Của đóng góp mỗi đồng mỗi cắc Bao mồ hôi nước mắt công tình Một lòng tiết kiệm phân minh Của công nhất thiết việc mình đừng tiêu
*
Với công tác trăm điều cẩn thận Hấp tấp thường ân hận về sau Bàn cho kỹ, nghĩ cho sâu Tới lui tuỳ lúc, chậm mau phải thời
Yếu lược chước, mạnh liệu tài cân nhắc Đừng khinh khi tự đắc tự kiêu Đừng nhút nhá, đừng làm liều Đừng so hơn thiệt kiếm điều từ nan
Ý đã quyết thì gan phải quyết Nhất định làm thì việc phải nên Trăm hăng thua một chữ bền Tấc lòng chấp hết trăm nghìn hiểm nguy.
*
Với đồng chí trọng vì, yêu quý Chớ gièm pha, ganh tị lẫn nhau Đã nên ý hiệp tâm đầu Nồi da xáo thịt lòng nào cho đang! Sống nguyền sống, gian nan cùng bạn Chết nếu cần, hoạn nạn thề chung Buồn vui san sẻ nhau cùng Đã lòng chị ngã có lòng em nâng
Bởi thành bại, chi phần trách nhiệm Điều dở hay, kiểm điểm phê bình Bạn hay, gương bạn soi mình Bạn lầm, to nhỏ tâm tình khuyên can
*
Với dân chúng nên thân, nên trọng Thân vì chung một giống một nòi Một tiếng nói, một đất trời Ruột đau chung khóc, miệng cười chung vui
Trọng ở nơi dân là gốc rễ Nước không dân hồ dễ được ru? Gầy dân, dựng nước rcông phu Dân khôn nước mạnh, dân ngu nước hèn
Thương dân phải khuyên rèn dạy vẻ Mỗi tớct cặn kẻ tinh tường Lấy lời dễ, chỉ việc thường Tự dân, dân hiểu đôi đường phải chăng.
Bỏ đi hết kiêu căng tự phụ Dân chán rồi giọng chủ lối quan Cùng dân sát cánh chung hang Có dân muôn việc dễ dàng thành công
*
Với đoàn thể hết lòng hết dạ Làm đúng theo đường đã vạch chung Trăm dây một trục xoay vòng Một dây sai lạc cả guồng máu sai
Việc đã nhận một, hai, chu đáo Dù nên, hư, báo cáo thật thà Để chung bàn lẽ cho ra Thử gần mà hỏng hay xa mà thành
Ví rủi phải mắc vành xiềng xích Đành cắn răng một chết không khai Chết là chết cái hình hài Sắt son một tấm gương đời treo cao.
*
Với tôn giáo đạo nào cũng đạo Nỡ nào chia đó giáo, đây lương Giáo, lương cũng một đau thương Mẹ cha một giống, quê hương một trời
Huống lương, giáo một thời tha thiết: “Hỡi muôn loài hãy biết yêu nhau!” Chừ mình rựt áo chia bâu Để cho máu chảy ruột nhàu sao đang?
Để lũ giặc dễ đường lợi dụng Xúi bên kia nghi bụng bên này Để mình tự chặt chân tay Bà con cắt mắt mày bỏ nhau
Để chúng dễ đè đầu đè cổ Tám mươi năm đô hộ sờ sờ Mưu xưa, mình dại nước cờ Một lầm, há dại đến giờ nữa ư?
Thắt chặt khư khư một mối Đừng để ai lừa dối, rẽ phân Thù chung là “đạo” thực dân Là quân bán nước, là quân buôn nòi.
*
Với tất cả phái này đảng khác Ăn ở sao như bát nước đầy Đừng giá bên đông, chém bên tây Tay kia giao ý, tay này manh tâm
Kìa rải rác đầu mâm góc giỏ Cứng cùng ai muôn đũa để rời Dồn chung một bó mà coi? Mạnh ai đó bẻ gãy chơi, thử nào!
Thật yêu nước lòng nào lại chẳng Đặt nước trên phái đảng của mình Trong nhà hục hặc bất bình Sức đâu liệu để tranh giành với ai?
Huống này lúc chung đòi quyền sống Cứu quốc gia, giải phóng đồng bào Càng nên chung góp máu đào Cho cờ Tổ quốc rạng màu vinh quang
Khi nước đã hoàn toàn độc lập Anh cùng em hơn thật giải bày Cùng chung bới dở vun hay Chồi cây hạnh phúc mỗi ngày thêm hoa.
*
Với chính thể cộng hoà dân chủ Nên cùng nhau ủng hộ đến cùng Non sông là của công đồng Nước chung phải để dân chung trị vì
Không ai được riêng chi chiếm đoạt Để chuyên quyền tự sát tự sinh Một mình nằm hưởng no lành Đày dân sáu khắc năm canh chầu hầu!
Không ai được khoác màu dân chúng Mượn tiếng dân, lạm dụng quyền dân Tự do một lớp chủ nhân Ngựa trâu đày đoạ cũng phần dân đen
Phải tất cả: sang, hèn, khinh, trọng Đều ấm no biết sống là vui Ở đời biết thú làm người Nngang nhiên dưới ánh mặt trời sang soi.
*
Với Tổ quốc trọn đời yêu quý Hơn cha sinh mẹ đẻ cù lao Mẹ cha ơn nặng nghĩa cao Đất nuôi, nước dạy xiết bao ân tình
Kìa một cõi mông mênh Nam Bắc Đâu một ngày nước mắt mồ hôi Đắng cay muôn lớp qua rồi Gian lao đương vạn lớp người qua sau
Mỗi đường xóm, nhịp cầu, luống đất Mỗi tình thương, điệu hát, trò chơi Dường như muôn thuở giống nòi Người còn kẻ mất khóc cười có chung
Ta, con cháu dòng Hùng nước Việt Nhìn cõi bờ chẳng biết thương sao? Há tham một chút sang giàu Cam tâm đem nước bán rao kẻ ngoài?
Nước giàu mạnh, hỏi ai mở mặt? Nước lâm nguy, lẽ tất mình lo Thịt dù nát, xương dù khô Tấm thân cũng bỏ, huống hồ vợ con!
Rủi mặt bể chân non một chết Hạnh phúc giành, có thiệt đi đâu? Không ta, lớp trước người sau Bà con, cha mẹ, bạn bầu hưởng chung.
*
Người chiến sĩ này Trung này Hiếu Lời cụ Hồ, xin liệu nhắc, cân: “Trung với nước, Hiếu với dân” Vì dân vì nước, quên thân, quên nhà
Người chiến sĩ phải là khí tiết Khinh gian nan, không thiết công lao Uy kia, không sợ quyền cao Vinh kia, không đắm sang giàu, ấm êm.
Người chiến sĩ ngày đêm tự xét Việc làm chung, thương ghét lòng công Tấm yêu trùm bọc non sông Mối tình kết chặt nòi rồng, giống tiên.
Người chiến sĩ lòng kiên dạ quyết Việc phải thành, xương huyết dầu rơi Một ngày còn thấy bong trời Một ngày còn vị giống nòi quê hương
Người chiến sĩ dẫn đường chỉ lối Lo trước người, vui lại vui sau Đã ra đứng mũi chịu sào Trời giông biển động sá nào phong ba.
*
Ta, dân Việt, toàn là như thế Gánh Thái Sơn cất nhẹ tày lông Trẻ, già, trai, gái một lòng Tự do, Độc lập không mong cũng thành
Đồng bào hỡi, đông anh họp chị Đứng mau lên quyết chí sinh tồn! “Một cây làm chẳng lên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Đồng bào hỡi, đây bầu máu nóng Tuôn thành Kinh nhật tụng dâng Người Đọc kinh xin nhớ lấy lời Đọc kinh xin nguyện giống nòi muôn năm!
Giữa năm 1972, trước ngày tôi lên đường nhập ngũ, tôi được một người bạn dẫn đến gặp nhà thơ Khương Hữu Dụng tại nhà riêng ở phố Phan Bội Châu, Hà Nội. Nhà thơ lúc đó đã 65 tuổi, mái tóc dài rủ xuống bạc phơ bồng bềnh, đôi mắt tinh anh, đi lại nhanh nhẹn. Nhà thơ hóm hỉnh hỏi: Anh lính mới có thích thơ không nhỉ? Tôi nói, cháu vừa đọc bài “Đợi anh về” của bác trên Báo Văn nghệ, thích nhất câu: Tay vít một nhành hoa/Níu áo mùa xuân hỏi. Nhà thơ cười bảo, được người khác nhớ cho một câu như thế đã là hạnh phúc rồi. Bác rút trên giá sách xuống một cuốn thơ mỏng tặng tôi, bảo bài đó cũng có trong tập này mới xuất bản. Đó là tập “Quả nhỏ”. Tôi mang cuốn thơ về đơn vị, anh em chuyền tay nhau đọc. Tôi thầm nghĩ: Bác quả là nhà thơ hạnh phúc, vì đại đội cháu trong hành trang đi B có nhiều cậu chép và thuộc lòng thơ bác!
Sau nhiều năm tôi trở về Hà Nội, làm phóng viên Báo Quân đội nhân dân. Tôi vẫn thỉnh thoảng được gặp bác, khi ở nhà riêng, khi thì trụ sở Hội Nhà văn. Nhà thơ Khương Hữu Dụng có con trai đầu là Khương Thế Xương, đã hy sinh trong kháng chiến. Hôm ấy là ngày đầu năm 1999, Bảo tàng Quân đội mang các kỷ vật đang lưu giữ của liệt sĩ đến để gia đình xem lại. Lúc đó có mặt bà Võ Thị Thắng, người sinh viên yêu nước hơn 30 năm trước đã hiên ngang trước mũi súng quân thù trong bức ảnh nổi tiếng “Nụ cười chiến thắng” (bà Thắng vốn là bạn với con trai thứ hai của nhà thơ là Đại tá Khương Thế Hưng, có thời kỳ là phóng viên chiến trường của Báo Quân đội nhân dân). Bà nói với nhà thơ lúc đó tuổi đã ngoại chín mươi: “Trong tù con ở chung với chị Mỹ Hoa (bà Trương Mỹ Hoa, nguyên Phó chủ tịch nước). Những người tù cả nam lẫn nữ đều thuộc bài thơ “Kinh nhật tụng” của người chiến sĩ. Chúng con ở “chuồng cọp” truyền khẩu nhau những vần thơ có tính chiến đấu ấy. Nhưng chúng con cứ tưởng “Kinh nhật tụng” là của Bác Hồ. Có lần đến nhà, con đã kể với bác là hồi trong tù bọn con học thuộc “Kinh nhật tụng” của Bác Hồ rất hay, bác cứ cười chúm chím. Thì ra tác giả ngồi bên mà không biết…”
Lúc đó tôi cũng có mặt ở đấy, phần nào bị bất ngờ. Tôi vẫn nhớ những tác phẩm của bác, còn thuộc những câu thơ đậm chất thi sĩ của bác, chẳng hạn: Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (trường ca Từ đêm Mười chín); Bàn cờ thế sự quân không động/Mà dấy quanh mình nỗi bão dông (Lên Côn Sơn); Ngủ ở Yên Châu ngỡ Mộc Châu/Nửa đêm quờ áo mặc thêm vào/Ô hay!Ai bảo Yên Châu nóng/Mưa núi chiều nay mát gió Lào (Đêm Yên Châu)… Nhưng quả thực, tôi không thể ngờ sức mạnh của bài thơ “Kinh nhật tụng” trong cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù lại có tác dụng lớn lao đến thế! Vào thời điểm sau ký kết Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, bọn phản động xuyên tạc việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ký hiệp định và cũng là để giải đáp thắc mắc của một bộ phận quần chúng, Bác Hồ đã nói: “Hồ Chí Minh không bán nước!”
Xúc động bởi câu nói đầy tâm huyết, khí phách của vị lãnh tụ kính yêu, nhà thơ Khương Hữu Dụng đã viết “Kinh nhật tụng”, về sau có sự trợ tác của hai bạn thơ Nguyễn Đình Thư và Nguyễn Đình (vì là sách “kinh” nên không in tên tác giả). Bài thơ ngót trăm câu theo thể song thất lục bát dễ nhớ, dễ thuộc, đăng trên một tờ báo giấy dó xuất bản ở Hà Nội trước ngày Toàn quốc kháng chiến. Từ đó tuy không báo nào in lại, song nó đã lan toả rất nhanh thông qua truyền khẩu, trở thành bài thơ có “số phận kỳ lạ” nhất của thơ ca cách mạng Việt Nam. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bao nhiêu chiến sĩ bị địch bắt, tra tấn cực hình đều thuộc lòng cả bài hoặc từng đoạn để động viên, khích lệ nhau giữ vững khí tiết, như trường hợp bà Võ Thị Thắng đã kể. Khi nhà thơ quy tiên (17-5-2005), trong đám tang có rất nhiều nhà cách mạng từng bị tù đày đến viếng và họ đều nhắc đến “Kinh nhật tụng” của người chiến sĩ. Ngay cả trong thời bình, thời kinh tế thị trường hôm nay, những câu “kinh” ấy vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự, đề cập tới những vấn đề nóng bỏng trong đời sống xã hội về rèn luyện phẩm chất người cán bộ đảng viên, về mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhân dân, đất nước...