Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Tiếng Nga
22 bài trả lời: 1 bản dịch, 21 thảo luận

Đăng bởi Tung Cuong vào 22/08/2022 09:36

I

В те дни, когда в садах Лицея
Я безмятежно расцветал,
Читал охотно Апулея,
А Цицерона не читал,
В те дни, в таинственных долинах,
Весной, при кликах лебединых,
Близ вод, сиявших в тишине,
Являться Муза стала мне.
Моя студенческая келья
Вдруг озарилась: Муза в ней
Открыла пир младых затей,
Воспела детские веселья,
И славу нашей старины,
И сердца трепетные сны.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 3 trang (22 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Chương XI: Evghênhi “tái xuất”

Evghênhi “tái xuất” sau chiến tranh năm 1945
Aleksandr Khadin: Ônhêghin trở lại
Năm 1946, nhà văn trào phúng Aleksandr Khadin đăng chương XI viết về việc Evghênhi «tái xuất», trên tạp chí “Lêningrad”, số 10. Evghênhi đã trở lại Leningrad trong thời gian sau chiến tranh 1945. Nhưng tạp chí này đã bị khiển trách vì đăng Chương XI với tội bêu riếu, nói xấu xã hội. Tác giả công bố 29 khổ trong chương XI, chúng tôi dịch cả 29 khổ để các bạn đọc biết cho vui.

Chương XI

1.

Уходят дни, минуют сроки,
Друзья, но и сейчас опять
Бывает пушкинские строки
Приятно нам перечитать.
И вот, как будто из тумана,
К нам сходит со страниц романа
Онегин — друг наш молодой.
Давай, читатель, мы с тобой
Пойдем туда, куда Евгений
Нас вдруг незримо поведет;
Прими, читатель, этот плод
Ума холодных наблюдений
И сердца горестных замет,
Как некогда сказал поэт.

1
Ngày qua ngày, thời gian trôi mải miết,
Thưa bạn hữu, nhưng giờ đây ta lại biết
Có nhiều trang thơ Puskin tận xửa xưa
Giờ đem ra đọc lại, thấy say mê.
Và ta tưởng như ẩn trong sương khói,
Từ tiểu thuyết thơ bước ra tiến lại
Là Ônhêghin- bạn ta tuổi tóc xanh.
Nào bạn ơi, chúng ta rảo bước nhanh
Cùng về chỗ chợt Evghênhi đưa ta đến;
Bạn đọc hỡi, hãy giang tay nhận hết
Những gì đầu lạnh lùng quan sát trong đời
Vẫn còn lưu trong tâm trí mỗi người
Những nhận xét khiến con tim khôn nguôi đau đớn,
Như dạo trước, nhà thơ từng nói đến.


2 (1).

Перед Онегиным, как прежде,
Из шума утренних забот
В суровой каменной одежде
Знакомый город предстает.
Идет Евгений пораженный,
А Ленинград неугомонный
Уже приветствует его,
Младого друга своего.
Вот сад, где юностью мятежной
Бродил Онегин. Вот едва
Шумит державная Нева,
Бия волной в гранит прибрежный,
И вновь сверкает без чехла
Адмиралтейская игла.

2
Ngay phía trước Ônhêghin là thành phố
Luôn tất bật mỗi sớm mai lại tới
Khoác trên mình tấm áo đá uy nghiêm
Đã hiện lên với dáng vẻ thân quen.
Rảnh chân bước, Ônhêghin ngạc nhiên hết mức,
Leningrad vỡ tổ ong khi vừa thức
Rạng rỡ cười chào đón, chúc mừng chàng,
Bạn trẻ ngày nào, nay trở lại quê hương.
Vườn mùa Hạ, nơi những năm thơ bé,
Ônhêghin dạo chơi. Nay thấy nhé
Sông Nhêva hùng vĩ mặt nước lăn tăn,
Sóng vỗ bờ xô bệ đá hoa cương,
Chiếu lóng lánh trên mặt sông im lặng
Là mũi nhọn trên tháp Admiral rọi sáng.
3.

Приятен нашему герою
Былой отечественный дым.
Блистая золотой главою,
Стоит Исакий перед ним.
Вот он — тот уголок заветный,
Где снова вздыблен
Всадник Медный,
Где в окруженьи нянь и мам
Гуляют дети по утрам,
Где неба синего сиянье,
Где воздух радостен и чист,
И где восторженный турист
Назначит девушке свиданье —
И пишет на скале углем:
«Здесь были с Катей мы
вдвоем».

3
Chàng nhân vật của ta đang say đắm
Khói quê hương trong tim còn thấm đẫm.
Vòm mái vàng sáng rực cả góc trời,
Nhà thờ Ĩxakiepski xuất hiện sáng ngời.
Ôi mảnh đất thiêng liêng đầy thương nhớ,
Tượng kị sỹ bằng đồng hiên ngang đứng đó
Trong vòng vây các mẹ với các cô,
Dẫn trẻ đi chơi sáng sáng trong vườn hoa,
Trời xanh biếc sáng chan hoà toả khắp,
Nơi không khí tràn niềm vui trong mát,
Khách lãng du yêu cảnh sắc say mê
Nơi gái trai hò hẹn tìm đến tỏ tình yêu -
Dùng than vẽ lên lưng tường kè đá:
“Tôi đến với Kachia nơi đây tuyệt quá”.


4 (2).

У друга нашего немало
Забот и неотложных дел,
Но, как положено, сначала
Идет Онегин в Жилотдел.
О, здесь моя бессильна лира,
Здесь музы требуют Шекспира,
И я там был, и я страдал,
И я там горя похлебал.
Вот он стоит с надеждой зыбкой,
Наивный пушкинский чудак,
Его же вопрошают так
С весьма сочувственной улыбкой:
— Где вызов ваш и где наряд?
Как вы попали в Ленинград?

4
Ôi anh bạn có bao nhiêu công việc
Bao lo lắng, bao việc làm cấp thiết,
Quy định rồi, trước hết phải đến là
Ônhêghin tìm Ban đời sống lo nhà.
Ôi, đến đó, Nàng Thơ tôi đành thua thiệt
Đây đòi phải kịch sỹ Shexpia mới duyệt,
Tôi đến rồi, nếm chua xót, khổ đau,
Tôi chịu bao khốn đốn, tổn thương lâu.
Kia chàng đứng với mong manh hy vọng,
Này anh lập dị của Puskin trông ngô ngọng,
Người ta hỏi nghe cái giọng không quen
Với nụ cười thông cảm, mủi lòng thêm:
-Giấy mời với trang phục của anh sao không mặc?
Sao về được kinh thành Leningrad?


5 (3).

Затем вопрос поставлен твердо:
— Где проживали раньше вы?
Онегин отвечает гордо:
— Родился на берегах Невы.
— В каком прописаны вы доме?
— Описан я в четвертом томе,
И, описав меня, поэт
Не дал мне справки…
— Справки нет?! —
Спросил уныло голос женский.
— Тогда помочь не можем вам,
Сегодня вы явились к нам,
А там придет товарищ Ленский,
Приедет bell-Татиана,
Вас много там, а я одна.

5
Rồi sau đó, họ hỏi han tỉ mỉ:
-Thế hộ khẩu anh xưa nơi nào nhỉ?
Ônhêghin đầy kiêu hãnh trả lời:
Tôi sinh ra trên sông nước Nhêva thôi.
-Vậy anh sống ở ngôi nhà nào vậy?
-Tôi có mặt trong khổ thơ bốn đấy.
Tả về tôi xong, không thấy thi sỹ cho
Giấy tờ ghi hộ khẩu tôi ở qua.
-Chứng nhận hộ tịch mà anh không có hả?
Một giọng nữ hỏi thêm nghe nản quá:
-Thế chịu thôi, không thể giúp anh rồi
Ngày hôm nay, anh tìm đến chúng tôi,
Mai anh chàng Lensky lại tới để đòi,
Mà chắc chắn, Tachiana rồi tới nốt,
Các vị thật đông. Mà tôi có một.

6.

Пока знакомил я, читатель,
Тебя с Онегиным моим,
Устал немного мой приятель.
Мы вновь последуем за ним.
Вот, жаждой истины влекомый,
Наш любознательный знакомый
Идет, безмолвной, в Райсовет,
Чтоб получить на все ответ.
Но там сказали, что зампреда
Не принимает никого,
Что срочно вызвали его,
Что он в Горкоме до обеда,
Затем уходит в Исполком,
Затем куда-то там потом.
6
Ơi bạn đọc, trong khi tôi giới thiệu
Chàng Ônhêghin với anh, sao ảo diệu,
Thì bạn tôi hơi mỏi mệt, lặng im.
Chúng ta lại theo dõi Ônhêghin.
Chàng cháy bỏng khát khao tìm ra sự thật,
Ơi anh bạn luôn tò mò mong biết nhất
Đang phi lên tận Xô viết quận rồi,
Chỉ ước mong tìm được câu trả lời.
Nhưng lên đó, đã có người nói rõ,
Phó chủ tịch bận tối tăm mặt mũi,
Ông không còn thời gian tiếp nổi ai đâu,
Ông phải lên uỷ ban thành phố đến là lâu,
Rồi ghé uỷ ban hành chính sao nhanh được,
Rồi sau đó còn vài nơi do hẹn trước.

7.

О, вы, ответственные лица,
Куда вы мчитесь впопыхах
И почему вам не сидится
На ваших собственных местах?
С утра пришедший за ответом,
Стоит пред хладным кабинетом
Проситель бедный, но, увы,
Уже ушли куда-то вы.
И посетитель огорченный
Опять придёт к исходу дня,
Но вновь, спокойствие храня,
Сидит начальник — кот ученый,
Забыв, что ждут его кругом;
Златая цепь на дубе том.
7
Ôi các vị, các chức quan trọng trách,
Các vị vội đi đâu làm dân tìm phát chán,
Tại vì sao các vị chẳng chịu ngồi
Nguyên một chỗ cho dân tình đến nơi?
Người từ sáng đến đây xin giải quyết!
Đứng chồn cẳng, trước phòng ông lạnh khiếp.
Người đi xin, khốn khổ, nhưng hỡi trời,
Biến đâu rồi, các vị chức quan ơi.
Người dân đen lòng buồn đau khôn tả,
Đến cuối buổi, còn quay về mệt lả,
Nhưng ông quan vẫn vẻ mặt lạnh tanh,
Ngồi rung đùi, như chú mèo tinh anh,
Quên mất chuyện dân đang chờ quý vị;
Dây xích vàng quàng trên cây sồi to bự.

8.

Идет Онегин, наблюдая,
По древним улицам своим;
Вот незнакомка молодая
Вдруг промелькнула перед ним
И, как суровых дней соратник,
На ней великолепный ватник
С оборкой нежною из лент —
Парижской моды конкурент.
На нем цветы и финтифлюшки,
Четыре складки впереди,
А на спине и на груди
Опять узоры, сборки, рюшки,
А в дополненье на весу
Несет красавица лису.

8
Chân đang bước, Ônhêghin quan sát
Những con phố cổ xưa chàng từng quen hết;
Kìa một nàng trông lạ, mặt trẻ măng
Chợt lướt qua, phía trước, bước phăng phăng
Như người bạn những tháng năm gian khó,
Nàng đang mặc chiếc áo bông sang quá,
Quấn quanh người bằng giải ruy băng
Đủ sánh ngang thời mốt Paris cực sang.
Rồi đính hoa, cài đủ lăng nhăng lít nhít,
Vạt áo trước may liền vài nếp gấp,
Rồi sau lưng, rồi trên ngực còn đeo
Những hình thêu loè loẹt, những bông hoa,
Vẫn chưa hết, trên vai mỹ nữ
Còn chú cáo xuất hiện thêm khoe mẽ.

9 (4).

Кругом шумит, кипит работа,
А город выкрашен и нов.
И рвут поводья кони Клодта,
Как будто вспомнив дни боев.
Свернул Онегин на Литейный,
И вдруг восторг благоговейный
На миг остановил его.
Мой долг сказать вам отчего.
Он не Венеры Медицейской
Увидел вдруг прекрасный взор,
Нет, на него глядя в упор,
Девица в форме милицейской
Стоит совсем невдалеке
С волшебной палочкой в руке.
9
Đâu cũng thấy thật ồn ào, sôi động,
Nhà cửa tân trang nhìn trông mới bóng.
Bộ dây cương trên tượng ngựa Kllot kéo căng,
Như nhớ về ngày chiến trận đang hăng.
Ônhêghin rẽ vào phố Lichêynuwi coi thử
Chợt thấy rộn lên bâng khuâng sủng kính
Chàng vội vàng tạm dừng bước chân đi.
Việc của tôi thông báo: sao chàng đứng lại kia
Chàng không gặp Venera Medisinskaia phía trước
Bỗng nhìn chàng là tuyệt vời ánh mắt,
Không, người kia nhìn chàng trực diện đăm đăm,
Là một cô đóng trang phục công an
Đứng ngay ngắn không hề xa phía trước
Tay cầm sẵn gậy thần quay mù tít.

10 (5).

И, регулируя движенье,
Глядит на пеших с высоты,
Как мимолетное виденье,
Как гений чистой красоты.
То ручкой вдруг о ручку хлопнет,
То вдруг изящной ножкой топнет,
То, сделав плавный оборот,
Как лебедь, мимо проплывет.
Вот с целым ворохом бумажным
Бежит студент, едва дыша,
Вот по бульвару, не спеша,
Идет стекольщик с видом важным,
Как будто он уже давно
В Европу застеклил окно.
10
Nàng điều khiển từng đoàn xe xuôi ngược,
Mắt nhìn kĩ từ trên cao người qua đường bước,
Như ảnh hình vụt biến mong manh,
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong.
Lúc bất chợt vỗ vào tay ra lệnh
Khi chân đẹp đập vào nhau theo nhịp,
Lúc xoay tròn một vòng nhẹ như bơi,
Như thiên nga lướt nhẹ khắp nơi nơi.
Kia còn có chàng sinh viên ôm chồng giấy
Thờ đứt quãng mà chân đang mải chạy,
Bước trên đường, dáng đi chẳng vội vàng,
Một thợ kính mang vẻ mặt nghênh ngang,
Như lâu lắm làm việc này theo định trước,
Bịt hết cửa nhìn sang Châu Âu mới được.
(…)
Theo: Одиннадцатая глава «Евгений Онегин», Liverjournal)

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Chương XI Evghênhi “tái xuất”

11 (6).

Пока меня унес куда-то
Мой легкомысленный Пегас, chòm sao Bắc đẩu
Онегин бродит. Бледноватый
Туманный день уже погас,
А у бедняги в Ленинграде
Нет ни его друзей, ни дяди,
Семейство Лариных, Трике
Еще в Ташкенте, вдалеке.
Из всех он здесь один остался;
Уже вечерняя пора,
А, выйдя из дому с утра,
Наш бедный друг проголодался.
Но что же делать, если он
Еще нигде не «прикреплен»?

11 (6)
Tôi trong lúc chân bước đi đâu đó
Theo sao Bắc đẩu cả tin của tôi dẫn lối,
Thì Ônhêghin lang thang. Trời tối thẫm dần,
Ngày đầy sương mịt mù đã tắt lịm rồi,
Mà Leningrad, không may, chàng không còn ai cả:
Nào bạn hữu, bác chàng không còn nữa,
Gia đình Larin với ông khách Trik quen thân
Đang ở xa, nơi sơ tán tận Tashkent,
Trong thành phố, một mình chàng sống sót.
Trời đã chuyển về dần chiều tối nốt,
Mà lúc ra khỏi nhà từ sớm tinh mơ,
Bạn đáng thương nay bụng đói mắt mờ.
Nhưng chàng biết còn làm gì được nữa
Khi hộ khẩu “chưa nhập về” đâu cả?


12 (7).

В трамвай садится наш Евгений.
О, бедный, милый человек!
Не знал таких передвижений
Его непросвещенный век.
Судьба Евгения хранила
Ему лишь ногу отдавило
И только раз, толкнув в живот,
Ему сказали: «Идиот!»
Он, вспомнив древние порядки,
Решил дуэлью кончить спор,
Полез в карман… Но кто-то спер
Уже давно его перчатки;
За неименьем таковых
Смолчал Евгений и притих.

12 (7)
Eghênhi của ta trèo lên tàu điện.
Ôi bất hạnh, một con người đáng mến!
Thời ngày xưa chàng cổ lỗ đã biết đâu
Loại hình giao thông tân tiến mai sau.
Nhờ số phận chở che cho chàng hết
Khách vẫn giẫm chân chàng đau phát khiếp
Và một lần ai đó thúc trúng bụng chàng,
“Đồ đần này!” - có kẻ nói oang oang.
Chợt nhớ tới ngày xưa quen phép tắc,
Chàng quyết phải phân tranh bằng đấu súng,
Liền thò tay vào túi… Nhưng một người
Ở gần nên nhanh tay túm chặt không rời
Đôi găng tay của chàng từ lâu lắm;
Không có súng, chàng im re, chết lặng.

13.

Он из трамвая вышел сразу
И только тихо про себя
Сказал излюбленную фразу:
«Когда же черт возьмет тебя».
И, полон разных треволнений,
Спешит голодный наш Евгений
Туда, где есть любой товар,
Короче — едет на базар.
А там… О милый старый Гоголь,
Где мне таланта столько взять:
Все это сразу описать
Для моего пера — не много ль?
Благослови меня, Парнас,
Но я берусь за сей рассказ.

13
Từ tàu điện, chàng xuống xe lập tức,
Trong đầu óc hiện lên câu thầm nhắc
Chính câu này, ngày trước chàng vẫn dùng:
“Đến bao giờ quỷ rước bác giúp mình”
Bao suy nghĩ, âu lo, trong lòng trăm mối,
Êvghênhỉ của tôi đói cồn cào, chân bước vội
Đến đúng nơi, hàng bày kín mọi lối ngập tràn,
Nói gọn là chàng đến chợ nông trang.
Còn ở đó… Ơi Gôgôl thân thương, già cả quá,
Sao có thể tôi trổ tài được nữa:
Phải tả về mọi thứ tức khắc ngay
Ngòi bút tôi, thế có nhiều quá không đây?
Xin nhà thơ Pacnas cầu phước ngay cho tôi nhé,
Nhưng xin bắt đầu điều tôi định kể.



14.

Лишь небо станет розоватым,
Шумят молочные ряды
(Хотя не столько молока там,
Сколь самой будничной воды).
Там целый мир сыров душистых,
Тушенки в банках золотистых
Там рыбы с дымной чешуей
Блестят балтической волной.
А утки чуть еще трепещут,
Купаясь в собственном жиру,
На зависть моему перу
Их золотые перья блещут,
А в глубине идет подряд
Кабаньих туш кровавый ряд.

14
Trời vừa kịp rạng ánh hổng phơn phớt,
Khu hàng sữa ồn ào, tiếng bán mua không ngớt
(Dù nhìn quanh có thấy mấy sữa đâu,
Sữa gì toàn nước lã phần nhiều)
Ôi pho mát thơm lừng quanh góc chợ,
Thị lợn hầm trong hộp màu vàng rợ,
Cá nguyên vảy hơi toả lên tựa khói bay,
Trông long lanh như sóng Baltich dâng đầy.
Vịt khoe dáng như còn nhún nhảy,
Phủ làn mỡ trông thơm ngon bóng nhẫy,
Thật trêu ngươi, vượt quá sức ngòi bút của tôi
Bộ lông vàng trên lũ vịt sáng ngời,
Sâu trong chợ, hàng bày dài san sát
Toàn thịt lợn rừng huyết hồng ngon mắt.



15.

Шумит, гремит колхозный рынок,
Душе приятна суета
И цен смертельный поединок,
И нравов наших простота.
Но вот, нарушив строй веселый,
Походкой медленной, тяжелой,
Душой подлец, одеждой франт,
Идет по рынку спекулянт.
Вот перед нами пантомима —
Украли чей-то чемодан,
А чуть подальше хулиган
Кого-то молча бьет… А мимо.
Явив спокойствия пример,
Проходит милиционер,

15
Chợ nông trang nghe đinh tai, nhức óc,
Nhìn mà thich cảnh bán mua, mời mọc
Giá cả tranh nhau làm chết bực người mua,
Người của ta vốn dễ tính từ xưa.
Nhưng chợt thấy cảnh yên bình không còn nữa,
Bởi lắm kẻ nghênh ngang, đi chậm quá,
Bẩn tâm hồn, mặc kiểu dáng khoe giàu,
Dân đầu cơ vênh váo, túm tụm nhau,
Và ngay trước mắt, có kẻ gian vờ vĩnh -
Trộm va li của người khác trong lặng lẽ,
Còn xa xa, tên du đãng vung tay hoài
Không một lời, đang lẳng lặng đánh người…
Cảnh sát mặt tỉnh bơ, như chưa hề nhìn thấy,
Rầm rập diễu qua mắt láo lơ ngay cạnh đấy,

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Chương XI EvghênhI “tái xuất”

16.

Но, право, хватит отступлений,
Сюжет продолжить нам пора.
Итак, мы знаем, что Евгений
Сегодня с самого утра
Идет по улицам, скучая,
Знакомых старых не встречая,
Но вскоре, позабыв свой сплин,
Он входит в хлебный магазин,
Весьма упитанная дама
Ему насущный хлеб дает,
Но, как всегда, недодает
Примерно четверть килограмма.
И, честь торговую поправ,
Ее благословляет зав.

16
Nhưng, quả thật, chuyện lan man đã đủ,
Ta vào chuyện của chính ta thôi nhỉ.
Và vậy là, ta biết, Evghênhi
Ngày hôm nay, từ sáng sớm đã đi
Chàng ra phố, vẻ buồn thiu, rảo bước,
Không hề gặp một ai là người quen ngày trước,
Nhưng rồi sau, quên biến chuyện phiền lòng,
Chàng bước vào một chỗ bán bột mì,
Một nhân viên bán hàng người to béo
Bán cho chàng ít bột mì cần yếu,
Nhưng cân điêu, ăn bớt đã thành quen,
Cân thiếu chừng một phần tư kilo luôn.
May phụ trách cửa hàng đang có mặt
Bèn bù đủ, cứu thanh danh ngành thương mại.


17.

Онегин дальше путь направил
И думал, выйдя за порог:
«Мой дядя самых честных правил,
Он тут работать бы не смог»…
Как часто, с жадностью внимая
Красивым клятвам краснобая,
Мы знаем, что в душе он плут,
Что ждут его тюрьма иль суд,
Что он ворует, окаянный,
И ловко сам уходит в тень…
Нет, верю я — настанет день
Благословенный и желанный,
Когда в кругу своем родном
Мы лишь с улыбкой помянем

17

Ônhêghin lại lên đường đi tiếp
Vừa ra khỏi cửa hàng, chàng nghĩ miết:
“Ông bác tôi cao đạo nhất, thẳng ngay
Thì làm sao làm việc được ở đây”…
Thành thông lệ, người ta hay ưa thích
Những bẻm mép thề bồi quân đạo trích,
Ta biết rằng, họ trộm cắp có nghề
Chứ đáng ra phải lĩnh án hay vào tù,
Gì cũng lấy. Cái thứ người bẩn thỉu
Nhưng khôn khéo ẩn mình, che đậy kĩ…
Không, tôi tin, rồi sẽ tới một ngày
Thật mong chờ, thật đáng yêu thay,
Khi trong giới bạn bè người thân thiết,
Ta cười mỉm, cùng nhau làm giỗ hết





18.

Все тех, кто нам мешал когда-то
Нечистой совестью своей,
Кто нас любил любовью «блата»,
А может быть, еще нежней.
Читатель, я пишу ретиво
И ты, конечно, справедливо
Задашь и мне вопрос о том,
Как сам боролся я со злом.
Иль я, собрав и гнев и волю,
Об этом жаловался в суд,
Иль, приложив упорный труд,
Писал Советскому контролю,
Иль, как писатель, не зевал
И письма в прессу посылал.

18

Tất những kẻ một thời từng quấy phá
Lương tâm bẩn thỉu, hại người quá xá,
Kẻ yêu ta kiểu tình yêu trí trá, quỷ ma
Và nhiều khi tỏ nồng thắm, mặn mà.
Thưa bạn đọc, tôi viết ra đầy tức tối
Và chắc chắn, bạn sẽ nêu câu hỏi
Cũng là điều cần phải nói mà thôi
Thế chính tôi có chống thói độc ác con người.
Hay tôi đã nuôi ý trí cùng căm giận,
Đã chấp bút đơn gửi cho toà án,
Hay ít ra bỏ công sức viết cho
Cơ quan thanh tra Xô Viết để kiểm tra,
Hay, tư cách nhà văn, không làm ngơ, nhắm mắt,
Với báo chí, ta cấp cho thông tin tất tật.

19.

Я им пишу, — чего же боле,
Что я могу еще сказать,
А плуты многие на воле,
А блат встречается опять —
И я брожу, как мой Евгений,
В суетном мире учреждений,
Слагаю горькие стихи,
Простите мне мои грехи.
И я уйду от жизни бурной,
И мой погаснет острый взор,
Но ты придешь ли, прокурор,
Пролить слезу над ранней урной?
Желанный друг, сердечный друг,
Еще работа есть вокруг.
19
Viết cho họ, những gì cần đòi hỏi,
Thế nào nhỉ, giờ biết gì mà nói,
Khi bọn lừa đảo vẫn thấy nhởn nhơ,
Chuyện móc ngoặc như bệnh dịch khắp nơi -
Giống Evghênhi của tôi, đang đi mãi,
Trong thế giới cơ quan luôn bận mải,
Tôi viết bao vần thơ mãi đắng cay,
Những lỗi tôi vừa mắc, xin hãy thứ tha ngay.
Tôi thoát khỏi cuộc đời đầy bão táp,
Ánh mắt hết tinh nhanh, rồi lịm tắt,
Nhưng hỏi anh có đến, hỡi anh thanh tra,
Phải nhỏ lệ trước nấm mộ sớm mai ra?
Bạn yêu mến, con người sao thân thiết,
Đâu cũng thấy việc cần làm bức bách.


20.

Мы все учились понемногу,
Чему-нибудь и как-нибудь,
Искали честную дорогу,
Прямой, ведущий к цели путь,
Мы избегали низкой лести,
Мы знали все, что делом чести
И делом славы стал наш труд;
Но среди нас еще живут
Враги Закона и Указа…

У нас позорно до сих пор
В ходу излюбленная фраза:
— Ну, что ж поделаешь — война…
Хоть и закончилась она.

20
Ta, tất cả đều học hành chút ít,
Học đại khái, chàng màng và nhăng nhít,
Muốn tìm đường đi trung thực, thẳng ngay,
Con đường nào thẳng tắp đưa tới mục đích đây,
Ta cố tránh thói thấp hèn, hay xu nịnh,
Ai cũng biết rằng vấn đề danh dự
Rằng lao động là sự nghiệp vinh quang;
Nhưng chính ngay trong xã hội của ta đang
Đầy rẫy kẻ phá ngang Luật pháp và Chỉ thị…

Sao tận giờ, vẫn thấy nhục thế này,
Cứ phải nghe câu cửa miệng hàng ngày:
-Thì còn biết sao đây, tại chiến tranh tất cả…
Cho dù chiến tranh đã lùi xa từ lâu quá.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Chương XI Evghênhi “tái xuất”

21.
Спешит скорее мой Евгений
Увидеть старый милый дом,
Где он в тиши уединений
Когда-то жил, О сколько в нем
Найдет наш друг воспоминаний,
Надежд далеких, упований…
Онегин входит в кабинет
(Его уж описал поэт).
Наш друг, смущенный переменой,
Здесь ничего не узнает.
Какой фантазии полет
В союзе с мыслью совершенной,
Какие ткани и шелка,
Какая роспись потолка!

21
Evghênhi của tôi nóng lòng nóng dạ
Mái nhà xưa thân yêu mong thấy lại,
Nơi trước kia không khí thật yên bình
Nơi từng sống một thời. Nơi gợi nhớ trong lòng
Bao hồi tưởng cùng nghĩ suy nóng hổi,
Bao hy vọng xa xôi, chờ mong không lạnh nguội…
Ônhêghin vào phòng ở trước kia
(Chính căn phòng được tả kĩ trong thơ Puskin)
Bạn tôi thấy băn khoăn vì đổi thay nhiều quá,
Chàng không thể nhận ra chốn xưa, nay xa lạ.
Dù trong đầu tưởng tượng sôi nổi biết bao,
Dù nghĩ suy có bay bổng thế nào,
Không biết vải và lụa trên tường sao đẹp thế,
Trên trần vẽ những bức tranh tuyệt mỹ!

22.
Полы, покрытые коврами,
Картины в старом серебре
И отраженный зеркалами
Хрусталь на желтом янтаре,
Диваны, кресла и серванты,
Изданий древних фолианты,
Фарфор саксонский, баккара —
Утеха царского двора.
Решил взволнованный Евгений:
«Живет здесь крупный феодал».
Приятель блудный наш не знал,
Кто был жильцом сиих владений…
Владелец этих всех хором —
Товарищ Тюлькин, управдом.

22
Nhà trải thảm đến tận từng phòng một,
Tranh tường bọc trong khung màu bạc
In rõ hình phản chiếu đọng trong gương
Đồ pha lê óng ánh trong hổ phách màu vàng,
Nào divan, ghế bàn, nào đồ đạc
Những sách cổ khổ to nằm rải rác,
Hàng sứ sành Sắcsông, thú chơi bài
Thứ giải trí trong chốn hoàng cung hoài.
Đang xúc động, Evghênhi rồi cả quyết:
“Đây đúng chỗ vua quan xưa sống chắc”.
Anh bạn lầm lạc của ta chẳng biết rằng,
Ai đang sống trong điền trang nhà chàng…
Mọi người nói chủ điền trang này phải cỡ -
Là đồng chí Tiulkin - phụ trách trông coi nhà cửa.

23 (8).
Идет широкими шагами
Онегин дальше. Вот вдали
Легко вздымаясь над волнами,
Идут к причалу корабли.
И тридцать витязей прекрасных
Чредой из вод выходят ясных
И с ними (новый вариант)
Выходит старший лейтенант.
Уже цветут деревья скверов,
Шум у Гостиного двора,
Спешит и мчится детвора
В Дворец советских пионеров
И, как взлетевший вверх Амур,
Висит под крышей штукатур.
23
Chân sải rộng trên đường in từng bước
Ônhêghin đi thêm. Kìa phía trước
Nhả khói bay trên lớp lớp sóng cồn,
Những con tàu tiến vào cảng nhịp nhàng.
Và ba mươi chàng chiến binh dũng cảm
Từ dưới nước hiện ra ngời ngợi sáng
Đi cùng đoàn là thượng uý sĩ quan
Cùng bước ra (một phiên bản mới tinh).
Trong công viên, cây cối đã đơm hoa khoe sắc,
Bách hoá Gôschínnưi dvor nghe nao nức,
Bầy trẻ Liên Xô đang đều bước tiến vào
Cung thiếu nhi mới đẹp tuyệt làm sao
Như dòng Amur dâng trào sóng dậy
Nghe tiếng động âm vang trong nhà cùng thấy.

24 (9).
Евгений слышит голос нежный,
Когда-то волновавший кровь,
Быть может, вдруг в душе мятежной
Былая вспыхнула любовь.
Друзья, мне радостно и больно,
Мое перо дрожит невольно,
Онегин видит в вышине
Свою Татьяну на окне.
С утра в домашней спецодежде,
Она ведро и кисть берет
И красит стены, и поет:
«Пускай погибну я, но прежде
Я дом свой выкрасить должна,
Привычка свыше нам дана».

24
Eighênhi nghe tiếng người êm dịu,
Như ngày trước làm con tim rạo rực,
Chợt có khi, thấy sóng cuộn trong lòng
Mối tình xưa nay bốc cháy bùng bùng.
Thưa bạn hữu, tôi đớn đau cùng vui sướng,
Bỗng ngòi bút tôi run lên quá đáng,
Ônhêghin nhìn thấy tít trên cao
Nàng Tachiana của mình trong cửa sổ hiện ra.
Từ sáng sớm, trong bộ bảo hộ ở nhà đang mặc,
Tay cầm xô, tay chổi sơn giữ chặt
Đang mải mê sơn tường, miệng hát tươi vui:
“Dù chết đi, nhưng trước hết, đã quyết rồi
Phải sơn phết nhà mình cho xong đã,
Trời ban phước cho thói quen cần thiết quá”.

25 (10).
Свернув от Невского направо,
Идет Онегин дальше. Вдруг…
— Не Юрий ли Михайлыч?..[1] Право,
Ах, Юрьев, старый милый друг!
Еще при мне ваш дерзкий гений
Блистал в театре…
— Да, Евгений.
— Вы сохранились.
— Очень рад.
— Что есть в новинках?
— «Маскарад».
Тут наш Онегин рассмеялся:
— Так изменилось все кругом
В краю советском, молодом,
Но вот репертуар остался,
В театрах молодой страны
Преданья древней старины.

25.
Từ đại lộ Nhépki, rẽ sang bên phải,
Ônhêghin đưa chân đi. Chợt hỏi..
-Anh có là Iuri Mikhailuwsch [1] không đấy? Đúng rồi…
Trời ơi, Iurep, bạn thân mến của tôi!
Ngày trước, tài năng anh sáng ngời trong nhà hát…
-Phải, Evghênhi đây. -Anh còn sống thật.
-Tôi rất mừng. Có gì mới không, bạn của ta?
Vẫn là “Hội hoá trang” thôi mà.
Ngay tức khắc, Ônhêghin cười to thành tiếng:
-Tất mọi thứ đều đổi thay mới hết
Đang diễn ra trên đất nước Xô viết trẻ măng,
Nhưng chương trình kịch hát ngày trước giữ nguyên,
Trong các rạp vẫn hàng đêm y như cũ,
Đất nước trẻ trung toàn chương trình cổ hủ.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Chương XI, Evghênhi “tái xuất”

26 (11).
А с современниками горе,
Усвоив правило одно,
Театры все сидят у моря
И ждут Погодина[2] давно.
А если он их вдруг забудет,
Тогда в театрах
«Так и будет»[3],
Как было раньше на сто лет,
Когда Онегин ездил в свет,
Когда, оставив скуку балов
Иль разговоры милых дам,
В партер входил Онегин сам
Иль с кучкой модных театралов.
Смеялся Лидин[4], их сосед,
Когда на сцене был Янет[5].

26 (11)
Rồi tất cả phải chịu chung đau khổ,
Sau khi học xong một điều cần ghi nhớ,
Mọi nhà hát đang dài cổ hóng đẹp trời
Và chờ mong Pôgôđin (2) xuất hiện đã lâu rồi
Và nếu ông chợt quên mọi người nay hết
Thì nhà hát đành nằm im “Cho tình hình bê bết”[3]
Cũng giống như trăm năm trước, xưa kia,
Khi Ônhêghin gia nhập giới thượng lưu,
Chàng bỏ lại các hội hè sao buồn tẻ
Hay chuyện của quý bà đáng yêu nghe nhạt nhẽo,
Ônhêghin bước vào khu ghế dưới kia
Hay cùng dăm người nghiện xem hát mặc mốt ghê.
Khi Liddin [4] - một bạn ngồi bên, cười vang thích thú,
Đúng lúc Ianhet [5] đang diễn trò trên sân khấu.

27 (12).

Идет наш друг, глядит
на Невский…
Не здесь ли ночью у перил
Стоял когда-то Достоевский,
Не здесь ли Гоголь проходил.
Не здесь ли Бородин
печальной
Для берегов отчизны дальной
Музыку нежную слагал,
Спеша куда-нибудь на бал?
Здесь с Пушкиным встречался
Глинка
И мчался Лермонтов младой,
Лениво шел Крылов домой…
Но это все уже старинка —
Известно всем, что Михалков
Намного выше, чем Крылов.
27.
Bạn ta bước, mắt nhìn đường Nhépski chăm chú…
Có phải trước, nơi đây mỗi khi đêm đến
Đôstôepski từng chứng kiến nhiều điều,
Bên lan can ông đứng mỗi buổi chiều,
Có phải nơi Gôgôl từng lang thang không mục đích,
Có phải chỗ, Bôrôđin vẻ mặt buồn nặng trịch
Đã viết ra nhạc êm dịu cho tổ quốc xa xôi
Khi ông đang vội vã đến dự vũ hội ở một nơi?
Chính là chỗ, Glinka và Puskin từng gặp gỡ,
Và Lecmôntôp trẻ trung đang hối hả,
Kruwlôp lê chân chậm dãi về nhà…
Nhưng mọi thứ nay đã thành xưa cũ, nhạt nhoà -
Ai cũng biết, giờ thì Mikhalkốp
Còn nổi tiếng trên tài Kruwlốp.


28 (13).

Герой Советского Союза
Идет по Невскому, спешит —
И с одобреньем сам Кутузов
На ордена его глядит.
О, слава, слава Ленинграду!
Прошли мы грозную блокаду,
Сражаясь, веря, для того,
Чтоб быть достойными его.






28 (13)
Một anh hùng Liên bang Xô viết
Trên đại lộ Nhépki đang rảo bước -
Tượng Kutudốp nhìn theo ánh mắt tán dương
Lên Huân chương gắn khắp ngực chàng.
Ôi, vinh quang, vinh quang thay Leningrad!
Ta đã trải những ngày trong vòng vây tàn khốc,
Ta chiến đấu, với tất cả niềm tin
Để xứng đáng với Leningrad quê hương.

29.

Всего, что видел мой Евгений,
Пересчитать мне недосуг,
Но в шуме уличных движений
И я с ним повстречался вдруг,
И мне — скажу вам по секрету —
Поведал друг мой повесть эту,
А я — таков уж мой удел —
Вам передать ее хотел.
Лишь одного хочу. Проведав,
Что кто-то вдруг меня убил,
Что хладный мрак меня покрыл,
Вините в том пушкиноведов…
Прости меня, любезный свет,
И вы, друзья, и ты — Поэт.
29
Tất những thứ Evghênhi của tôi đã thấy
Tôi không dỗi hơi kể ra đâu đấy,
Nhưng phố phường đang chuyển động ầm ầm
Thì tự nhiên tôi bất chợt gặp chàng,
Tôi xin nói riêng cho anh biết nhé -
Người bạn của tôi chuyện này đã kể
Còn với tôi - đang có ý định này-
Muốn kể lại cho bạn đọc hay.
Tôi chỉ muốn một điều. Nhỡ có ngày bạn biết
Rằng ai đó bỗng tìm tôi để giết,
Rằng bóng đêm lạnh lẽo đã phủ kín người tôi,
Hãy trách móc những người mê Puskin thôi…
Hãy tha thứ cho tôi, thế giới thân yêu quá,
Và tất bạn bè, cùng nhà thơ nữa.

CHÚ THÍCH

1 Юрьев Юрий Михайлович (1872–1948) — diễn viên nhân dân Liên Xô, Thuộc Nhà hát kịch Hàn lâm mang tên A.X. Puskin
2 Погодин (Стукалов) Николай Федорович (1900–1962) — nhà biên kịch.
3 Vở kịch của Константин Михайлович Симонов (1915–1979).
4 Лидин Владимир Германович (1894–1979) — nhà văn.
5 Янет Николай Яковлевич (1893–1978) — nhà văn và đạo diễn Nhà hát nhạc hài kịch Leningrad.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Chương IX Nga du ký của Ônhêghin (tiếp)

+ VII П
«Женись». — На ком? — «На Вере Чацкой».
— Стара. — «На Радиной». — Проста.
«На Хальской». — Смех у ней дурацкой.
«На Шиповой». — Бедна, толста.
«На Минской». — Слишком томно дышит.
«На Торбиной». — Романсы пишет,
Шалунья мать, отец дурак.
«Ну так на Энской». — Как не так!
Приму в родство себе лакейство.
«На Маше Липской». — Что за тон!
Гримас, ужимок миллион.
«На Лидиной». — Что за семейство!
У них орехи подают,
Они в театре пиво пьют…

+VII
“Phải lấy vợ”.- Lấy ai? - “Vera Tráskaia nhé”.
-Già quá lứa.- “Thì Rôđina”. -Người nông cạn thế.
“Chọn Khanskaia”. - Nàng cười rõ đần đần.
“Shipôva thì sao”. - Nghèo rớt lại béo mầm.
“Thì Minskaia đấy”.- Thở nghe như kéo bễ.
“Torbina được chứ”. - Chuyên viết tình ca rơi lệ,
Mẹ ranh ma, cha quá thề là đần.
“Vậy thì lấy N”. - Ai lại lấy nàng!
Cưới kẻ hầu về nhà mình sao nghe được.
“Còn Massa Lipskaia đấy” - Giọng nói sao kì quặc!
Mặt nhăn nhăn, điệu bộ luôn biến dạng vô cùng.
“Thế Lidina”. - Cái nhà thật lạ lùng!
Có khách khứa, chủ mời ăn hạt dẻ,
Đến nhà hát lại uống bia nhiều thế…


+ VIII П

<Как описал Фонвизин дедов!
Он всю Москву созвал на бал.
Как живо колкий Грибоедов
В сатире внуков показал!
Напрасно! На больших обедах
Бояре всё ворчат о бедах.
Мельканье карт, стаканов стук –
Онегину постылый круг.
Он видит башню Годунова,
Дворцы и площади Кремля,
И храм, где царская семья
Почиет близ мощей святого.
Он бродит меж ночных огней
В садах московских богачей.>

+VIII
<Phônvidin tả các ông cao niên chi tiết!
Ông mời cả Matxcơva lên ngày hội đủ hết.
Vốn chua cay, Gribôeđôp viết luôn về
Bày cháu con trong thơ trào phúng thật miễn chê!
Mà vô ích! Trong khi ngồi tiệc lớn,
Các lãnh chúa cằn nhằn về những gì quá đáng.
Thoáng bóng bạc bài, tiếng chạm cốc lanh canh -
Ônhêghin thấy mọi thứ chán kinh.
Chàng nhìn tháp Gôđunôp khoe dáng,
Nào cung điện và quảng trường Kremlin rộng lớn,
Nào nhà thờ, nơi có mặt hoàng gia
Bên bàn thờ các bậc thánh, đang gật gà.
Chàng đi dạo dưới đèn đêm lấp lánh
Đến nhà giàu Matxcơva thăm vườn cảnh.>

+IX
[Sao mà chán. Chàng muốn thăm Nhigiờnhi tha thiết Quê hương của Minhin] Rực sáng lên, hiển hiện
Hội chợ Makariep nườm nượp cảnh bán mua,
Hàng hoá từ mọi nơi đủ thứ bày ra.
Người Ấn độ đem ngọc trai tới bán,
Rượu rởm châu Âu chở sang kèm mác dán,
Ngựa từng đoàn, có con ốm, con lành
Từ thảo nguyên chủ trại lùa tới cả đàn,
Dân cờ bạc mang nhiều bộ bài đến
Vốn từ xương, ngà voi, được làm khéo léo,
Địa chủ đưa theo đám con gái nhỡ thì,
Những cô nàng chạy theo mốt xưa rồi.
Ai cũng vội, dối lừa không biết ngượng,
Đâu cũng thấy tinh thần thương gia coi trọng.

Nhigiờnhi Nôvgôrôd (thời Xô viết là Goocky) - thành phố cổ đặt trên khu đồi cổ nơi sông Volga và Ôka hoà dòng vào nhau.

+ X П
Тоска! Евгений ждёт погоды
Уж Волга, «рек, озёр краса»,
Его зовёт на пышны воды
Под полотняны паруса.
Взманить охотника нетрудно.
Наняв купеческое судно,
Поплыл он быстро вниз реки.
Надулась Волга. Бурлаки,
Опёршись на багры стальные,
Унывным голосом поют
Про тот разбойничий приют,
Про те разъезды удалые,
Как Стенька Разин в старину
Кровавил Волжскую волну.

+XП
Buồn phát chết! Evghênhi chờ ngày đẹp trời đến
Giữa vạn sông hồ, Volga là “nữ hoàng xứng đáng”,
Mời chàng đi ngắm sông nước hữu tình,
Những cánh buồm no gió lướt đi nhanh.
Để hấp dẫn người đam mê không khó
Tìm thuê được thuyền thương gia có giá,
Chàng bơi nhanh theo dòng nước về xuôi.
Sông Volga nước lớn. Thợ kéo thuyền đông người
Chống sào thép kéo thuyền đi từng đoạn,
Miệng rền rĩ lời hát buồn ghi trong dạ
Kể chuyện miền đất của cướp biển xông pha,
Về những lần ra đi đến tận phương xa,
Chuyện Stenka Radin vùng lên thuở nọ
Đã nhuộm nước sông Volga trong máu đỏ.
+ XI
Поют про тех гостей незваных,
Что жгли да резали. Но вот,
Среди степей своих песчаных,
На берегу солёных вод
Торговый Астрахань открылся.
Онегин только углубился
В воспоминанья прошлых дней,
Как жар полуденных лучей
И комаров нахальных тучи,
Пища, жужжа со всех <сторон>,
Его встречают. И, взбешён,
Каспийских вод брега сыпучи
Он оставляет тот же час.
Тоска! Он едет на Кавказ.

+XI
Hát về khách không mời mà đến
Bị thiêu xác và cắt cổ luôn. Nhưng xem tiếp
Giữa đồng cỏ phủ đầy cát bụi bay,
Sóng biển xô nước mặn vỗ bờ mỗi ngày
Trung tâm thương mại Astrakhan hiện ngay trước mặt.
Ônhêghin nghĩ miên man tản mát
Bao hồi ức những ngày tháng xa xưa,
Như hơi nóng những tia nắng giữa trưa
Muỗi bay kín như mây đen tràn qua táo tợn,
Tiếng rin rít, vo ve nghe từ khắp <chốn>,
Chào đón chàng. Chàng tức điên người,
Nước biển Kaspiên vỗ mãi bờ cát dài
Bỏ lại tất, ra đi ngay tức khắc.
Thật là chán. Chàng lên đường đi Kavkaz.


XII

Он видит: Терек своенравный
Крутые роет берега;
Пред ним парит орёл державный,
Стоит олень, склонив рога;
Верблюд лежит в тени утеса,
В лугах несётся конь черкеса,
И вкруг кочующих шатров
Пасутся овцы калмыков,
Вдали – кавказские громады,
К ним путь открыт. Пробилась брань
За их естественную грань,
Чрез их опасные преграды;
Брега Арагвы и Куры
Узрели русские шатры.

XII
Chàng đã thấy sông Terek quen trái tính
Nước đào mòn đôi bờ sông dựng đứng;
Trước mắt chàng, đại bàng hùng dũng lượn bay,
Có chú nai ngả sừng xuống, thơ thẩn nơi đây,
Lạc đà nghỉ trong bóng râm tảng đá,
Trong thảo nguyên, ngựa của người Treket lao như gió,
Quanh trại lều dân du mục dựng lên
Người Kalmức chăn thả cừu trên khắp thảo nguyên,
Xa xa hiện lên dãy núi Kavkaz,
Đường tới núi mở ra. Chiến trường hồi trước
Vượt được qua biên giới tự nhiên,
Khuất phục nhiều chướng ngại hiểm nguy;
Bờ Aragva và Kura nằm dài chứng kiến
khu lều trại của dân Nga xuất hiện.

Terrek là con sông tại Kavkaz, bắt nguồn từ khu băng Vĩnh viễn trên đỉnh Kazbek.
Aragva và Kura là các con sông chảy ở phía nam dãy núi chính.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Nga du ký của Onheghin (tiếp theo)

+ XIII П

<Но вот, конвоем окружён,
Вослед за пушкою степною,
В край гор Евгений был введён,
В край древний, с дикою красою.>
Обвалы сыплются и блещут.
Вдоль скал прямых потоки хлещут.
Меж гор, меж двух <высоких> стен,
Идёт ущелие. Стеснен
Опасный путь: всё уже, уже!
Вверху – чуть видны небеса.
Природы мрачная краса
Везде являет дикость ту же.
Хвала тебе, седой Кавказ,
Онегин тронут в первый <раз>.

+XIII
<Nhưng hộ tống chàng trên đường là tốp lính,
Theo sau pháo trên thảo nguyên đang tiến,
Eighênhi đưa chân vào chính xứ núi non,
Một vùng cổ xưa, đẹp hoang dại dã man>.
Nhiều mảng núi trượt dài, sáng lên lấp lánh.
Đá dựng đứng tường thành, nước xối mạnh
Núi nhấp nhô, tường đá chạy hai bên
Khe núi dài hun hút. Lối đi nhỏ hẹp thêm
Thật trắc trở: rồi nhỏ dần thành cụt!
Trên cao tít hiện ra khoảng trời bị thu hẹp.
Vẻ đẹp tự nhiên thấy thật tối tăm,
Đâu cũng khoe cảnh hoang dã ngàn năm.
Núi đẹp tuyệt, ơi Kavkaz đỉnh đầu tóc bạc,
<Lần>đầu tiên, Evghênhi thấy mình xúc động mạnh.

+ XIV П
Во время оное, былое,
<В те дни я знал тебя>, Кавказ!
В своё святилище пустое
Ты <призывал> меня не раз.
В тебя влюблён я был безумно,
Меня приветствовал ты шумно
Могучим гласом бурь своих.
Я слышал <плеск> ручьёв твоих,
И снеговых обвалов грохот,
И клик орлов, и пенье дев,
И Терека свирепый рев,
И эха дальнозвучный хохот.
И зрел я, слабый твой певец,
Казбека царственный венец.

+XIV
Thời gian ấy, cái thời xa xưa đó
<Tôi nghe tiếng, biết bạn rồi,>, ơi Kapkaz!
Bạn <gọi > tôi thăm đất thánh vắng tanh
Chào mời tôi nhiều bận thật chân thành.
Tôi say đắm Kavkaz như điên dại,
Bạn đón tôi bằng muôn ngàn âm thanh vang mãi
Tiếng rú gào trong bão táp nổi lên
Tôi nghe xa nước <suối chảy > vang rền,
Tiếng ụ tuyết trượt xuống càng sôi động,
Đại bàng nhao nhác, các nàng ca đủ giọng,
Tiếng sóng xô trên sông Terek thật dữ dằn,
Từ xa nghe vọng lại hệt hổ gầm.
Và tôi thấy giọng ca vàng của anh yếu ớt,
Vòng vương miện trên đỉnh Kadbek.

XV
Уже пустыни сторож вечный,
Стеснённый холмами вокруг,
Стоит Бешту остроконечный
И зеленеющий Машук,
Машук, податель струй целебных;
Вокруг ручьёв его волшебных
Больных теснится бледный рой:
Кто жертва чести боевой,
Кто Почечуя, кто Киприды;
Страдалец мыслит жизни нить
В волнах чудесных укрепить,
Кокетка злых годов обиды
На дне оставить, а старик
Помолодеть – хотя <б> на миг.

XV
Đứng bảo vệ muôn đời vùng sa mạc,
Khắp bốn phía là đồi cao ngang dọc,
Beshtu khoe đỉnh núi nhọn hiện lên
Và Máshuk màu xanh cây chói mắt triển miên,
Nơi có nước khoáng nóng chuyên chữa bệnh;
Chung quanh những suối nguồn đầy huyền diệu
Bệnh nhân tìm về chữa đông nghịt vỡ tổ ong:
Người chết vì danh dự chiến binh,
Kẻ chết bệnh giang mai, vì Kipridda mà mất mạng;
Kẻ đau ốm mơ sợi chỉ cuộc đời cần giữ lại
Cho muôn đời trong sóng nước diệu kì,
Kẻ điệu đà những năm tháng dữ tợn bực mình
Để lại đáy nước sâu, còn các cụ
Mong trẻ lại - dù phút giây cũng đủ.

9.Почечуй, Киприда là các uyển ngữ, một dạng từ ám chỉ các bệnh xã hội như bệnh lậu, Giang mai.

XVI П
Питая горьки размышленья,
Среди печальной их семьи,
Онегин взором сожаленья
Глядит на дымные струи
И мыслит, грустью отуманен:
«Зачем я пулей в грудь не ранен?
Зачем не хилый я старик,
Как этот бедный откупщик?
Зачем, как тульский заседатель,
Я не лежу в параличе?
Зачем не чувствую в плече
Хоть ревматизма? – ах, Создатель!
[И я, как эти господа, Надежду мог бы знать тогда.]

XVI
Mang suy nghĩ đắng cay sâu trong dạ,
Giữa gia đình đang chán buồn tâm trạng,
Ônhêghin đưa ánh mắt tiếc nuối khôn nguôi
Nhìn dòng hơi nước đượm khói bay lên trời
Và suy nghĩ tối tăm, buồn rười rượi:
“Sao tôi không bị đạn găm vào ngực?
Sao tôi không phải ông già yếu dợt tả tơi,
Như kẻ xin chuộc lỗi không may?
Sao như gã quan to miền Tula nơi đó,
Tôi không liệt nằm im lìm một chỗ?
Sao không thấy trên vai mình mang tâm trạng này
Dù bệnh trẻ tuổi ham chơi? - Ôi trời cao đất dày!
[Còn riêng tôi, như các vị quan đấy Thì đã biết có hy vọng ngay lúc ấy.]

11.Зачем не чувствую в плече Хоть ревматизма? Bệnh tê thấp với nghĩa bệnh công tử quen ăn chơi

+ XVII П
[Блажен, кто стар! Блажен, кто болен, Блажен, чья смерть уже близка! Но я здоров, я молод, волен, Чего мне ждать? тоска! тоска!..» Простите, снежных гор вершины, И вы, кубанские равнины; Он едет к берегам иным, Он прибыл из Тамани в Крым.]
Воображенью край священный:
С Атридом спорил там Пилад,
Там закололся Митридат,
Там пел Мицкевич вдохновенный
И, посреди прибрежных скал,
Свою Литву воспоминал.

+XVII
[Hạnh phúc thay ai sống đến già và bị bệnh Người sung sướng được thần chết tìm về theo mệnh! Nhưng tôi trẻ trung, khoẻ mạnh, tự do, Chờ gì đây? Buồn thắt ruột, chán ghê!…” Xin tha lỗi, các đỉnh núi cao đầy băng tuyết, Và các bạn, những cánh đồng vùng Kuban bát ngát; Chàng tim về những bờ bến muôn phương Từ Taman chàng tới xứ Krưm.]
Một miền đất thiêng liêng trong tưởng tượng:
Nơi Atvrit, Pilat từng tranh giành không nhân nhượng
Nơi Mitridat tự kết liễu cuộc đời,
Ở đó Miskevich đầy phấn hứng hát vang trời
Và đứng giữa vùng đá dài ven biển
Mải hồi tưởng về Litva là BaLan yêu mến.

6.Kuban là con sông bắt nguồn từ khu đóng băng vĩnh viễn ở chân núi Elbrus về phía Bắc, sau đó đổ sang phía đông, chảy ra biển Adôp.
8Taman là cảng trên biển Đen, ở chính phía Tây Bắc Kavkaz.
10.Hai người bạn lí tưởng trong truyện huyền thoại của Hy Lạp cổ đại - Ôrest (Atrit) và Pilat bị sóng biển Xô giạt vào bờ biển Tavrida và bị buộc phải làm vật tế thần. Hai người rất cao thượng muốn nhận vai trò hy sinh để cứu bạn mình khỏi chết, nên khăng khăng nhất quyết không nhường nhau việc làm vật tế thần này.
11.Mitridat vị vua xứ Bôtspho cổ đại, sau khi thua trận với người La Mã đã tự kết liễu đời mình.
12.Mískevích - nhà thơ Ba Lan có tác phẩm “các bản sonat Krưm “
Dùng Litva thay cho Ba Lan - đây là cổ ngữ, trong phong cách của Puskin được coi là từ thi ca (ẩn dụ). Tuy nhiên, Miskevich là người từng theo học tại Vilno, trước khi bị đi đầy, đã sống một thời gian tại Kopno, trong tiếu sử của ông, địa danh này gắn chặt với Litva.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Nga du ký của Onh eghin (tiếp theo)

XVIII
Прекрасны вы, брега Тавриды,
Когда вас видишь с корабля
При свете утренней Киприды,
Как вас впервой увидел я;
Вы мне предстали в блеске брачном:
На небе синем и прозрачном
Сияли груды ваших гор,
Долин, деревьев, сёл узор
Разостлан был передо мною.
А там, меж хижинок татар…
Какой во мне проснулся жар!
Какой волшебною тоскою
Стеснялась пламенная грудь!
Но, муза! прошлое забудь.

XVIII
Những bờ biển Tavrida đẹp biết mấy,
Khi ta đứng trên tàu nhìn vào bờ thấy,
Trong ánh dương buổi sớm Kiprida
Lần đầu tiên mắt tôi được nhìn ra;
Bờ biển hiện lên trong ánh đèn nguy nga tiệc cưới:
Trên nền trời trong veo và xanh biếc
Đỉnh núi cao khoe từng nét hiện ra,
Đồng cỏ, cây xanh, làng mạc hiền hoà,
Tất mọi thứ trước mắt ta trải rộng.
Còn xa xa, bao nhà lều người Tacta được dựng…
Tôi thấy trong người nóng rực bừng bừng!
Ngập nỗi buồn thần diệu trong lòng
Bóp chặt cứng con tim hừng hực lửa!
Nhưng, hỡi thần âm nhạc! hãy quên đi quá khứ.

XIX
Какие б чувства ни таились
Тогда во мне – теперь их нет:
Они прошли иль изменились…
Мир вам, тревоги прошлых лет!
В ту пору мне казались нужны
Пустыни, волн края жемчужны,
И моря шум, и груды скал,
И гордой девы идеал,
И безыменные страданья…
Другие дни, другие сны;
Смирились вы, моей весны
Высокопарные мечтанья,
И в поэтический бокал
Воды я много подмешал.

XIX
Dù bất cứ tình cảm gì lắng đọng
Nhưng tôi thấy hồn mình sao trống rỗng:
Hết cả rồi tình cảm hay đã đổi thay…
Ơi những lo âu xưa cũ, hãy bình yên ngay!
Vào lúc đó, tôi thấy sao cần thiết
Những hoang mạc, sóng xô làm ngọc trai xuất hiện,
Tiếng sóng biển ồn ào, từng dãy núi cao,
Hình ảnh lí tưởng về cô nàng kiêu hãnh làm sao,
Những đau khổ không tên luôn dằn vặt…
Ngày mỗi khác, giấc mơ càng thêm khác,
Các bạn đã hiền hoà, những mơ ước cao sang
Trong mùa xuân của tôi sao tha thiết, nồng nàn,
Và cốc rượu thi ca đang nồng cháy
Tôi đã đổ pha thêm nhiều nước lã.
XX
Иные ну;жны мне картины:
Люблю песчаный косогор,
Перед избушкой две рябины,
Калитку, сломанный забор,
На небе серенькие тучи,
Перед гумном соломы кучи –
Да пруд под сенью ив густых,
Раздолье уток молодых;
Теперь мила мне балалайка
Да пьяный топот трепака
Перед порогом кабака.
Мой идеал теперь – хозяйка,
Мои желания – покой,
Да щей горшок, да сам большой.

XX
Tôi cần đến những bức tranh kiểu khác:
Tôi yêu thích doi cát dài bát ngát,
Hai cây thanh trà mọc trước cửa nhà,
Một hàng rào, cánh cửa đổ từng mảng phô ra,
Trên bầu trời, mây trôi qua màu xám,
Rơm đánh đống nằm kề bên kho thóc,
Mặt nước ao dưới bóng liễu xanh rì,
Đàn vịt con chạy nhảy vui đùa;
Giờ tôi thích tiếng đàn balalaika rộn rã
Với người nhảy điệu Trepak như điên, vội vã
Ngay trước khu ăn uống nhà hàng.
Lí tưởng tôi theo mong có người tề gia
Tôi mong ước sống hiền hoà, yên tĩnh,
Tôi là chủ, mình tôi riêng nồi canh tuỳ ý.

Trong ba khổ thơ này, Puskin đã ra tuyên ngôn về hai trường phái - lãng mạn và hiện thực-. Việc so sánh được thực hiện theo ba bình diện:
1.Thiên nhiên lý tưởng là: khác thường, độc đáo ↔ bình thường, đơn giản; xa ↔ gần; phía đông, phía nam ↔ nước Nga, phía Bắc.
2.Người phụ nữ lý tưởng là: siêu thực ↔ hiện thực, cao thượng ↔ tồn tại trên mặt đất, gắn với khoảng không lãng mạn vô biên (bão dông, núi non, biển hồ) gắn với thế giới gia đình ấm cúng, khép kín, đầm ấm và độc lập cá nhân.
3.Lý tưởng về nhân cách và hành vi riêng là: hạnh phúc ↔ bình yên và ý trí; xây dựng tiểu sử thi ca ước định cho tác giả ↔ sự giản dị và hành vi chân thực, tính chính xác nhân cách cá nhân trong tiểu sử.
14.Dòng thơ này lấy ý câu cách ngôn của Nga: Tôi ăn cháo bình thường, nhưng tôi đường đường là ông chủ.

XXI
Порой дождливою намедни
Я, завернув на скотный двор…
Тьфу! прозаические бредни,
Фламандской школы пёстрый сор!
Таков ли был я, расцветая?
Скажи, фонтан Бахчисарая!
Такие ль мысли мне на ум
Навёл твой бесконечный шум,
Когда безмолвно пред тобою
Зарему я воображал
Средь пышных, опустелых зал…
Спустя три года, вслед за мною,
Скитаясь в той же стороне,
Онегин вспомнил обо мне.

XXI
Có nhiều bận, trời đổ mưa bất chợt
Tôi tìm đến mái che nuôi súc vật…
Hừm! Đầu suy nghĩ vớ vẩn linh tinh,
Toàn màu mè theo trường phái Flamand!
Tôi là vậy ư, Tài năng tôi có ngày rực rỡ?
Hỡi đài phun nước Bactrisarai, mau nói nữa!
Trong đầu tôi chợt hiện ý nghĩ là
Do tiếng nước chảy bất tận gợi ra,
Khi tôi lặng im trước đài phun nước,
Tôi tưởng tượng bóng hình nàng Dảrema ngày trước
Giữa các phòng hoành tráng vắng hoe…
Ba năm sau, chàng đã bước theo tôi,
Đi đây đó, cùng một nơi, một hướng,
Ônhêghin nghĩ về tôi, liền nhớ đến.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Nga du ký của Ônheghin (tiếp Theo)

XXII
Я жил тогда в Одессе пыльной…
Там долго ясны небеса,
Там хлопотливо торг обильный
Свои подъемлет паруса;
Там всё Европой дышит, веет,
Всё блещет югом и пестреет
Разнообразностью живой.
Язык Италии златой
Звучит по улице весёлой,
Где ходит гордый славянин,
Француз, испанец, армянин,
И грек, и молдаван тяжёлый,
И сын египетской земли,
Корсар в отставке, Морали.

XXII
Vào lúc đó, tôi ở Odessa đầy bụi bặm…
Trên đầu ta trời trong veo, cao lồng lộng,
Việc buôn bán sôi động suốt đêm ngày
Thuyền giương buồm lên đón gió ngay;
Hơi thở châu Âu mang trong mọi vật,
Đều lộ rõ màu phương Nam đậm đặc,
Cuộc sống sôi động muôn dạng tràn trề.
Ngôn ngữ Itali vàng ngọc đáng say mê
Nghe vang vọng khắp mọi nơi tươi trẻ.
Nơi thấy dáng Slavơ kiêu kiêu bước nhẹ,
Người Tây Ban Nha, người Pháp, Armenia,
Người Hy Lạp và bệ vệ là dân Moldavia,
Và con trai của quê hương Ai Cập
Là Morali đã rút lui về ẩn dật.

12.Morali (Maure Ali, tiếng Pháp là mavr Ali), người này sinh ra tại Tuynidi, là thuyền trưởng. Nghĩa là, làm chủ tàu riêng hay buôn bán. Khoảng tuổi 35. Người ta nghi ngờ là ông này đã làm giàu nhờ nghề cướp biển.

XXIII
Одессу звучными стихами
Наш друг Туманский описал,
Но он пристрастными глазами
В то время на неё взирал.
Приехав, он прямым поэтом
Пошёл бродить с своим лорнетом
Один над морем – и потом
Очаровательным пером
Сады одесские прославил.
Всё хорошо, но дело в том,
Что степь нагая там кругом;
Кой-где недавний труд заставил
Младые ветви в знойный день
Давать насильственную тень.

XXIII
Ôdessa trong bài thơ vang vọng
Bạn của ta Tumanski vẽ lên cô đọng,
Nhưng ông nhìn, mắt chăm chú say sưa.
Ông lúc này đang hướng tới kinh thành kia,
Khi đến đó, ông đã là thí sỹ thật,
Chân đi dạo, cầm trên tay kính mắt
Một mình ông trên biển ngắm, sau rồi
Bằng ngòi bút miêu tả thật tuyệt vời
Đã ca ngợi những khu vườn ở Odessa tuyệt mỹ.
Gì cũng đẹp, nhưng vấn đề ở chỗ,
Nhìn bốn phương thấy đồng cỏ trụi trần;
Nhờ bàn tay ai đó mới ngày nào
Bắt cây non phủ bóng râm trong ngày oi bức
Đem hơi mát cho người đời thưởng thức.
XXIV
А где, бишь, мой рассказ несвязный?
В Одессе пыльной, я сказал.
Я б мог сказать: в Одессе грязной –
И тут бы, право, не солгал.
В году недель пять-шесть Одесса,
По воле бурного Зевеса,
Потоплена, запружена,
В густой грязи погружена.
Все до;мы на аршин загрязнут,
Лишь на ходулях пешеход
По улице дерзает вброд;
Кареты, люди тонут, вязнут,
И в дрожках вол, рога склоня,
Сменяет хилого коня.

XXIV
Kể đến đâu rồi, chuyện tôi sao lộn xộn?
Đến Ôdessa bụi bám đầy, tôi vừa nói đoạn.
Đáng ra tôi có thể nói Ôdessa bẩn kinh -
Và ở đây, nói thật, đúng sự tình.
Cứ hàng năm, Ôdessa năm sáu tuần đau khổ,
Theo chủ ý của thần Dớt gây bão tố,
Thành phố này ngập nước với cát bùn,
Cả kinh thành ngập ngụa trong đất luôn,
Nhà cửa phủ trong bụi dầy hàng tấc
Người đi bộ chỉ có cách đi trên cây cà kheo tất
Lội trên phố, vượt nước dâng ngập khá cao;
Cả xe ngựa, cả người ướt, dính bùn sâu,
Bò lội nước, hướng sừng mau xuống dưới
Làm công việc thay ngựa còm yếu đuối.

10….на ходулях…-Hình như, tôi có đọc ở đâu đó nói rằng (người Ôdessa nói tiếng Nga thuộc loại dở nhất ở Nga), họ gọi thứ giày đế gỗ cao là “cây cà kheo” (cái đồ dùng để đi lại lúc trời mưa ngập nặng). Tuy nhiên, tôi thấy có chút nghi ngờ là Puskin, chẳng do yêu cầu đặc biệt gì cả, mà lại xử dụng một cách nói thông tục như vậy. Làm như thế thì phá hỏng thủ pháp ngoa dụ - thậm xưng vốn là cơ sở cho cả khổ thơ này.

XXV
Но уж дробит каменья молот,
И скоро звонкой мостовой
Покроется спасённый город,
Как будто кованой бронёй.
Однако в сей Одессе влажной
Ещё есть недостаток важный;
Чего б вы думали? – воды.
Потребны тяжкие труды…
Что ж? это небольшое горе,
Особенно, когда вино
Без пошлины привезено.
Но солнце южное, но море…
Чего ж вам более, друзья?
Благословенные края!

XXV
Nhưng búa đập, đá cũng thành nát vụn,
Đường được trải đá nhanh, bánh xe lăn lục cục,
Đá phủ khắp Ôdessa được cứu giúp rồi,
Mặt đường như che bằng vỏ thép mọi nơi.
Nhưng giờ đây Ôdessa ẩm ướt hơn mọi chỗ,
Còn thiếu sót, đáng ra, cần nói rõ;
Bạn nghĩ gì? Nạn thiếu nước quá trời.
Lao động nặng nề cần lắm nước thôi…
Thế thì chuyện không may đâu coi là lớn lắm,
Đặc biệt là khi rượu vang chở tới
Đưa đến Ôdessa được miễn thuế đàng hoàng.
Nhưng biển trời, nhưng ánh nắng phương Nam…
Cần gì nữa? Ơi bạn vàng thân thiết?
Một vùng đất trông xinh tươi đẹp tuyệt!

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Nga du ký của Ônhêghin (tiếp theo)

XXVI
Бывало, пушка зоревая
Лишь только грянет с корабля,
С крутого берега сбегая,
Уж к морю отправляюсь я.
Потом за трубкой раскалённой,
Волной солёной оживлённый,
Как мусульман в своём раю,
С восточной гущей кофе пью.
Иду гулять. Уж благосклонный
Открыт Casino; чашек звон
Там раздаётся; на балкон
Маркёр выходит полусонный
С метлой в руках, и у крыльца
Уже сошлися два купца.

XXVI
Vào sáng sớm, Odessa chào rạng đông bằng tiếng pháo
Tàu tuần tiễu đúng giờ nổ súng báo,
Từ bờ biển dốc đứng tôi lao ra,
Chân bước về phía biển xa xa.
Bên ống hút được đốt cho nóng rát,
Thêm nước muối làm cho người thoải mái,
Như người theo đạo Hồi ngồi mãi chốn thiên đàng,
Tôi nhâm nhi cà phê thấm đặc vị phương đông.
Chân đi dạo. Casino tỏ ra niềm nở
Đã mở cửa; Tai nghe vọng rõ
Tiếng chạm va cốc chén. Bước ra ban công
Là người phục vụ bàn bi-a ngái ngủ dở dang
Tay cầm chổi, và khi lên tam cấp,
Hai thương nhân va chạm nhau sát sạt.

XXVII
Глядишь – и площадь запестрела.
Всё оживилось; здесь и там
Бегут за делом и без дела,
Однако больше по делам.
Дитя расчёта и отваги,
Идёт купец взглянуть на флаги,
Проведать, шлют ли небеса
Ему знакомы паруса.
Какие новые товары
Вступили нынче в карантин?
Пришли ли бочки жданных вин?
И что чума? и где пожары?
И нет ли голода, войны
Или подобной новизны?

XXVII
Bạn nhìn đấy, quảng trường người sặc sỡ.
Mọi thứ sống động hơn; khi trông đây trông đó
Người nháo nhào bận việc hay có kẻ rảnh rang,
Nhưng phần nhiều đang bận rộn việc làm.
Quen tính toán tinh tường và cả quyết,
Thương nhân chân đi, mắt nhìn cờ biển,
Đang muốn biết, trời cao có gửi cho
Những cách buồm thân thiết đang chờ mong.
Có hàng hoá mới nào đang gửi đến
Đúng vào lúc nghỉ cách ly xuất hiện?
Hàng rượu nho đang đợi liệu có sang?
Dịch hạch ư? và hoả hoạn ở đâu chăng?
Liệu có nạn đói, nơi nào chiến tranh không nhỉ,
Hay có những tin gì về mới mẻ?

XXVIII
Но мы, ребята без печали,
Среди заботливых купцов,
Мы только устриц ожидали
От цареградских берегов.
Что устрицы? пришли! О радость!
Летит обжорливая младость
Глотать из раковин морских
Затворниц жирных и живых,
Слегка обрызнутых лимоном.
Шум, споры – лёгкое вино
Из погребов принесено
На стол услужливым Отоном;
Часы летят, а грозный счёт
Меж тем невидимо растёт.

XXVIII
Nhưng ta rỗi, thảnh thơi, vô lo lắng,
Giữa đám thương nhân còn đang lo bấn
Ta chỉ chờ món hàu biển mà thôi.
Từ bờ biển Tsaregrad chở đến tận nơi
Hàu đã tới? Thế à! Sao đời vui thế!
Tuổi trẻ háu ăn bay qua nhanh lẹ,
Chỉ muốn xơi món hàu biển ngon lành,
Loại hàu béo và mới bắt tươi kinh,
Có chanh thái lát phủ lên thêm nữa.
Ồn ào, luận tranh - rót thêm rượu nhẹ
Được đem ra từ tận dưới nhà hầm
Chủ khách sạn Ôtôn phục vụ tận tâm;
Thời gian phóng nhanh, mà hoá đơn thanh toán
Cứ lặng lẽ tăng làm ta choáng váng.

12.Chủ khách sạn nổi tiếng ở Ôdessa. (Ghi chú của Puskin). Đây là Puskin đã phiên âm tên Cesar Automne hay Autonne - chủ khách sạn trên phố Đêribasôpskaia, ở vị trí đối diện với “Casino”.

XXIX
Но уж темнеет вечер синий,
Пора нам в оперу скорей:
Там упоительный Россини,
Европы баловень – Орфей.
Не внемля критике суровой,
Он вечно тот же, вечно новый,
Он звуки льёт – они кипят,
Они текут, они горят,
Как поцелуи молодые,
Все в неге, в пламени любви,
Как зашипевшего аи
Струя и брызги золотые…
Но, господа, позволено ль
С вином равнять do-re-mi-sol?

XXIX
Nhưng trời tối đang chuyền mầu tím ngắt,
Đã đến lúc nhanh chân vào rạp hát:
Trên sân khấu Rôsinhi cất giọng ngọt sớt mê say,
Tay chơi đàn Orpheus có tiếng châu Âu này.
Không nghe theo ý kiến phê bình gay gắt,
Ông suốt đời là mình, luôn mới mẻ nhất,
Phát ra âm thanh réo rắt nhạc sục sôi,
Như nước nguồn chảy, như lửa cháy khắp trời,
Như nụ hôn trao môi người tình trẻ,
Tâm hồn ngập tràn yêu thương rực lửa,
Như sâm panh đang sủi bọt chảy tràn,
Rượu phun lên, bọt rượu đậm ánh vàng…
Nhưng thưa quý ngài, ta có xin phép để
Coi các nốt đô - rê - mi - sol ngang rượu nhẹ?

3.Rosinhi Dg. (1792-1868) nhạc sỹ người Ý.
4.Ocfey - theo người Hy Lạp, đây là danh ca và nhạc công vĩ đại nhất.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời

Trang trong tổng số 3 trang (22 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối