Trang trong tổng số 13 trang (121 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thính đàn cầm - Hoạ Tiểu Long Nữ thi (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Ve réo hơi mưa lạnh tịch dương;
Đàn rung, lữ khách mối sầu dăng.
Bảy dây này buổi vang rừng núi;
Một khúc nào khi động đế vương.
Nước chảy mây trôi còn oán hận;
Non cao trăng sáng những bi thương.
Ngang trời nhạn lẻ kêu chiều vắng;
Than thở dừng tay nhớ cố hương.

Ảnh đại diện

Hoạ Việt Thạch “Hiểu vọng” ký thi, kiêm trình Tượng Sơn (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Tàn đêm vừa tạnh mưa thu;
Mở song đã nhận lờ mờ hơi may.
Cúc vàng mới nở một hai;
Sen hồng lá đã tàn phai ít nhiều.
Vách xanh còn chửa lên trèo;
Tựa lan can đỏ ra chiều ngẩn ngơ.
Buổi trăng tròn hãy gắng chờ;
Núi Voi cùng ngắm bầu thu cao vời!

Ảnh đại diện

Vịnh cúc (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Thu nguyệt một vừng bạc;
Rào đông mấy đốm vàng.
Hương bay xưa Bành Trạch;
Gấm dệt nay Dư Hàng.
Sương lạnh riêng cùng nở;
Năm tàn hằng vẫn thương.
Muộn bông ai hiểu ý;
Nhàn tĩnh khác hoa thường.

Ảnh đại diện

Độc Thư sơn tuyết trung (Nguyên Hiếu Vấn): Bản dịch của Châu Hải Đường

Năm xưa muốn về về chẳng được,
Năm ngoái giữa đường phải dừng bước.
Cuối đời đâu ngỡ có hôm nay,
Bất chợt núi quê trước mắt bày.
Hàng xóm đông tây rượu trăm hũ,
Chủ nâng chén chúc khách trường thọ.
Say vung tay áo kéo xuân về,
Liễu biếc, hoa hồng muôn xóm ngõ.
Sơn thần vì lão cũng mặc lòng,
Thế gian phủ khắp một màu bông.
Phải hiềm áo mặc còn đơn bạc,
Nên đem phấn ngọc điểm non sông.
Người bảo, quê ta Thái Vi ánh,
Sắp có mây vàng ba vạn khoảnh.
Sắm vai Trần Quán biết ai người,
Lại đến cùng ta ngồi nướng bánh?

Ảnh đại diện

Sơ phát Gia Châu (Tô Thức): Bản dịch của Châu Hải Đường

Sáng đi trống giục thùng thùng,
Gió tây man mác phập phồng cờ bay.
Quê hương xa cách đã rày,
Bồi hồi lòng khách buổi ngày ra đi.
Mịt mờ dòng Cẩm thấy chi,
Sông Man trong vắt yêu vì vẻ xanh.
Lướt bay Chân Phật qua nhanh,
Bình xuyên thẳng tới mông mênh đất trời.
Chợ quê thiền khách có người,
Chiều hôm tìm khói Điếu đài ngẩn ngơ
Hẹn cùng, đến trước bao giờ,
Đứng lâu để mặc lững lờ nước trôi.

Ảnh đại diện

Khuất Nguyên tháp (Tô Thức): Bản dịch của Châu Hải Đường

Dân Sở thương Khuất Nguyên,
Ngàn năm tình chẳng hết.
Hồn phách bay nơi nào,
Nghẹn ngào hoài thương tiếc.
Sông xanh mãi đến giờ,
Ném bánh cứu đói khát.
Nay còn tục đua thuyền,
Núi Sở rung hò hét.
Khuất Nguyên tráng sĩ xưa,
Đến chết lòng lẫm liệt.
Người đời có biết đâu,
Quyến luyến không đành quyết.
Nam Tân xưa thuộc Sở,
Trên núi còn ngọn tháp.
Thờ Phật vốn là nơi,
Thờ ngài khỏi mai một.
Chuyện này tuy vô bằng,
Tình này nghe thống thiết.
Thọ yểu đắn đo gì,
Người xưa ai chẳng chết.
Danh tiếng thật vô cùng,
Giàu sang chỉ tạm biết.
Đại phu hiểu lẽ này,
Thà chết ôm khí tiết.

Ảnh đại diện

Phù Châu đắc sơn hồ thứ Tử Do vận (Tô Thức): Bản dịch của Châu Hải Đường

Trọn buổi nhốt trong lồng,
Ngoảnh đầu tiếc cánh nhung.
Ai hay lời réo rắt,
Tự bởi ý trùng trùng.
Tối ngủ bến khói toả,
Ngày kêu núi nắng hồng.
Tổ xưa đừng quyến luyến,
Diều cắt há còn dung?

Ảnh đại diện

Trùng dương - Hoạ Nguyệt Sinh vận (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Tối trước dậu đông hoa muộn nhen;
Hôm nay chơi núi ngựa xe chen.
Thù du say khướt đầu còn cắm;
Búa nát, cờ tiên chẳng dám xem!

Ảnh đại diện

Hoạ Hàn Thân “Trùng du Đại Quan viên” kỳ 1 (Châu Hải Đường): Bản dịch của Châu Hải Đường

Khắp chốn trùng kêu gợi mối sầu;
Cố nhân đi khuất chẳng quay đầu.
Hoa tàn hoa nở vì ai nhỉ;
Gió lạnh riêng còn thổi ngập lầu.

Ảnh đại diện

Sắc tứ Tú Phong tự bi (Hồ Nguyên Trừng): Bản dịch của Châu Hải Đường

Chính nghị Đại phu, Tư trị doãn Công bộ Tả thị lang, Lê Trừng người Giao Nam soạn.
Tướng sĩ lang, Hồng Lô tự Tự ban, Quý Thuần người Quát quận viết chữ.
Văn lâm lang, Đại Lý tự Hữu tự Hữu bình sự – Trang Sâm ở Thanh Nguyên viết chữ triện trán bia.

Từ kinh đô đi về phía tây thành hơn sáu mươi dặm, có ngôi chùa tên gọi Tú Phong, vốn do quan thái giám Cao Nhượng cùng với nhà sư trụ trì là Trí Thâm sáng lập lên. Trí Thâm là bậc danh tăng ở Giao Nam vốn người họ Ngô, từ nhỏ đã xuất gia, khắc khổ học hỏi. Năm Mậu thân niên hiệu Tuyên Đức (1428) sư đến Bắc Kinh, ngẫu nhiên gặp đại quốc sư giảng kinh ở ti Tăng lục, có các ngài Nguyệt Công, Luật Thiếp biết đến. Lại nhân các ông Nghĩa Ô, Hiển Toản, Thắng Nạp, Lý Thiền, Nhẫn Tam đều là những người có tình đồng hương mà đắc lễ. Đại pháp sư là bậc Tây thiên Phật tử có lòng quảng thiện bao trùm bèn truyền cho tâm ấn và trụ trì ở chùa Đại Giác trên núi Dương Đài. Thường ngày sư đọc hết kinh Đại Tạng, suốt thời gian dài không xuống núi, giới hạnh rất tinh nghiêm, mọi người đều kính ngưỡng.

Một hôm, sư chống gậy dạo bước lên phía bắc chùa chừng 3 dặm đến sườn núi Tú Phong, trông thấy cảnh trí đẹp đẽ, hình thế như rồng cuộn hổ nằm, vách đá chon von vây bọc quanh phía sau, bên phải bên trái hai dòng suối nối dòng ở trước mặt, cỏ cây mươn mướt, hoa quả tốt tươi, ý chẳng phải nơi phàm địa. Sư bèn hỏi thăm các bậc già lão, thì thấy bảo: các cụ già truyền lại đất này vốn là nơi chùa thiêng ngày xưa. Trí Thâm vui sướng nghẹn ngào nguyền sẽ khôi phục lại nơi đất thánh. Cao công nghe được mừng lắm, bèn ra sức phát tâm, dốc hết tiền của đứng ra làm chủ công đức, cùng với thái giám Trần Ngang, trung quý Hoàng Hùng, Nguyễn Phúc Thâm, Phạm Giác Thọ, Bùi Hỉ, Kim Cương, Nguyễn Giác Mục, Trịnh Trí Quảng, Châu Phổ Minh, Trương Phúc Sơn,… cùng bỏ tiền riêng giúp sư xây dựng đạo trường để cầu chúc thiên hạ thái bình, đức vua muôn tuổi.

Sư bèn dụng tâm sắp đặt, bố trí quy mô, tự mình chăm chỉ tân cần để làm gương cho môn đồ, sắp đặt tiền gạo dồi dào để thợ thuyền kéo đến. Thế là từ mùa xuân năm Quý sửu niên hiệu Tuyên Đức (1433) bắt đầu khởi tạo, đến mùa đông năm Đinh tỵ niên hiệu Chính Thống (1437) thì xong, chưa tới năm sáu năm mà sơn môn chất ngất, điện vũ nguy nga, màu son chói lọi, kim bích lung linh, tường hoa quanh co, toà ngang dãy dọc, phàm những nơi thường phải có thì chỗ nào chỗ ấy đều đầy đủ. Thái giám Trần Ngang, Nguyễn Tông lại quyên góp gia tư, để in ấn Đại Tạng kinh, đầy đủ hộp tủ nghiêm trang lưu giữ ở trong chùa để lưu truyền mãi mãi. Sư (Trí Thâm) vẫn thường qua lại xem đọc luôn luôn để khuyến khích mọi người cùng chăm chỉ học tập, chuông trống hương đèn, sớm hôm tán vịnh những mong bảo hộ quốc thổ, phổ tế quần sinh.

Đến ngày 21 tháng Giêng năm Chính Thống thứ 6 (1441), thái giám Cao Nhượng thực tình dâng tấu lên hoàng đế, kính đội ơn vua ban cho biển ngạch đề tên “Tú Phong tự”, khiến cho rừng núi cũng rạng rỡ, tăng tục đều mở mắt. Trí Thâm đốt hương dập đầu bảo: “May được gặp khi trong nước thái bình, nhân dân no ấm, lại nhân các ngài cùng phát thiện tâm mà giúp thành chùa phật, nên được ơn vua ân tứ, soi sáng muôn đời, há chẳng nên khắc bia mà lưu truyền mãi về sau ư?” Bèn sai đệ tử đến chỗ tôi nhờ viết văn bia. Tôi nói: “Sư Trí Thâm khó nhọc mong nên Phật sự, các ngài lại làm việc phúc để báo ơn vua, coi chỗ dụng tâm đều cùng đến nơi cực thiện, vậy xin viết bài minh rằng:

Đồng tây Thần Châu;
Núi dựng Tú Phong;
Hổ ngồi rồng cuộn;
Cảnh đẹp ẩn trong;
Rộng cao sáng láng;
Tú khí đúc hun;
Suối khe mát rượi;
Cây cỏ tươi hồng;
Thực nơi phúc địa;
Tựa chốn Phạn cung;
Phạn cung thế nào?
Có quy có chế;
Điện vũ nguy nga;
Cổng tường tráng lệ;
Tượng phật tôn nghiêm;
Thiên thần bảo vệ;
Dựng cảnh là ai?
Trí Thâm trụ trì;
Nào sau nào trước;
Xây đắp đủ bề;
Đàn việt lòng thiện;
Giúp việc chẳng nề.
Cầu chúc thánh thọ;
Phù trợ nhân dân;
Ruộng phúc to lớn;
Linh hiển ra ân!
Chùa đã dựng được;
Danh đã lập được;
Vua ban chữ vàng;
Sủng ân chói rực;
Sư Trí Thâm ta:
Kiêm gồm phúc tuệ;
Đứng đầu dựng chùa;
Lưu truyền hậu duệ;
Làm gương đời sau;
Thuật chuyện nối chí;
Trăm đời ở đây;
Thịnh hưng vẫn để;
Còn mãi chùa này;
Viết minh cổ lệ.

Ngày Phật đản tháng đầu mùa hạ năm Quý Hợi niên hiệu Chính Thống năm thứ 8 [1443] triều Đại Minh.
Sa môn trụ trì Trí Thâm lập bia. Cẩm y xá nhân Chu Hưng khắc.

Trang trong tổng số 13 trang (121 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: