trần Tâm
Note:
   Hậu lộc là một huyện đồng bằng ven biển, cách trung tâm T.P Thanh hóa 25 km về phía đông bắc. Phía bắc giáp huyện Nga sơn, Hà trung. Phía Nam và phía tây giáp huyện Hoằng hóa. Phía đông giáp biển đông.
   Hậu lộc là một vùng đất có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa. Năm 1973 & 1976, các nhà khảo cổ học đã phát hiện di chỉ văn hóa Hoa lộc và Gò trũng ( Phú lộc ) niên đại cách đây 4.000 – 5.000 năm. Điều đó chứng tỏ con người tiền sử ở Hậu lộc sớm phát triển nền văn minh lúa nước, chăn nuôi và đánh bắt. Người dân Hậu lộc có tinh thần yêu nước nồng nàn, là cái nôi của cách mạng việt nam. Từ xa xưa, mãnh đất này đã sản sinh và nuôi dưỡng nên nhiều anh hùng dân tộc như: Triệu Thị Trinh ( Bà Triệu ), Phạm Bành ( Hòa lộc ), Đinh Chương Dương ( Hải lộc ), Lê Hữu Lập ( Xuân lộc ) – Bí thư tỉnh ủy Lâm thời đầu tiên của Thanh hóa, Nguyễn Chí Hiền ( Hòa lộc ), Mẹ Tơm,…
   Hậu lộc là một huyện có bề dày về lịch sử văn hóa với hàng chục di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng quốc gia và tỉnh như: Di tích Đền Bà Triệu ( Triệu lộc ), Chùa Sùng Nghiêm Diêm Thánh ( Thờ Trần Hưng Đạo – Làng Duy Tinh, Văn lộc ),…
Bên cạnh việc bảo vệ gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, Hậu lộc đã tập trung thực hiện phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ”. Điển hình là các phong trào xây dựng làng văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa. Trong đó, Làng Duy Tinh ( Hay còn gọi là làng Chợ phủ - xã Văn lộc ) là một điển hình về xây dựng đơn vị văn hóa của cả nước.
    Có thể nói, Hậu lộc xưa và nay như một tỉnh Thanh hóa thu nhỏ bởi nơi đây có đầy đủ những tiềm năng để phát triển kinh tế một cách toàn diện. Với sự giàu có về tiềm năng cả 03 vùng: Vùng đồi, vùng đồng bằng và vùng ven biển.
Ngoài việc khai thác có hiệu quả vùng đồi bằng việc hình thành các trang trại VAC, trang trại vườn rừng, vườn cây ăn quả, nhân dân còn tiến hành trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, trồng cây chắn sóng lấn biển   
( Năm 2002 toàn huyện có: 1.298,58 ha rừng ).
Với 12 km đường bờ biển cùng hai cửa lạch lớn ( Lạch trường và lạch sung ) đây không chỉ là tiềm năng để phát triển kinh tế biển mà còn là nơi thăm thú, du lịch, giải trí rất tuyệt vời. Biển Hậu lộc có độ mặn cao, kết hợp với khí hậu nắng gió đã tạo nên nghề làm muối truyền thống ( Có từ năm 1897 ) chủ yếu một số xã ven biển như: Hòa lộc, Minh lộc, Đa lộc, Hải lộc và Ngư lộc ( Là Diêm phố xưa kia ).
    Tôi sinh ra và lớn lên ở làng Duy tinh ( xã Văn lộc ) nên gia đình không có truyền thống làm nghề muối. Nhưng từ thời thơ ấu và đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ như in tiếng rao của những người bán rong muối “ Ai muối đê...ê…ê.ê… ”. Rồi những hình ảnh những đoàn xe đạp thô sơ đến mức khó tin ( Phanh trước xe bằng cách gắn một miếng dép xốp vào càng, khi muốn dừng lấy chân đạp mạnh nó vào bánh xe ) chở những bao muối to nặng đi bán rong xa, vẫn còn hiển hiện trong tôi như mới gặp hôm nào. Khi khôn lớn, tôi đã có điều kiện tìm đến những ruộng muối để tìm hiểu cách tạo ra nó cũng như những khó khăn vất vả để có được hạt muối.
     Bài thơ: “ Hạt muối quê tôi ” là sáng tác của tôi dành tặng những người nông dân cần cù, chịu khó đã một sương hai nắng tạo ra thứ hàng hóa đặc biệt này cung cấp cho xã hội.
Qua đây, tôi cũng xin giới thiệu một ít hình ảnh đẹp về mãnh đất Hậu lộc tới những người chưa biết đến và hy vọng làm gợi nhớ lại một chút kỷ niệm cho những người đã từng biết đến nơi đây./.
( Bài viết này của tôi có sử dụng một số tư liệu của Đồng chí: Trần Quang Thiêm – Chủ tịch UBND huyện Hậu lộc trong bài viết Giới thiệu về huyện Hậu lộc ).

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Thơ về Văn Lộc

VỀ VĂN LỘC ĐI EM
--------------------
Trần Tâm
Đêm!  Ngày05.4.2009

Mong em hãy đến một lần
Về thăm Văn lộc chuông ngân sớm chiều
Thả hồn, vãn cảnh, phiêu riêu…
Nơi Chùa Diêm Thánh bao điều linh thiêng
Hồ Sen mặt nước lung liêng
Soi Bia tưởng niệm thiêng liêng bên hồ
Xa trông đồng lúa, bãi ngô
Cò bay thẳng cánh biết mô đường về?
Chiều ra hóng mát bờ đê
Thăm làng Hà Mát tiện về Mỹ Quang
Có nhà thờ đạo trang hoàng
Ngay làng Mỹ Điện thêm càng mến yêu
Ghé qua Chợ Phủ chiều chiều
Ngay làng Văn hóa yêu kiều Duy Tinh
Biết bao thế hệ học sinh
Từ ngôi trường nhỏ nuôi tình yêu quê
Nhìn Làng Mới cũng sẽ mê…
Đường đi rộng dãi, xum xuê bóng dừa
Quê tôi tuy nhỏ nhưng thừa…
Tình người chan chứa em vừa lòng chưa?
                                                                                                           
Note:
Xã Văn Lộc, huyện Hậu lộc, tỉnh Thanh hóa cách Thị trấn huyện 3 km về hướng Tây bắc; Cách Quốc lộ 1A khoảng 6 km về hướng Tây.
Là một xã thuần nông của huyện nhưng Văn lộc có bề dầy về truyền thống hiếu học và lịch sử văn hóa. Khi nói đến Văn lộc không chỉ người dân trong huyện, trong tỉnh Thanh hóa mà còn nhiều người ở các tỉnh thành khác trong cả nước biết đến làng Duy Tinh, nơi có Di tích Lịch sử Quốc gia “ Chùa Sùng nghiêm Diêm thánh ” có từ trước Thời Lý. Bên cạnh chùa là Nhà Bia tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là con em, nhân dân trong xã. Ngay trước Nhà Bia là Hồ Sen ( Rộng khoảng 1.500 m2 ) có từ thời Phong Kiến nước rất ngọt và trong, không thấy cạn nước bao giờ.
Xã Văn Lộc là một điển hình trong cả nước về phong trào xây dựng làng văn hóa, nếp sống văn hóa và gia đình văn hóa. Toàn xã có 08 thôn được chia thành 05 làng, đều đạt tiêu chuẩn làng văn hóa. Đó là: Làng Duy Tinh ( Gồm 04 thôn: Tinh anh, tinh phú, tinh hoa và tinh lộc ); Làng Mỹ Quang; Làng Mỹ Điện; Làng Hà Mát và Làng Mới.
Hệ thống đường giao thông liên thôn đều được dãi nhựa và bê tông hóa sạch sẽ. Mỗi thôn đều có nhà văn hóa và sân chơi riêng, là nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao, hội họp của nhân dân mỗi thôn. Xã có một sân vận động lớn ( Còn gọi là Sân Căng ) là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, TDTT,… có quy mô của xã và huyện.
Chợ Phủ là nơi giao lưu,buôn bán, trao đổi hàng hóa của nhân dân trong xã và vùng lận cận tuy còn đơn sơ nhưng đã có từ thời Phong Kiến. Có thể nói, Chợ phủ cũng là nét đặc trưng của làng Duy Tinh.
Có thể nói, xã Văn Lộc là bức tranh đẹp, nhiều màu sắc về cuộc sống nông thôn Việt Nam nói chung và của Xứ Thanh nói riêng./.
Bài thơ: “ Về Văn Lộc đi em ” là sáng tác của tôi giới thiệu đôi nét về quê hương mình, Đó cũng là lời mời của tôi cũng như của bà con trong xã, tới tất cả mọi người trên mọi miền Tổ quốc về thăm Văn Lộc một lần./.

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Hồi ức Sông Mã

HỒI ỨC SÔNG MÃ
-----------------
Trần Tâm
Ngày 06.4.2009.
                                                                                            
Đưa em về thăm Sông mã
Mãnh đất Xứ Thanh vất vả bao năm
Nhớ nạn đói năm bốn năm
Cả Quê mình nỗi thù căm sóng dậy
Ôi! Những ngày đã xa ấy…
Bao mái nhà tang tóc thấy thê lương
Các anh tôi không đến trường
Đi khắp chốn để tìm đường thoát đói
Rồi Cha tôi cũng khăn gói
Xa gia đình theo tiếng gọi quê hương
Khi ấy tôi là hạt sương…
Theo tóc Cha suốt chặng đường quân ngủ

Rồi những ngày sông không ngủ
Giặc Mỹ leo thang trút đủ thứ bom
Làm tan hoang những làng xóm
Bến đò xưa cũng thấp thỏm âu lo
Nhưng cầu Hàm Rồng còn đó!
Vẫn uy nghi trước sóng gió dữ hung
Núi Quyết Thắng! Cũng anh hùng …
Diệt B52 và lũ bạo hung khát máu

Để hôm nay đời con cháu
Đã không còn cảnh: Lửa, máu, chiến tranh.
Cuộc sống như một bức tranh:
Hạnh phúc, ấm no, an lành, đổi mới.
Lịch sử nay sang trang mới
Tiếp bước cha anh đổi mới quê hương

Đấy! Sông Mã là cố hương…
Của anh và cả tình thương đất me./.
                                                                                              
Note:
Khi nói đến Xứ Thanh sẽ là thiếu xót nếu ta không nói về con Sông mã, cầu Hàm rồng và núi Quyết thắng!
Những địa danh này đã gắn liền với cả một thời kỳ oanh liệt, hung tráng của quân và dân Thanh hóa nói riêng và cả nước nói chung trong cuộc chiến chống Đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc.
Là một người con của Xứ Thanh, may mắn được sinh ra trong thời bình và lớn lên bên dòng Sông mã thơ mộng. Tôi tự hào về những điều mà thế hệ cha anh đã làm nên lịch sử, càng tự hào hơn về sự thay đổi ngày một lớn mạnh của quê hương bây giờ.
Mặc dù không được chứng kiến quãng thời gian khốc liệt đấy nhưng tôi đã hình dung được qua những hồi ức của thế hệ cha anh. Những người viết nên: “ Hồi Ức Sông Mã ” huyền thoại!

15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Tiếng còi tàu phía ga Nghĩa Trang

TIẾNG CÒI TÀU PHÍA GA NGHĨA TRANG
-----------------------------------------
                                                                                            Trần Tâm
                                                                                          Ngày 24.2.2011
Thủa ấy…Khi còn thơ bé
Có những đêm hè tôi vẫn thức cùng trăng sao
Bài toán thầy giao trên bàn chưa giải
Bởi tâm hồn tôi mãi theo tiếng còi vang
Tu… tu… phía nhà ga vọng lại
Tàu đưa về người xa xứ, kẻ vảng lai

Tiếng còi tàu…
Có lúc trầm, có lúc bỗng
Lúc vang xa rồi lại vọng gần
Như tiếng Tù Và tan dần trong không khí

Tiếng còi tàu…
Níu bước chân người đi xa
Làm nhạt nhòa người đưa tiễn
Rồi phút vỡ òa trong khoảnh khắc ôm hôn

Tiếng còi tàu phía Ga Nghĩa Trang
Đã bao năm giữ hồn người xa xứ…

Note:
Ga Nghĩa Trang là một Ga Tàu Hỏa nhỏ thuộc địa phận xã Hoằng Trung, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nằm ngay cạnh Quốc lộ IA, có vị trị nằm khu vực giữa hai cây cầu huyền thoại của Xứ Thanh đó là “ Cầu Đò Lèn ” và “ Cầu Hàm Rồng ”, Ga cách trung tâm TP. Thanh Hóa khoảng 20 km về phía nam.
Là một Ga Tàu nhỏ với nhiệm vụ chủ yếu là chung chuyển hàng hóa nhưng mỗi khi tàu về làm cho cả một vùng không gian rộn ràng bởi tiếng còi tàu râm ran…
Ga Nghĩa Trang cách nhà tôi khoảng 7 km, có lẽ chính vì cái khoảng cách địa lý gần gũi đó mà ngay từ khi còn bé tôi đã được thưởng thức thứ âm thanh đặc biệt này nhất là vào những lúc đầu sáng mỗi khi Tàu Bắc – Nam chạy qua Ga.
Đến tận bây giờ tiếng còi tàu vẫn là một trong những yếu tố tạo nên hai tiếng “ Quê Hương ” mà mỗi người xa xứ như chúng tôi mỗi khi nhớ quê đều phải nhắc đến. Chắc chắn “ Tiếng còi tàu phía Ga Nghĩa Trang” sẽ mãi giữ hồn tôi và bao người xa quê nữa…

15.00
Trả lời