Dưới đây là các bài dịch của Văn Lang. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 41 trang (405 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hoài nghi (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Hận chưa thuộc phép thu đất lại
Hận chẳng am thuật rải khăn bay
Lòng thành hoá đá mai nay
Không còn nước mắt đắng cay trên lầu
Lúc quay đầu ngắm mầu liễu thắm
Tiếc chưa can chàng hám công hầu
Ai ngờ vạn cách ngàn sầu
Lòng chàng biết có tâm đầu cùng chăng
Nếu chàng nghĩ y rằng như thiếp
Thì đôi mình trách nghiệp cho ai
Thiếp như hoa hóng nắng mai
E chàng là nắng lúc phai lúc vàng
Khi nắng nhạt hoa càng vàng võ
Khi nắng tràn hoa rõ vàng tươi
Xoay đầu theo nắng mỉm cười
Sao đành đi mãi để người khóc hoa
Nắng xa hoa cố cưỡng già
Mỏi mòn đợi nắng gục ra dưới tường

Ảnh đại diện

Vọng tầm (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Vị chua cay mỗi ngày thêm nặng
Rõ vì chàng dù chẳng ai mong
Vì chàng lệ thiếp đôi dòng
Vì chàng chiếc bóng cô phòng tủi thân
Thân thiếp chẳng được gần trướng gấm
Lệ thiếp chưa được thấm khăn chồng
Chỉ hồn trong giấc mơ mòng
Đêm đêm lần tới bến sông tìm chàng hoài
Tìm chàng ở Dương Đài đường bộ
Tìm chàng nơi Thương Phố bến xưa
Bao phen mừng rỡ say sưa
Thiếp ôm gối mộng giữa mùa xuân phong
Khi tỉnh giấc hận không bằng mộng
Ải Hàm sông Lũng sống bên chàng
Mộng đi sợ đứt bàng hoàng
Mộng về sợ giấc mơ hoang không thành
Tơ lòng thiếp chẳng manh nào đứt
Chưa bao giờ một phút xa rời
Lòng gần mà chẳng thấy người
Lên lầu nhìn mãi đất trời vần xoay
Phía Nam bãi mọc đầy tần trắng
Cỏ dâu dầm trong nắng vàng xanh
Nửa làng khói bụi chiến tranh
Bầy cò đậu bãi cát hanh loạn hàng
Phía Bắc ruộng nửa hoang nửa sạm
Đường cái quan vài trạm dừng chân
Cây cùng núi giảm sắc xuân
Lầu sông tiếng sáo khẽ ngân nga buồn
Phía Đông lá ngập sườn núi vắng
Trĩ vội bay, mai lặng ngả theo
Núi mù khói phủ buồn teo
Gió tây đưa tiếng chim reo não lòng
Phía Tây nước uốn vòng nhiều khúc
Buồm quay về, nhạn vút bay đi
Rừng thông đứt nối từng khi
Cồn xanh khuất dạng người ly hương rồi
Dõi mắt nhìn cùng trời cuối đất
Cứ lầu cao lật đật xuống lên
Mây ngăn nỗi nhớ, tầm nhìn
Làm sao lầu vắng nối liền biên khu

Ảnh đại diện

Thất vọng (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Lòng buồn chán chuyện nào cũng kệ
Phấn son còn bê trễ không dồi
Nữ công gia chánh buông trôi
Gối uyên khăn bướm lần hồi chẳng xong
Sớm lại tối tựa song biếng nói
Bên song buồn lại nhói tim đau
Vắng chàng còn thiết chi đâu
Má hồng môi đỏ thắm màu...ai thương
Khi trang điểm nhìn gương càng hận
Càng tủi mình lận đận chia phôi
Hằng Nga, Chức Nữ lẻ đôi,
Cung trăng lạnh ngắt, bồi hồi giọt ngâu.
Sầu lớp lớp đành xâu làm gối
Nhớ trùng trùng đành thổi làm cơm
Mượn rượu đắng, mượn hoa thơm
Sầu đông rượu nhạt, sầu nồm hoa phai
Cầm sáo trúc thổi hoài tiếng vỡ
Ôm đàn tranh chẳng nỡ khảy dây
Xót đường gai góc đó đây
Hành trang trĩu nặng vai gầy gian lao
Chim cuốc gọi khơi trào nước mắt
Trống tiều khua nhịp thắt buồng gan
Võ vàng tiều tuỵ dung nhan
Trái ngang mới biết vô vàn chua cay

Ảnh đại diện

Sầu muộn (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Sầu này chẳng thốt nên câu
Đèn chong bóng chiếc giọt sầu rơi nhanh
Gà eo óc năm canh lạnh vía
Hoè phất phơ bốn phía đổ râm
Khắc lâu đằng đẵng bằng năm
Sầu dài dằng dặc tợ gầm biển xa
Hương gượng đốt hồn hoà theo khói
Người gượng soi hình cỗi trước gương
Sắt cầm gượng gảy mà thương
Dây loan phượng đứt, dây uyên ương chùng
Mượn gió đông hoà cùng tình mọn
Tấm lòng vàng gởi ngọn núi Yên
Núi Yên chẳng được nối liền
Nhớ chàng dằng dặc tợ xuyên đường trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Thiếp nhớ chàng đau đáu chờ mong
Cảnh buồn người cũng nao lòng.
Vòm cây sương phủ, dế cùng mưa than
Sương như búa, bổ phang dương liễu
Mưa như cưa, cắt xẻo ngô đồng
Chìm trời lạc gió trên không
Sương mù lạnh vách trùng gồng mình rên
Chuông chùa xa điểm lên vời vợi
Tiếng trùng đêm đếm mỗi hạt mưa
Gió phang tàu chuối xé tưa
Gió xuyên khe cửa, gió khua dải rèm
Bóng hoa động trên rèm trăng chiếu
Hoa soi trăng yểu điệu trắng hồng
Nguyệt hoa hoa nguyệt trêu chòng
Ngắm hoa thưởng nguyệt mà lòng quặn đau

Ảnh đại diện

Vọng tưởng (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Xuân nối xuân thư qua thư lại
Xuân nay tàn, thư đợi uổng công
Nhạn về, thư mỏi mòn trông
Nghe sương, đan vội áo bông sợi dầy
Gởi cánh hồng gió tây giật ngược
Hóng ngoài xa mưa ướt tuyết hàn
Màn mưa trướng tuyết gian nan
Xót chàng lạnh lẽo, khó an giấc nồng
Thư bọc lụa gói xong lại mở
Bói gieo tiền thấy gở lại gieo
Chiều tà chiếc bóng hắt theo
Trăng khuya gối lẻ rối nhèo tóc mây
Nào đến nỗi hồn bay phách lạc
Mà buông tuồng nhếch nhác ngáo ngơ
Trâm rơi tóc xoã ơ thờ
Eo thon váy trễ bơ phờ tấm thân
Trưa lần bước quanh sân lặng lẽ
Chiều vén rồi buông nhẹ dải mành
Vén - trông thước báo tin lành
Buông - ngồi tâm sự quẩn quanh với đèn
Đèn dẫu biết, bõ bèn chi chớ
Lòng biết lòng vụn vỡ sầu đau

Ảnh đại diện

Cô lánh (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Thử tính lại từ ngày cách trở
Ao sen này đã nở mùa ba.
Xót tình xót cảnh đôi ta,
Xót người lính thú ải xa ngày dài.
Tình mẫu tử thời ai chẳng trọng
Nghĩa chinh phu ngày ngóng đêm mơ
Mẹ già vợ dại con thơ
Mẹ đầu sương điểm, con khờ ê a
Mắt mẹ buồn nhìn xa tựa cửa
Miệng con thèm bú sữa đòi ăn
Dạy con nuôi mẹ nhọc nhằn
Trăm dâu đầu thiếp băn khoăn trẻ già
Cung dưỡng mẹ thiếp là hiếu tử,
Dạy dỗ con thiếp tự phụ thân.
Chàng đi biết mấy mùa trăng,
Ngày mòn mỏi đợi, năm dằng dặc trông.
Chàng ải khổ ba đông bốn hạ,
Thiếp tơ sầu ngàn ngã ngổn ngang.
Ước gì gần gũi tấc gang
Kể niềm sầu tủi mênh mang vô bờ
Trâm cài tóc ngay giờ xuất giá
Gương soi lòng thật giả gió trăng
Cả đôi gởi tới nhắn rằng
Hãy soi lòng thiếp võ vàng lẻ loi
Này nhẫn bạc trao hồi hoa chúc
Này lược ngà chơi lúc thơ ngây
Cũng nhờ gởi tới chàng đây
Để nâng niu suốt tháng ngày bôn ba

Ảnh đại diện

Hoài tưởng (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Biết ai để ngỏ mấy lời
Bên song thiếp tựa, chân trời chàng đi
Sau song, thôi xá gì phận mọn
Ngoài trời, xin giữ trọn thân mình
Đã nguyền cá nước vẹn tình
Ai ngờ mây nước thình lình cách xa
Ôi khó tưởng thiếp là chinh phụ
Còn chàng theo nghiệp vũ quan đâu
Cớ chi đứt phựt nhịp cầu
Khiến người khuya sớm giọt sầu miên man
Một thiếu niên thuộc hàng công tử
Một vốn là khuê nữ trăng tròn
Khó kham cho cặp trẻ son
Phải xa ngàn dặm mỏi mòn nhớ nhau
Lúc giã từ liễu trao oanh hót
Hứa khi về thánh thót quyên ca
Giờ quyên hút bóng, oanh già
Trước lầu liễu biếc, én đà gọi thưa
Cầu đầu đông mai chưa dạn gió
Hứa ngày về đào rộ khoe bông
Nay đào thôi cợt gió đông
Mai tàn rụi hết, phù dung nở đầy
Hứa gặp tại Lũng Tây hôm ấy
Sớm đã chờ nào thấy hơi tăm.
Lá vàng rụng tóc buông trâm
Tiếng đàn trưa vắng bổng trầm oán thương
Lại hứa cầu Hán Dương sẽ gặp
Lại chờ trông tận sắp chiều tàn
Núi phà gió thốc áo choàng
Ức tràn ngọn sóng, lạnh tràn bến sông
Thư trở lại, người không về lại
Hoa liễu tàn phủ dải rêu xanh
Rêu xanh mấy lớp tàn nhanh
Dạo sân mỗi bước trăm manh tơ lòng
Năm lại năm người không giữ hẹn
Bức rèm thưa bịn rịn chiều buông
Bóng chiều ngàn bận vào buồng
Chín hò mười hẹn vốn thường quên ngay

Ảnh đại diện

Bi cụ (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Chàng từ lúc băng ngoài gió hú
Chỉ trăng tường đồn trú nơi nào
Xưa nay lều trại luỹ hào
Người đi chinh chiến xó nao cũng nhà
Gió quần quật thịt da đau cứa
Nước sâu sâu vó ngựa mỏi chồn
Lính biên tựa trống ngáy dồn
Chiến binh ôm ngựa ngủ cồn cát hanh
Nay ở Bạch Đăng thành đất Hán
Mai lại Thanh Hải mạn trời Hồ
Núi xanh cao thấp nhấp nhô
Suối sâu liền đứt quanh co ven lùm
Trên đỉnh núi tuyết trùm xanh trắng
Dưới lòng khe nước lặng nông sâu
Xót chàng giáp mỏng áo nhầu
Nghĩ về nghĩa lớn mày cau nhẫn nhường
Trên trướng gấm quân vương biết chớ
Nét chinh phu khắc khổ ai tô
Hãy thương đời lính giang hồ
Xa nhà dầu dãi lâm vô hiểm nghèo
Thân gió bão hang beo ổ rắn
Đầu dãi dầu mưa nắng tuyết sương
Nhìn trời mây trắng tha hương
Lên lầu mỗi lúc càng vương nặng sầu
Sau chia biệt góc cầu hôm ấy
Biết giờ chàng vùng vẫy nơi đâu
Mấy người chinh chiến bấy lâu
Vẫn coi sinh tử nhẹ hầu bồng tang
Vung mũi giáo dọc ngang đền nợ
Phá vòng vây khép hở liều thân
Núi Kỳ nghĩa trũng trăng ngần
Bến Phì gò mộ gió dâng bồn chồn
Gió bồn chồn gọi hồn tử sĩ
Trăng mênh mang soi kỹ chinh phu
Chinh phu ai khắc hình thù
Khóc hồn tử sĩ xuân thu ai từng
Ôi tranh đoạt không dừng triều cũ
Giờ đi ngang khách rủ lòng thương
Mấy ai thoát khỏi sa trường
Hoạ hoằn, tóc đã điểm sương mới về
Nghĩ cảnh chàng mải mê giục vó
Ba thước gươm một bộ yên cương
Đuổi trăng vượt gió sa trường
Tên reo đầu ngựa giáo giương khắp thành
Trăm bề bộn công danh còn dở
Muôn nhọc nhằn gian khổ chưa ngơi

Ảnh đại diện

Xuất chinh (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Dưới chân cầu nước xanh trong vắt,
Lối cỏ xanh liền mặt nước xanh
Nước sông sùng sục cuốn nhanh
Sóng cầu lặng lẽ vây quanh sóng lòng
Tiễn đường bộ thiếp không bằng ngựa
Tiễn đường sông thiếp chửa bằng thuyền
Nước trong nào rửa nhạt phiền
Cỏ non thơm ngát chẳng thuyên ruột bầm
Lời trao lời, tay cầm tay chặt
Chân theo chân, áo sát áo hơn
Theo chàng, lòng thiếp trăng tròn
Lòng chàng vạn dặm như hòn núi xanh
Ném ly bôi, múa thanh bảo kiếm
Quơ giáo ngang trực điểm hang kình
Học Trưng Vương lấy Động Đình
Học Ngô Quyền bủa thuỷ chinh Bạch Đằng
Tuyết trắng nhuộm ngựa chàng trắng toát
Ráng đỏ in áo khoác đỏ màu
Chuông ngựa dồn, trống hối mau
Ánh nhìn vạn nỗi, chân cầu đôi phương
Bồi hồi ngóng hút đường cờ hiệu
Quân xa về Tế Liễu hội binh
Hàm Dương quân kỵ đăng trình
Theo quân chàng phải dứt tình mà đi
Liễu dương liệu hiểu gì chăng hỡi
Có nghe lòng thiếp rối như tơ
Hoa mơ rụng, bóng cờ mờ
Mây giờ về núi, mình giờ xa nhau
Chàng đi áo bạc nhàu sương gió
Thiếp về buồng lạnh nhớ chiếu chăn
Ngoái nhìn, mình đã cách ngăn
Chỉ còn núi biếc mây giăng trắng trời
Bóng Hàm Dương bời bời chàng ngóng
Bóng Tiêu Tương phấp phỏng thiếp trông
Khói Tiêu Tương mịt bờ sông
Cây Hàm Dương kín từ đông sang đoài
Cùng ngoái lại  tìm hoài hút mắt
Thấy bạt ngàn xanh ngắt ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngút một màu,
Lòng chàng dạ thiếp ai sầu hơn ai?

Ảnh đại diện

Loạn thời (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Thuở gió bụi thổi tung trời đất
Khách má hồng chất ngất truân chuyên
Ai gây nên cảnh đảo điên?
Lão trời mê ngủ thản nhiên cựa mình
Trống Trường Thành rung rinh trăng lạnh
Khói Cam Tuyền quánh quạnh mây bay
Đức vua vỗ kiếm quắc mày
Nửa đêm truyền hịch sắp bày quân binh
Ba trăm năm thanh bình vụt dứt,
Khắp võ quan nhậm chức khoác bào
Sứ truyền sớm giục anh hào
Việc công là trọng sá nào tình riêng
Tay thắt chặt đai yên cung tiễn
Lòng nặng tình oanh yến thê nhi
Ải xa phần phật quân kỳ
Đùng đùng trống trận, từ ly quặn lòng
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào hiệp
Xếp bút nghiên theo nghiệp cung đao
Đoạt thành dâng chín tầng cao
Nguyện vung kiếm thép xông vào nguy nan
Chí làm trai dặm ngàn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa lông hồng.
Giã nhà vào cuộc tang bồng
Vút roi đuổi gió băng sông vượt gành

Trang trong tổng số 41 trang (405 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối