Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Trọng Tạo
Ngày 28 tháng 7 năm 2007, tại Vancouver, đã diễn ra cuộc ra mắt sách lý thú và ít gặp của hai người viết, một trong nước và một ở hải ngoại. Nhà văn Nam Dao từ Quebec với bộ tiểu thuyết lịch sử Bể dâu, gồm hai tập. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từ Việt Nam với tập Thế giới không còn trăng. Chương trình được tổ chức bởi tạp chí Người Việt hải ngoại (Nhóm Chủ Trương: Vân Hải, Việt Phong, Hà Chính Bình, Trịnh Độ, Đỗ Quyên). Rất đông bạn đọc đã đến dự, đóng góp ý kiến, nhiều người đọc tham luận hội thảo. Sau đây là bài của Nguyễn Đức Tùng.
Thật khó để cùng một lúc nói về hai người khác nhau, nhất là khi một người là nhà viết tiểu thuyết và một người là nhà thơ. Điều may mắn của tôi là ở chỗ nhà văn Nam Dao cũng là người làm thơ và nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng không xa lạ gì với văn xuôi. Hôm nay tôi muốn kể với các bạn và hai tác giả, hai vị khách của chúng ta từ xa đến, về những kinh nghiệm của tôi như một người đọc.
Lúc còn nhỏ và khoảng chín mười tuổi, tôi đã bắt đầu tập đọc sách. Thật khó nhớ lại xem cuốn tiểu thuyết đầu tiên hay tập thơ mà ta đọc lúc ấu thơ là cuốn sách nào. Vậy tôi xin gọi đó là những cuốn sách đầu tiên trong đời sống mỗi người.
Mẹ tôi đọc ca dao và kể chuyện cổ tích cho tôi nghe, nhưng cha tôi thường đi xa và ông để lại cho tôi một tủ sách khá lớn. Tuy nhiên, tôi còn nhớ rằng niềm say mê với văn học chỉ bắt đầu trong một buổi trưa hè trong căn nhà của bà ngoại tôi, trên một vựa lúa lớn, nơi tôi tìm thấy cuốn sách đầu tiên của đời mình. Tôi còn nhớ đó là cuốn sách rất cũ, ố vàng của ai để lại nhiều năm, một tập tiểu thuyết đường rừng hình như của Lan Khai. Mặc dù cha tôi là một người đọc sách, ông ít khi ở nhà, vì vậy thuở vào đời, tôi thật sự không có ai hướng dẫn. Vả lại thời đó nước ta còn nghèo và chiến tranh, lượng sách trên thị trường ít, nên người đọc không có nhiều chọn lựa. Tôi đọc tất cả những sách nào cầm được trong tay hay có thể năn nỉ mượn được.
Trước khi các chính phủ ban hành luật kiểm duyệt thì các bậc cha mẹ đã thực thi chúng rồi. Những cuốn sách bị cha tôi cấm đọc hồi ấy, thường là các sách kiếm hiệp và trinh thám. Tôi thường phải chui vào gầm bàn thờ, phía sau bức mành tre để đọc. Chị tôi còn táo bạo hơn, và tôi nhớ có lần chị ấy mê một cuốn võ hiệp Kim Dung, đã chui vào trong chăn và mở đèn pin lên để đọc, trong khi ngoài trời mưa lớn. Cái thú đó bỗng cắt ngang vì bị cha tôi bắt gặp.
Những kinh nghiệm đọc như thế của tuổi thơ, ngày nay kể lại chỉ là những kỉ niệm đáng yêu. Tuy nhiên, việc đọc sách, đối với nhiều người có thể là một công việc gian nan, thậm chí nguy hiểm. Lịch sử của nhân loại và Việt Nam đã để lại biết bao câu chuyện đau thương về việc những người đọc sách, hay cất giữ sách báo bị cấm đoán, hay phát tán các sách báo này, đã bị hành hạ, ngược đãi, thậm chí tù tội ra sao. Ngày nay việc người đọc trong nước đọc sách báo hải ngoại và người đọc hải ngoại đọc sách báo trong nước, cũng không dễ dàng như ta tưởng. Ngày nay ở Việt Nam hay ở hải ngoại, viết là một hành động can đảm. Ngày nay, đọc cũng là một hành động can đảm. Con đường đi từ tác giả đến người đọc là con đường chông gai vạn dặm. Đáng ngạc nhiên thay, cùng một lúc, nó lại ngắn vô cùng, như con đường đi từ tâm hồn đến tâm hồn. Nhà văn Canada David Bergen, một người bạn mới quen của tôi kể cho tôi nghe là trong khi đi Việt Nam để tìm tác giả Bảo Ninh của cuốn Nỗi buồn chiến tranh (Sorrow Of War) mà ông yêu thích, mặc dù không gặp, đã thai nghén tác phẩm The Time in Between, được Nguyễn Tuệ Đan dịch ra tiếng Việt là Ở Lưng Chừng Thời Gian, khá nổi tiếng. Mặc dù theo tôi cả hai cuốn sách nói trên đều chưa phải là những tác phẩm cực kỳ xuất sắc, mối tình tri âm của một người đọc và một nhà văn như thế trong thời hiện đại là điều đáng suy nghĩ.
Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu có người nói với chúng ta rằng: tiểu thuyết của Nam Dao và thơ của Nguyễn Trọng Tạo là các loại sách báo tuyên truyền của nhà nước Việt Nam. Tôi cũng không ngạc nhiên nếu có người khác lại khuyên chúng ta rằng: các tác phẩm của các anh là chống phá nhà nước, chống phá Việt Nam.
Những điều như thế không có ích gì cho văn học và thực sự là không dân chủ. Người đọc hãy lắng nghe tác giả của chúng ta nói về chính mình.
Người ước mình trẻ lại người ước mình già điNguyễn Trọng Tạo là người có khả năng chỉ ra tính chất đặc trưng của xã hội mà người Việt đang sống với những câu thơ hồn nhiên. Chính vì hồn nhiên nên thơ anh không trở thành phương tiện chuyển tải của các ý tưởng. Những ý định chuyển tải nội dung như thế thật ra là chống lại thơ ca, hạ thấp chúng.
Người ước mình.vĩ đại người ước mình li ti
Ta không trẻ không già
Không li ti không vĩ đại
Ta trung bình nhưng ta không giả dối
(Tội đồ của thời gian)
Tôi hỏi Công chúa: Thạch Sanh đi đâuNhư thế là Nguyễn Trọng Tạo đã xông thẳng vào quán Lý Thông, tức là cái hang ổ của lịch sử, của bi kịch lịch sử. Ở trong cái quán ấy, nếu tôi được phép nói một cách hình ảnh, anh cũng sẽ gặp Nam Dao từ một cánh cửa khác tiến lại, trên tay cầm bộ tiểu thuyết Bể dâu hai tập, gần một ngàn trang, vừa viết xong.
Công chúa lầu bầu trả lời: không biết
Tôi hỏi Nguyệt Nga: Vân Tiên đi đâu
Nguyệt Nga âu sầu: hình như đã chết
Tôi hỏi cave. Cave cười ngất
Chợt nhận ra mình giữa quán Lý Thông
(Trong quán Lý Thông)
Tôi ngửng lên. Cao vót, một cánh chim trắng liệng tròn. Cái có thể hiểu rất giới hạn. Nhưng tôi hiểu chim sinh ra để bay. Tôi hiểu, tư duy với chúng ta hệt như chim vẫy cánh. Và làm thơ, những nhà thơ mong phục hồi cái chức năng ấy cho chính mình và cho tất cả mọi người.Thú vị vô cùng là ở đoạn cuối cuốn tiểu thuyết, Nam Dao lại nhắc đến thơ và nhà thơ. Tôi không biết anh có ý định như thế từ đầu hay đây là cái kết thúc tự nhiên của toàn bộ câu chuyện... qua nhân vật Phan Thượng Dân.
(Nam Dao, đoạn kết của tiểu thuyết Bể dâu, trang cuối, 981)
Mây như sóng như bông như núi trắng mịt mùngHoa thì không, nhưng tình vẫn còn tươi.
Mây như biển duềnh lên tóc trắng
Không còn sông Visla tiếng khóc cười xa vắng
Bó hoa hồng người tặng chẳng còn tươi
(Trên chuyến bay giã biệt)