15.00
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Trung đại

Đăng bởi Vanachi vào 02/08/2007 10:52

Lần lần gió mát trăng thanh,
Thuyền đà tới phủ Đại danh bao giờ.
Một vài thầy tớ lên bờ,
Dân tình lại tệ, giả vờ, hỏi chơi.
Khác hình ai biết là ai,
2490. Đi lần bỗng thấy một nơi có chùa.
Cửa ngoài thấy có niêm tờ,
Phủ nha nghiêm cấm kẻ ra người vào.
Nghĩ riêng chưa biết làm sao,
Xưa nay cửa bụt dễ nào hẹp ai?
May sao gặp lúc vắng người
Dời chân sẽ lẻn vào nơi hậu đường.
Thấy trong thờ phụng một giường,
Trông lên bài vị rõ ràng Lư công.
Thái sư chức tước đề trong,
2500. Chữ “Hầu Loan phụng” một dòng đề bên.
Cầm tay cất lấy về liền
Cười rằng cấm cách nhân duyên thế này!
Về thuyền, quân đã sắp bày,
Vào toà sát viện sai ngay đi đòi.
Nghe quan Tuần phủ đến nơi,
Hầu Loan mình đã bồ hôi ướt nhè,
Mấy lời truyền hỏi xa nghe:
“Viên kia có mất của gì biết chưa?
“Đồn rằng có ả tiểu thư,
2510. “Đông sàng ngôi ấy bây giờ là ai?”
Loan nghe chưa hết đầu đuôi,
Rung rung sợ sợ, mở lời không ra
Thưa rằng: “Có chút gái thơ,
“Mấy năm trước đã chơi xa suối vàng.
“Chức ti phận tiểu tầm thường,
“Chẳng hay thượng hiến, sao tường duyên do.
“Đến mừng chậm chạp già nô,
“Dám xin thượng hiến thứ cho được nhờ.
Quở rằng: “Lộc nước ơn vua,
2520. “Còn lo thất hiếu mà thờ họ Lư!
“Cả gan còn dám quanh co.
“Chứ thì bài vị sau chùa tên ai?
“Nghi trưng những chuyện mới rồi,
“Bấy giờ bắt nộp họ Mai, công gì?
“A dua chắc những mạnh bè,
“Ai hay quyền ấy lại về tay ai?
“Ruổi mau lệnh tiễn kỳ bài,
“Đem ra chính pháp, răn người vô lương.
Oai trời một lưới tứ phương,
2530. Rung gan đảng nịnh, ghê xương lũ tà.
Gần gần đã thấu tin nhà,
Châu công đã khiến người ra đón mời.
Quan quân sắm sửa tơi bời,
Cờ giăng nhất tự, trống hồi tam liên.
Biển vàng: “Tuần thú đại thiên.”
Một bên bảo kiếm, một bên lệnh bài.
Phủ Châu thoắt đã tới nơi,
Châu công ra đón cửa ngoài mừng vui.
Phấn vua rạng vẻ cân đai,
2540. Hà nam gia khách vẫn người ngày xưa.
Quan cựu lại, bực tân khoa,
Tình nhạc phụ, nghĩa ân gia vuông tròn.
Tiệc rồi giãi chuyện hàn ôn,
Gấm chen vẻ quí, rượu ngon giọng tình.
Sinh rằng: “Nhờ phận khoa danh,
“Quốc gia ơn rộng, môn đình thơm lây.
“Chiếu trời đã tỏ năm mây,
“Xong tuần đại thú, đến ngày nghênh thân.
“Khâm kỳ nghe đã gần gần,
2550. “Một nhà xin liệu, định tuần lai Kinh.”
Bước vào làm lễ gia đình,
Tạ từ sinh đã khởi trình trẩy ra.
Tình cố hữu, nghĩa thông gia,
Ông đà sửa lễ, cho đưa theo thuyền.
Xuôi dòng nước chảy như tên,
Buồm giong thoắt đã tới miền Thường châu.
Gieo neo kề bến mã đầu,
Sửa sang nhà trước, vườn sau mấy tuần.
Cho tin đi đón mẫu thân,
2560. Sơn đông nhà cậu cũng gần chẳng xa.
Mấy ngày bà đã tới nhà,
Ruột dò chín khúc, lệ sa đôi hàng.
Vật mình lăn trước linh sàng.
Khúc oan kể lể, nỗi thương ngậm ngùi.
Nhìn chàng, than thở mấy lời,
Nghĩa sâu mẫu tử, tình dài biệt ly.
Ôm quan khóc lóc nằn nì,
Nghĩa phu phụ những nặng vì nước non.
Thảm chồng thôi lại mừng con,
2570. Thức cười nước mắt, ngủ hồn chiêm bao
Sinh rằng: “Chín chữ cù lao,
“Bể sâu mấy trượng, trời cao mấy trùng.
“Bấy lâu nam bắc tây đông,
“Bước chân xa cách, tấc lòng quặn đau.
“Trời cho rày được tụ đầu,
“Nợ xưa nhẹ gánh, phúc sau đền phần.
“Con vâng vương mệnh tại thân,
“Vinh qui, hối táng, đại tuần, một phen.
“Rồi đây táng tế cho yên,
2580. “Mẫu thân xin rước xuống thuyền lai Kinh.
“Chẳng lâu con cũng khởi hành,
“Trước lầu ngữ phượng đại thành lễ thân.”
Mấy ngày táng sự đến tuần,
Đã tìm đất tốt phong thần một nơi.
Chiếc bia “trung liệt” dựng ngoài,
Đá xanh tạc lấy được ngày treo trên.
Thành phần nóc rạp kéo lên,
Ba vòng giáo dóng, hai bên thái kỳ.
Tầng trong bày đặt uy nghi,
2590. Ngậm tăm hơi miệng, kéo rề bước chân.
Tiêu thiều nhã nhạc xa gần,
Tam huyền nhịp nhặt, song vần tiếng khoan.
Đồ điếu phúng, lễ ngự ban,
Mấy mâm ngũ thục, mấy bàn tam sinh.
Chữ vàng đề trước minh tinh
Đường triều Thái bảo chính danh rõ ràng.
Quan quân tiễn kiệu kéo hàng,
Hạ liêu mấy lũ, bộ đường mấy ban
Trạng nguyên đi trước phù quan.
2600. Phu nhân nối kiệu buông màn phương du.
Lập lăng mấy gốc tùng thu,
Một vùng sảng khải đắp mồ ngưu miên.
Bấy lâu táng lễ vừa yên,
Phu nhân đã giục xuống thuyền đi Kinh.
Trạng nguyên cứ việc tuần hành,
Nghi trưng vừa mới nhật trình tới ngay.
Lạ quen cũng một miền này,
Sao xưa trốn tránh mà rày hiển dương?
Thoảng qua sực nhớ mọi đường,
2610. Chợt lòng lại động tấm thương Hỉ Đồng.
Tra ra tri huyện Sử công,
Môn sinh Lư Kỷ cũng vòng quyền gian.
Sá chi mọn mảy xẻ đàn,
Nhiêu cho tính mệnh lại hoàn thứ nhân.
Công lênh nhớ đến Đồ Thân,
Cho làm huyện lệnh đền ân tấm lòng.
Bắc môn ghi mả Hỉ Đồng,
Dựng bia đá, lấy sắc phong tạc liền,
Lại truyền sửa rạp một bên,
2620. Trước mồ tế điện một phen thân hành.
Khóc than kể hết mọi tình:
“Có công danh ấy vì mình chớ ai.
“Vì ta trót đã thiệt đời,
“Đền công, ta cũng nhớ lời khấn xưa.”
Băn khoăn đường đất cách xa,
Giao Đồ Thân, tự bấy giờ giữ coi.
Phỏng sau kế tự còn dài,
Họ Đồ nhường lại một người họ Vương
Gọi là phụng tự khói hương,
2630. Ấy là tròn hết mọi đường thỉ chung.
Đồ Thân vâng dạy ghi lòng,
Đem con bèn cải Hỉ Đồng họ Vương,
Lại tìm đến chốn phật đường,
Truyền đem áo tía xe vàng nghênh sư,
Tái sinh may có ơn xưa,
Khấu đầu bách bái tạ thưa mấy lời.
Chàng từ ân oán rạch ròi,
Cất không gánh nặng, tát vơi bể sầu,
Tuần hành mọi chốn đâu đâu,
2640 Trong lòng phép nước, trên đầu ơn vua.
Công không sót, tội không tha,
Phân hào chẳng lẫn, tóc tơ nào lầm.
Mấy phen mực nẩy, cân cầm,
Trong veo lại tệ, nổi bồng dân ca.