Trang trong tổng số 14 trang (131 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Gặp lại vầng trăng (Tuệ Thiền): Một số trích đoạn về khoa học-tâm linh-thiền định (tiếp theo)

PHẦN D.-

“Ngày nay đã có khá nhiều sách báo trong và ngoài nước nói về trường sinh học và tâm linh, chẳng hạn, GS Hoàng Phương cũng đã có cuốn Con người và trường sinh học, hay Tích hợp văn hoá Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai (...).

Từ các vấn đề khoa học có thể làm sáng tỏ các khía cạnh triết học của vấn đề con người là tiểu vũ trụ, con người tâm linh”.

(Con người sinh thái, con người tâm linh; Chungta com)
***

Một viện sĩ khoa học Liên Xô (cũ), ông M.A.Mikhiher phát biểu như sau (Báo Giáo dục & Thời đại CN 9/3/1997):
“Mỗi con người là một năng lượng tinh thần trong một vỏ vật chất. Chết chỉ là băng hoại vỏ vật chất, còn năng lượng tinh thần thì tiếp tục luân hồi, tiếp tục vòng phát triển mới”.
***

“Viện nghiên cứu về sức mạnh của tinh thần và siêu tâm lí ở Ban-ga-lốp đã khảo sát 250 trường hợp đầu thai giống như Ti-tu đã đăng kí từ năm 1975 (…). Các nhà nghiên cứu đã nói rằng 82 phần trăm tổng số các trường hợp là các cháu nhớ rõ tên mình “trong đời trước” và những chi tiết của “kiếp trước”. (…) N.K. Chan-đra ở trường đại học tổng hợp Đê-li và E. Min-đơ ở đại học tổng hợp Vic-gin-ni-a (Mĩ) đã khám phá người cháu bé (…) và mổ tử thi (…)”.
(Tạp chí Đại học & giáo dục chuyên nghiệp, 2/1990).
***

“Vì nhục thể rữa nát khi chết, linh hồn rời đi nhập vào giới siêu hình tương ứng với sự tồn tại của nó ở bình diện vật chất, vào tần số tương ứng với cuộc sống cũ của nó nhất.

(…) Quá trình biến đổi sau cái chết không phải là sự di chuyển đến một nơi chốn khác hay thời gian khác; nó chỉ là sự thay đổi về chất sự chú tâm của chúng ta. Bạn chỉ có thể nhìn thấy những gì có rung động tương ứng với bạn”.
(Tiến sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết; D. Chopra; dịch giả: Trần Quang Hưng).
***

“Nếu tư duy có trước bộ não, nếu tư duy thuộc về tất cả chúng ta thì sao? Tôi có thể nói “bộ não của tôi”, nhưng tôi không thể nói “trường lượng tử của tôi”. Có bằng chứng ngày càng rõ là thực ra chúng ta chia sẻ một trường tư duy như nhau.

Điều này sẽ ủng hộ nhiều về sự tồn tại của các thiên đường và địa ngục, Bardo và kí ức Akasha (Trường Điểm Không - trường của trường), mở rộng ra cả ngoài bộ não. Để bắt đầu, chúng ta cần kiểm tra các kiểu ý tưởng mà mọi người chia sẻ trong cùng một nhóm. Bộ não thuộc về “tôi” nhưng nếu các ý tưởng thuộc về “chúng ta” thì chúng ta tập hợp cùng nhau trong một trường, đôi khi theo một cách hoàn toàn thần bí”. (D. Chopra).
***

“Tôi tuyệt đối tin rằng sự sống vật thể trên trái đất đã được tạo ra bằng cách hồn cô đặc dần. Mọi học lí cho rằng, sự sống trên trái đất xuất hiện do những phân tử phức tạp tự phát sinh và cô đọng thành những cơ thể sống, không vững vàng, xét cả trên quan niệm tôn giáo lẫn quan điểm vật lí học và hoá học hiện đại. (…).

Người cổ xưa cho rằng, vật chất sinh ra từ khoảng không. Nhà vật lí thiên tài Nga Ghên-na-đi Si-pốp, người đã lập được phương trình (A. Anh-xtanh đã không lập được) mô tả vật lí chân không, tức Tịnh vô tuyệt đối hoặc Tuyệt đối, cũng cho như vậy. (…).
Tuyệt Đối đó không đơn thuần là tịnh vô; đó là KHOẢNG KHÔNG có Cái gì đó. Trước mắt, khoa học chưa biết Cái gì đó. (…).

Theo giả thuyết của G. Sipốp: giữa các trường xoắn của thế giới tế vi và ý thức có mối liên hệ trực tiếp, bởi các trường xoắn là những chất chứa đu-sa (sinh trường) và đu-khơ.
(…) Dần dà trong quá trình tiến hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ – là KHỐI NĂNG LƯỢNG TÂM THẦN KẾT ĐÔNG dưới dạng các trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra KHÔNG GIAN THÔNG TIN TOÀN THỂ, tức Cõi kia (…).

(…) Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma (NGHIỆP), tức là các “vết tích” của các tiền kiếp để lại trong đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế giới vật thể, đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng có thể thoái hoá. (…)”. (Nhà bác học-giáo sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E. Mun-đa-sep; dịch giả: Hoàng Giang).
***

Deepak Chopra, tiến sĩ y học-nhà nghiên cứu tâm linh, viết trong Sự Sống Sau Cái Chết-gánh nặng chứng minh:

“Tiến sĩ Lommel, người lãnh đạo chương trình kinh nghiệm cận tử (…) thẩm tra 344 người bệnh loạn tim trong bệnh viện (tim đáng lẽ đập bình thường thì lại co thắt hỗn loạn). Tiến sĩ Lommel nói chuyện với họ trong vòng vài ngày trong khi họ sống lại và phát hiện ra việc gây mê và các loại thuốc không gây ảnh hưởng kinh nghiệm của họ. Tuy nhiên ông kinh ngạc hơn cả với các báo cáo về ý thức trong khi não không hoạt động. Nhiều năm sau nghịch lí này vẫn khiến ông sợ hãi: “Vào thời điểm đó những người này không chỉ có ý thức; ý thức của họ thậm chí bao quát hơn lúc nào hết. Họ có thể tư duy hết sức sáng suốt, có trí nhớ về tuổi thơ xa nhất và thể nghiệm sự liên kết chặt chẽ với mọi người, mọi vật xung quanh. Và bộ não hoàn toàn không có một chút biểu hiện hoạt động nào”.

(…) Có thể là ý thức không nằm trong bộ não. Đó là một khả năng gây sửng sốt, nhưng phù hợp với truyền thống tâm linh cổ đại nhất thế giới.

(…) Khoa học trong thời đại vật lí lượng tử không phủ nhận sự tồn tại của các thế giới vô hình (siêu hình). Hoàn toàn ngược lại”.
***

Đọc trong Hành Trình Về Phương Đông (Blair T. Spalding; dịch giả: Nguyên Phong; Thuvienhoasen org):

“Thực ra khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu. Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ điều này sẽ không còn được thoả mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được.

- Như ông đã nói loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thoả mãn không?
- Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thoả mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt, nhưng điều này đâu có thoả mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ xẻ súc vật, lò sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của chúng nó có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho những người dễ thụ cảm.

(...) Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doạ nạt những người bén mảng đến gần nơi chôn dấu. Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa, họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm gì được nên vô cùng khổ sở. Những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, họ hết sức đau khổ”.
***

(Đây là trích dẫn về một hiện tượng tâm linh kì bí mà Eduard Sagalayev, một nhà khoa học lớn của Nga, đã trải nghiệm (tạp chí Tài Hoa Trẻ số 616/2010; Hoa Cương dịch theo Pravda):

“… Và đột nhiên, trong một khoảnh khắc không ngờ, tôi thấy chính bản thân mình từ một góc độ bên ngoài (như nhìn một người khác). Tôi thấy tôi đang ngồi ở ghế và nghe nhạc. Sau đó, tôi bắt đầu thấy rộng ra. Thấy rõ ràng tất cả những gì xảy ra trong các căn phòng khác, ở các căn hộ khác của toà nhà chung cư ấy, rồi thấy rõ tất cả mọi thứ trên một đường phố gần đó. Tôi nhận thấy mình ở một kích thước hoàn toàn khác của thực tại. (…).

Tôi vẫn tiếp tục “bay đi”. Tâm trí của tôi đã mở rộng ra rất nhiều và tôi cảm thấy mình không chỉ trong một số không gian đa chiều, mà hiện hữu trong một thế giới đặc biệt – nơi mà thiên hà của chúng ta trở nên ít bụi tinh vân hơn nhiều, so với các vùng khác. Tôi cảm thấy cõi đó rất tốt, thật ấm áp và chính tại nơi đó, tôi đã gặp lại người mẹ quá cố từ lâu của mình. Tôi không nhìn thấy rõ khuôn mặt của bà, nhưng chúng tôi đã nói chuyện với nhau – không phải bằng những từ ngữ, mà bằng thông điệp trong tim. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy rõ rệt cùng lúc có hai nơi: trong căn hộ của người bạn và đồng thời, trong một thế giới chứa đầy năng lượng tốt lành và tràn ngập các thông tin – nơi có hàng tỉ linh hồn con người đang bình an cư trú. Tới lúc chợt nhận ra mình đã “trở về bản thân mình” thì thời gian ước tính đã qua mười lăm phút…

Sau sự kiện đó tôi đã từ bỏ thói hư tật xấu không chút khó khăn mà nếu như trước kia, tôi vẫn không đủ nghị lực để từ bỏ”.
***

Trong Sự Sống Sau Cái Chết” (Deepak Chopra) có nói rằng: “Những linh hồn bấn loạn mắc kẹt giữa hai thế giới, và nếu những người thương yêu bị bỏ lại cứ cầu nguyện gọi hồn, cứ đau khổ, hoặc toan tính tiếp xúc với người đã mất, linh hồn sẽ tiếp tục xốn xang”.
***

Ông kể lại câu chuyện bà Dawa, người trở về từ cõi sau cái chết:

"(...) Nữ thần Trí Tuệ đích thân cho bà Dawa xem từng nơi, chỉ ra ai ở đó và tại sao. Bà cảm thấy niềm sung sướng vô ngần của những linh hồn được gia đình còn sống cầu nguyện. Bà nghe thấy những tiếng kêu gào quằn quại và cầu khẩn lòng thương, của những kẻ đã làm điều ác trên cõi trần”.
(Sự sống sau cái chết: gánh nặng chứng minh; D. Chopra).
***

Trích thêm một đoạn nói về nhân-quả của nghiệp, trong tác phẩm trên của nhà nghiên cứu D. Chopra, để hỗ trợ khát vọng trở về Chân-Thiện-Mĩ:

“(…) Cuối cùng thì vũ trụ cũng sẽ kiên quyết khôi phục cân bằng thiện ác.
Địa ngục là điều kiện đau khổ của nghiệp báo. Đại đa số kinh nghiệm cận tử có tính tích cực, nhưng nhiều khi không thế. Thay bằng di chuyển về hướng một ánh sáng niềm nở và hiền hậu, một số ít người cảm thấy các đặc trưng của địa ngục. Họ nhìn thấy ma quỷ hoặc thậm chí chính quỷ Satan; họ nghe thấy kẻ tội đồ bị hành hạ kêu gào; bóng tối dày đặc bao trùm mọi vật. Những người nghiên cứu kinh nghiệm cận tử thậm chí tìm thấy một loại người họ gọi là “oan hồn”, bị ám ảnh bởi các việc ác và dục vọng không thành. Nhân chứng đầu tiên là một người tên George Ritchie, đã được trực tiếp quan sát việc này. (…)”.
***

Đọc trong Thiền Luận III (D. T. Suzuki; Tuệ Sỹ dịch):
"Khi một người sắp chết, y thấy tất cả những gì sẽ xảy ra cho y sau khi chết đều phù hợp với đời sống sinh tiền của y. (...) Kẻ sống thiện có thể thấy những cung điện, những thiên thần, những thiên nữ, những y phục diễm lệ, những vườn tược, những lầu gác huy hoàng... Mặc dù họ chưa chết hẳn, nhưng vì bởi nghiệp của mình, họ có thể thấy những huyễn cảnh như thế trước mặt".
***

Đọc trong Ý Nghĩa Của Việc Hồi Hướng Công Đức Cho Người Quá Cố (K. Sri Dhammananda; Thích Tâm Quang dịch; Phattuvietnam net):

“Theo Đức Phật, trong tất cả mọi hành động, TƯ TƯỞNG mới là điều thực sự quan trọng. Hồi hướng công đức căn bản là MỘT HÀNH ĐỘNG CỦA TÂM. (...).

Mặc dầu tập tục cổ xưa này còn hiện hữu đến ngày nay tại nhiều quốc gia Phật giáo, chỉ một số rất ít Phật tử theo tập tục cổ xưa này hiểu ý nghĩa của việc hồi hướng công đức và cách thức thích đáng để thi hành.

Nhiều người đã phí phạm thì giờ và tiền bạc vào những lễ nghi và trình diễn vô nghĩa để tưởng niệm người đã qua đời. HỌ KHÔNG HIỂU là không thể nào giúp đỡ được người chết đơn giản bằng cách xây dựng mộ phần, mộ chí, nhà táng to lớn và những đồ tế nhuyễn khác. Cũng chẳng có thể giúp đỡ được người chết bằng cách đốt hương, vàng mã, vân vân...; và cũng chẳng thể giúp đỡ người chết bằng cách giết các súc vật và đem các loại thực phẩm khác để dâng cúng”.
***

“Chương thứ sáu của cuốn Tử thư đã ghi rõ: “Muốn được HỮU DỤNG ở cõi trần và THOẢI MÁI ở bên kia cửa tử, ngay bây giờ phải biết LÀM CHỦ các DỤC VỌNG vật chất (…).” (Trích trong tuyển tập Trở Về Từ Cõi Sáng; Nguyên Phong tuyển dịch).
***

“Vì vậy, về phương diện xã hội nếu quảng đại quần chúng hiểu biết cơ sở khoa học của sự huyền bí, thì sẽ không còn chỗ nương thân cho MÊ TÍN DỊ ĐOAN đang lan tràn rộng rãi như hiện nay.” (Đoàn Xuân Mượu, giáo sư tiến sĩ, nguyên viện trưởng viện Văcxin Quốc gia).
---

Mời đọc tiếp phần dưới)

Ảnh đại diện

Gặp lại vầng trăng (Tuệ Thiền): Một số trích đoạn về khoa học-tâm linh-thiền định (tiếp theo)

PHẦN C.-

Nguyễn Chung Tú (nguyên hiệu phó trường đại học Hùng Vương, giáo sư tiến sĩ vật lí) nói: “Có thể nói rằng GIEN NGHIỆP là cái do mỗi người tự tạo cho mình. Khi một người chết đi, thân thể vật lí của người ấy tan hoại, nhưng cái nghiệp ấy vẫn tiếp tục di truyền qua nhiều đời sống của người ấy”.
Ông nhắc lại lời một học giả khác rằng: “TÂM TÍNH LÀ ĐỊNH MỆNH” - một câu nói rất quan trọng. (Nguyệt san Giác Ngộ số 17 năm 1997).
***

“Những cấu trúc mà nhà khoa học quan sát được trong thiên nhiên liên hệ rất chặt chẽ với cấu trúc tâm ý của họ (…)”. (Fritjof Capra - giáo sư vật lí ở nhiều đại học danh tiếng Anh, Mĩ. Đạo của vật lí, Nguyễn Tường Bách dịch).
***

Đọc trong Người Nam Châm – Bí Mật Của Luật Hấp Dẫn (Jack Canfiel & D. D. Watkins; người dịch: Thu Huyền & Thanh Minh; tái bản lần 6; nxb Lao Động-Xã Hội, 2015):

“Người nào gửi đi những suy nghĩ tích cực (thiện ích) sẽ kích hoạt thế giới quanh anh ta trở nên tích cực, và anh ta cũng sẽ nhận lại những kết quả tích cực”. (Tiến sĩ Norman Vincent Peale).

(…) BẠN LÀ NĂNG LƯỢNG.
(…) Những hạt nhỏ hơn nguyên tử đó là gì? Xin thưa, là NĂNG LƯỢNG.
Vạn vật đều là năng lượng.
Năng lượng không được tạo ra, cũng không thể phá huỷ.
Tự nó đã mang tính nhân quả.
Nó hiện diện như nhau ở mọi lúc, mọi nơi.
Năng lượng chuyển động vĩnh hằng và không bao giờ ngừng nghỉ.
Nó chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, luôn luôn như vậy.
SUY NGHĨ “SINH RA” NĂNG LƯỢNG.

(…) BẠN LÀ MỘT THỎI NAM CHÂM
Bạn là một thỏi nam châm sống. Bạn hút – theo đúng nghĩa đen của từ này – người, vật, ý tưởng và các tình huống có tần số năng lượng rung động và cộng hưởng như của bạn về phía mình. Trường năng lượng của bạn thường xuyên thay đổi, nó phụ thuộc vào suy nghĩ và cảm xúc của bạn, và vũ trụ giống như một chiếc gương phản chiếu chính xác nguồn năng lượng bạn đã “tạo ra”. Suy nghĩ và cảm xúc của bạn mãnh liệt bao nhiêu thì lực hút sẽ mạnh bấy nhiêu. Quá trình này không đòi hỏi bất kì một sự nỗ lực thật sự nào, nam châm không phải “cố” hút vật – mà đơn giản, nó có đặc tính hút vật. Và bạn cũng vậy! Bạn vẫn luôn trong quá trình hút thứ gì đó vào cuộc sống của mình. (…).

"(…) Cuộc sống là một trò chơi boomerang (vật được ném, lại quay về chỗ người ném). Suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta không sớm thì muộn cũng sẽ trở lại với chúng ta, chính xác đến độ đáng ngạc nhiên”. (Hoạ sĩ Florence Shinn).

(…). Vì Luật Hấp Dẫn tương tác với những năng lượng rung cảm của suy nghĩ và tình cảm của bạn, nên bạn cần tập trung sự chú ý của mình vào những thứ có thể đưa bạn tới trạng thái của rung cảm tích cực (thiện ích). Nhiều chuyên gia về Luật Hấp Dẫn đã nói rằng, không gì quan trọng hơn việc cảm thấy thoải mái.

(…) Ý chí của chúng ta tự do, chúng ta có toàn quyền quyết định mình muốn tập trung năng lượng và sự chú tâm của mình vào đâu. Vũ trụ chỉ đơn giản phản chiếu (gửi ngược) điều đó lại cho chúng ta. Nếu chúng ta tập trung chú ý (chú tâm) vào điều gì đó (tiêu cực-xấu ác hoặc tích cực-thiện lành), thì vũ trụ sẽ gửi lại cho chúng ta chính điều đó, nhưng nhiều hơn.
***

Tiến sĩ vật lí Prasarin (Thái Lan) nói rằng, nghiệp hay hành động tốt và xấu đều mang theo năng lượng tích cực (tốt) hoặc tiêu cực (xấu), gây ảnh hưởng không chỉ cho cá nhân mà cho cả tập thể; nghiệp xấu có thể làm rối loạn môi trường năng lượng của trái đất.
***

“Nghiệp phải có ý nghĩa vũ trụ. Sự thực, cá thể chỉ là cá thể bao lâu người ta còn nghĩ đến chúng trong tương quan với nhau và với toàn bộ cơ cấu mà chúng họp thành. Một làn sóng, tốt hay xấu, một khi bị quấy động, gây ảnh hưởng toàn phần của nước. (...).
Đại thừa lập cước trên ý nghĩa căn bản này về giác ngộ; và thuyết Như lai tạng hay A lại da thức của nó phản ảnh giải thích về nghiệp trên khía cạnh vũ trụ luận”.
(Thiền Luận II; thiền sư học giả D. T. Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
***

“Ở cấp thấp nhất của tư duy và vật chất, mỗi người trong chúng ta đang sáng tạo thế giới (chỉ bằng sự chú ý của mình)”. (Lynne Mc Taggart - nhà vật lí).
***

“Schrodinger, tác giả của phương trình cơ bản trong Thuyết lượng tử đã phát biểu: “Muôn đời và mãi mãi chỉ có bây giờ... HIỆN TẠI là cái duy nhất không có kết thúc”.
(Theo giáo sư-viện sĩ Đào Vọng Đức, nguyên viện trưởng Viện Vật lí, nguyên giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người về Khoa học và Tâm linh. Bài phỏng vấn “Khoa học lí giải Tâm linh như thế nào?”; Khoahoc tv).
***

“Triết gia Descartes nói một câu thâm sâu: “Tôi suy tưởng, vì vậy tôi hiện hữu.” Câu này rất đúng với trí thức, nhưng đối với thiền nó lại hoàn toàn sai. Trong thiền, ta càng suy nghĩ bao nhiêu, ta càng xa chân thân bấy nhiêu. Nếu ta lệ thuộc vào “cái tôi suy tưởng” ta sẽ không thể kinh nghiệm được sự thức tỉnh. Khi ta nói “tôi hiện hữu”, ta bắt buộc phải đẩy Chúa ra ngoài thành một đối tượng. Nhưng bản thể của Chúa là “Ta Là” (I Am) trong trạng thái “ĐANG LÀ” ở mọi nơi và trong HIỆN TẠI”.
(Thiền Kitô Giáo; nhà nghiên cứu Đỗ Trân Duy; Daminhvn net).
***

“TRƯỜNG Ý THỨC LÀ CƠ SỞ của mọi hiện tượng trong Tự nhiên, bởi vì KHE HỞ TỒN TẠI GIỮA mọi electron, MỌI Ý NGHĨ, mọi khoảnh khắc thời gian. KHE HỞ LÀ điểm khống chế, SỰ TĨNH LẶNG Ở TÂM của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện.

(…) Chúng ta cần nhớ NGUỒN GỐC CHUNG của mình. Tinh thần con người suy thoái khi chúng ta hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong một thể xác. Trước hết chúng ta là tâm trí và tinh thần (…)”.
(Tiến sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết-gánh nặng chứng minh; Deepak. Chopra, tiến sĩ y học-nhà nghiên cứu tâm linh nổi tiếng; dịch giả: Trần Quang Hưng).
***

” (…) Ở đây chúng ta có thêm một chứng minh là TẤT CẢ CHÚNG TA ĐƯỢC KẾT NỐI VỚI NHAU TRONG CÙNG MỘT TRƯỜNG Ý THỨC. Các đặc tính của trường này vận hành LÚC NÀY VÀ Ở ĐÂY:
Trường hoạt động như một TỔNG THỂ.
Nó liên kết các sự kiện cách xa ngay tức thời.
Nó NHỚ mọi sự kiện.
Nó tồn tại ngoài thời gian và không gian.
Nó sáng tạo toàn vẹn bên trong mình.
Sáng tạo của nó lớn lên và mở rộng theo hướng tiến hoá.
Nó là Ý THỨC”.
(Sự Sống Sau Cái Chết-gánh nặng chứng minh; Deepak Chopra).
***

“Các nhà khoa học cũng đang quay lại và hướng sự tập trung vào việc tìm hiểu cách thức suy nghĩ và trạng thái của chúng ta THỰC SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN lực từ trường bên trong VÀ XUNG QUANH chúng ta.

(…) Thông qua cuốn sách này, chúng tôi phát hiện ra được năng lực của Ý THỨC SÂU KÍN và cách khai thác nguồn năng lượng khổng lồ, tình yêu thương và sự thông thái. Ý thức sâu kín được mọi người biết đến là phần trí tuệ sâu nhất. Nó được gọi với nhiều tên: quan sát viên giấu mặt, nhà tư tưởng phía sau những suy nghĩ, TRÍ TUỆ ĐIỀU HÀNH, người chỉ huy, chứng nhân, KHOẢNG KHÔNG GIAN GIỮA NHỮNG SUY NGHĨ (…)”. (Tiến sĩ sinh học Karen Nesbitt Shanor) – (Trí Tuệ Nổi Trội; K.N.Shanor; dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt).
***

“Tôi cho rằng chỉ có ý thức là tồn tại, không-thời gian, vật chất hay năng lượng chưa bao giờ là cơ sở của vũ trụ”. (Donald Hoffman - nhà nghiên cứu ý thức).
***

“Hạt quark - từng được coi là viên gạch cơ bản của vật chất - chỉ là cấu trúc tâm thức”. (Trịnh Xuân Thuận - nhà vật lí thiên văn).
***

“Krishnamurti: (Thế giới) Tự nhiên vốn thuộc cái TÂM VŨ TRỤ. Tôi thử tìm cách chấm dứt cái tâm cá biệt (tâm vị ngã-cái “tôi”); bấy giờ chỉ còn có TÂM, tâm vũ trụ đúng chứ? (...).

Krishnamurti: Bởi vì “X” (người giác ngộ) không “bằng lòng” với việc thuyết giảng và thảo luận suông. Cái mênh mông vô tận đó, chính là “X”, phải thực sự có hiệu quả, phải làm cái gì đó. (...).

David Bohm: Nhất thiết phải làm thế. Nhưng cái mênh mông vô tận ấy sẽ tác động hay thay đổi nhân loại cách nào? Khi ông nói thế, gợi ý người ta hiểu rằng có một hiệu quả siêu-cảm-giác lan toả khắp.

Krishnamurti: Đó là chỗ tôi đang nắm bắt đây. (...).

David Bohm: Vâng. Bởi vì thức tâm cũng khởi lên từ nền tảng, nên hoạt động này ẢNH HƯỞNG TOÀN NHÂN LOẠI cũng từ NỀN TẢNG.
Krishnamurti: Vâng”.

(Đọc trong Chấm Dứt Thời Gian, một đối thoại giữa ngài Jiddu Krishnamurti và ngài David Bohm. Ngài Krishnamurti, người không theo tôn giáo nào cả, là một danh nhân giác ngộ được Liên Hiệp Quốc tôn vinh. Ngài David Bohm là một nhà khoa học lớn, giáo sư tiến sĩ vật lí. Bản dịch của dịch giả Đào Hữu Nghĩa).
***

“Trường Akasha (Trường Điểm Không - trường của trường) được mỗi nền văn hoá lí giải theo cách có ý nghĩa với nền văn hoá đó. Tự thân, trường miền này là tiềm năng thuần tuý. Nhưng các hướng dẫn tâm linh vĩ đại trước đây muốn khẳng định một lần nữa cho các tín đồ của mình rằng không gian không phải là hư vô. Chúng ta biết thế bởi vì sự tĩnh mịch nội tại của chúng ta không phải là hư vô. (…) Chúng ta đi theo hành trình của linh hồn tới giai đoạn cao nhất nó có thể đạt được là chính Akasha, nguồn gốc của mọi sáng tạo”. (Deepak Chopra).
***

"(...) Trong bối cảnh đó, tôi thấy thuyết tiến hoá hữu thần, hay BioLogos, cho tới thời điểm này vẫn có sự nhất quán về mặt khoa học rõ ràng nhất, cũng như có sự thoả mãn về mặt tâm linh lớn nhất trong tất cả các lựa chọn. Quan điểm này sẽ không lỗi thời hay bị những phát hiện khoa học trong tương lai phủ nhận. Nó chắc chắn về mặt trí tuệ và đưa ra lời giải đáp cho rất nhiều câu hỏi phức tạp khác, đồng thời cho phép khoa học và tôn giáo củng cố lẫn nhau như những chiếc cột không thể lay chuyển, bám chặt vào một toà nhà gọi là Chân lí”.
(Ngôn ngữ của Chúa; Francis S. Collins-nhà khoa học, giám đốc Dự án Giải mã Gen người; Lê Thị Thanh Thuỷ dịch).
***

"... Một trong những lí do Phật bỏ lửng như vậy, không giải đáp một số câu hỏi siêu hình, là vì Phật giáo là một hệ thống tu tập thực nghiệm chứ không phải là một bài giảng huyền học. Cố nhiên Phật vẫn có riêng một nhận thức luận nào đó, nhưng đó là điều phụ thuộc, bởi lẽ chủ đích của Phật giáo là đạt ngộ ngõ hầu tâm chứng tự do.
(Thiền luận I; D. T. Suzuki; Trúc Thiên dịch).
---

(Mời đọc tiếp phần dưới)

Ảnh đại diện

Gặp lại vầng trăng (Tuệ Thiền): Một số trích đoạn về khoa học-tâm linh-thiền định (tiếp theo)

PHẦN B.-

“Emoto và các cộng sự (ở Nhật) dán các mảnh giấy được đánh máy các câu, chữ khác nhau lên thành chai thuỷ tinh đựng các mẫu nước và để qua đêm. Kết quả là những thông điệp mang tính tích cực như “cảm ơn”, “tình yêu và sự cảm kích” đã khiến cho tinh thể nước tạo thành những cấu trúc rất đẹp. Ngược lại, những thông điệp mang tính tiêu cực như “mày làm tao phát ốm, tao sẽ giết mày” lại tạo nên những cấu trúc tinh thể xấu xí và méo mó”.
(Báo Giáo dục & thời đại chủ nhật số 47 năm 2006).
***

“Cụ thể là, nhờ tham thiền, sinh trường của tu sĩ ở trạng thái áp đảo quá trình tái sinh bệnh hoạn (ung thư), ổn định chức năng của các tế bào bệnh và kích thích các tế bào bình thường của cơ thể tái sinh. Nói một cách khác, bí quyết trường thọ ở các môn đồ không phải vì chu kì sống của các tế bào gia tăng, mà là sự thay thế các tế bào già nua bằng các tế bào mới và phòng ngừa suy biến thành ung thư. (…) Trên bước đường khoa học của mình, tôi luôn luôn đi theo cách thứ hai, nghĩa là từ cái chung đến cái riêng. Vì đã nhằm mục đích là giải quyết những vấn đề y học cụ thể, trước tiên là bệnh ung thư, muốn hay không chúng tôi cũng phải nghiên cứu năng lượng tâm thần và những vấn đề liên can là NGUỒN GỐC loài người và vũ trụ”.

(Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E-rơ-nơ Mun-đa-sep; giáo sư tiến sĩ y học (Nga), nhà bác học lớn quốc tế. Dịch giả: Hoàng Giang. nxb Thế Giới, 2009).
***

“Các phương pháp thiền khuyến khích sự thở sâu từ cơ hoành, được biết đến với chức năng nuôi dưỡng các cơ quan cần thiết và làm tăng các mức độ năng lượng, tăng tỉ lệ trao đổi chất và tái sinh các khu vực trì trệ của cơ thể.

(…) 20 năm trước khi chúng tôi đề nghị các bệnh nhân tập thiền để có sức khoẻ, chúng tôi thường gặp phải những thái độ hoài nghi. Giờ đây người ta đến các khoá học thiền ngày càng đông. Một công trình nghiên cứu mang tính bước ngoặt của Benson và Wallace cũng như hàng nghìn các nghiên cứu khoa học đã cho thấy các lợi ích VẬT CHẤT và TINH THẦN của thiền và đặt nó ở một vị trí tuyệt vời, như một câu nói của người Scotland như sau “nó tốt cho những gì làm bạn đau đớn” mà không có tác dụng phụ nào cả. Bên cạnh đó, sự thiền định còn cung cấp cho người ta thêm năng lượng và khiến họ suy nghĩ tốt hơn, tăng cường khả năng ghi nhớ, tập trung và nâng cao tính sáng tạo”.

(Trí Tuệ Nổi Trội; Karen Nesbitt Shanor, tiến sĩ sinh học. Trích trong bài viết được bà viết chung với John Spencer, tiến sĩ y học. Dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt. NXB Tri Thức, 2007).
***

“Dopamine là một hợp chất hoá học quan trọng trong não có nhiều tác dụng tốt cho cả tinh thần lẫn thể chất. Người ta còn gọi dopamine như một hormone hạnh phúc. Bởi chúng tạo ra động lực phát triển trí não, sự chú ý và thậm chí điều chỉnh chuyển động của cơ thể. Hơn thế nữa, khi dopamine được giải phóng với số lượng lớn thì sẽ tạo ra cảm giác vui vẻ và lạc quan, thúc đẩy hành vi của bạn.

Mức độ dopamine thường được sản xuất trong các mô thần kinh, tuy nhiên, bạn có thể làm tăng lượng hormone này một cách tự nhiên nhờ những thói quen sau đây:
- Ăn nhiều thực phẩm chứa protein,
- Hạn chế thực phẩm chứa nhiều chất béo bão hoà,
- Bổ sung lợi khuẩn brobiotics,
- Tập thể dục thường xuyên,
- Ngủ đủ giấc,
- Nghe nhạc không lời,
- THIỀN ĐỊNH.

Thiền là bài tập giúp thanh lọc tâm trí, cải thiện sự tập trung vào sâu bên trong. Chúng có thể được thực hiện trong khi đứng, ngồi hoặc thậm chí đi bộ. Thường xuyên thiền sẽ cải thiện sức khoẻ cả thể chất lẫn tinh thần.

Nghiên cứu mới đã phát hiện ra rằng, những lợi ích này xuất phát từ nguyên nhân là nồng độ dopamine trong não đã tăng sau khi chúng ta thiền định. Sản lượng dopamine sẽ tăng đến 64% nếu bạn thực hiện bài tập này trong 1 giờ. Do đó, những người thường xuyên dành thời gian để tĩnh tâm, ngồi thiền sẽ có tâm trạng vui vẻ, lạc quan hơn”.

(https //kenh14 vn/nhung-cach-lam-tang-hormone-dopamine-mot-cach-tu-nhien-de-ban-luon-lac-quan-vui-ve-20180611003848632 chn).
***

(Mời tham khảo thêm bài thi-kệ Hơi Thở Minh Triết (tác giả Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn), trong Thivien net).
***

“Một người, thông qua những suy nghĩ của họ, có thể thay đổi một phần nào đó của chức năng sinh lí - như nhịp tim, huyết áp hay sự dẫn điện trên da - của một người ở một vị trí khác”. (Marilyn Schlitz - tiến sĩ sinh học).
***

“Các nghiên cứu tại trường đại học Stanford đã chỉ ra rằng thông qua suy nghĩ, chúng ta có thể gây ảnh hưởng tới huyết áp và nhịp tim của một người ở cách xa chúng ta. Còn các nhà khoa học tại trường đại học Princeton đã chứng minh được quá trình trao đổi thông tin giữa hai người ở cách xa nhau hàng nghìn dặm”.
(Tiến sĩ sinh học Karen Nesbitt Shanor) – (Trí Tuệ Nổi Trội; K.N.Shanor; dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt).
***

Thí nghiệm của M. Emoto cho thấy, khi dán 2 mẩu giấy mang tên người có tính cách tốt-xấu khác nhau vào 2 chai nước, thì cấu trúc và chất lượng nước cũng biến đổi khác nhau. Thí nghiệm này giúp hiểu rõ hơn thần lực của các danh hiệu thánh nhân, các chân ngôn… (Theo báo Giáo Dục & Thời Đại Chủ Nhật số 47 năm 2006).
***

“Các nhà khoa học tham gia hội nghị của Hiệp hội thần kinh-sinh vật học Mĩ tổ chức tại Washington năm nay đã rất ngạc nhiên trước việc phát hiện ra sự khác biệt rõ rệt trong cấu trúc não của những người ngồi thiền và của những người chưa bao giờ luyện tập thiền. Hơn nữa, nghiên cứu này lại được thực hiện ở những người dân Mĩ bình thường (…)”. (Báo GD & TĐ ngày 22/11/2005).
***

Nhà bác học người Nga nói rằng:
“Sự sống và cái chết thay đổi luôn là để nhanh chóng thay con người độc ác, ích kỉ và hám danh bằng một người khác với hi vọng, sau khi con người ở Cõi kia bị thần linh “trừng phạt” sẽ đầu thai tái sinh trở thành người tốt hơn, thiện hơn. Vì vậy có lẽ huyền thoại về địa ngục và thiên đường có cơ sở.

(…) (Thầy Đa-ram nói) Năng lượng linh hồn là năng lượng ở ngoài electron và ngoài proton. Nhưng TÂM NĂNG MẠNH MẼ VÔ CÙNG, nó có khả năng tác động lên lực hấp dẫn. Năng lượng của nhiều tâm có một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực và tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền với nhau.(…) Tâm năng tiêu cực (xấu ác) có thể thu hút các đối tượng phá phách của vũ trụ, tác động lên thiên nhiên. Bởi vậy, cùng với xung đột và chiến tranh, khá thường xuyên xảy ra động đất, rơi thiên thạch...”.
(Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E. Mun-đa-sep; dịch giả: Hoàng Giang).
***

Hai tác giả John Spencer (tiến sĩ y học) và Karen Nesbitt Shanor (tiến sĩ sinh học) viết trong tác phẩm Trí Tuệ Nổi Trội: “Một nghiên cứu xuất sắc đánh giá vai trò của sự cầu nguyện (cho người khác) trong việc chữa bệnh do bác sĩ chuyên khoa tim Randolph Byrd tiến hành đã khích lệ rất nhiều các nghiên cứu sau đó.

(…) Các nhóm tôn giáo khác nhau được cử đến để cầu nguyện cho các bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện (bệnh nhân không biết).
(…) Các bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện ở một số khu vực so sánh với những người trong nhóm không cầu nguyện: Họ dùng thuốc kháng sinh ít hơn năm lần; họ ít bị mắc chứng phù ở phổi hơn ba lần; không ai trong số họ cần đến ống thở (…); và có rất ít bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện bị chết.” (Trí Tuệ Nổi Trội; Karen Nesbitt Shanor; dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt).
***

K.N. Shanor nói: “Nhiều nghiên cứu khoa học đã khiến cho melatonin ngày càng được biết đến với giá trị như một phân tử chống ung thư.(…).Thú vị là việc luyện thiền được coi là một hành động kích thích tuyến tùng và giúp tạo ra đủ lượng melatonin cần thiết”. (Trí Tuệ Nổi Trội).
---

(Mời đọc tiếp phần dưới)

Ảnh đại diện

Nhành hoa bể khổ (Tuệ Thiền): Lời dâng (tiếp theo)

Giá trị giác ngộ, giá trị Đại Thừa không nằm ở hành vi, hình tướng bên ngoài, mà ở thực chất của tâm. Nếu thật sự có giác ngộ, có tâm Đại thừa thì dù sống ẩn dật vô danh vẫn có thiện ích lớn cho chúng sinh, cho sự nghiệp giác ngộ chung.

Có duyên lành với nền văn hoá giác ngộ là có diễm phúc cực kì lớn lao.

Không tôn trọng phương tiện thăng hoa tâm linh của người khác thì chưa có tâm thái hoà bình, tỉnh thức.

Khi ta suy nghĩ, ta chỉ tiếp xúc với một vài khía cạnh cuộc sống. Nhưng nếu muốn giáp mặt thực tại toàn diện của cuộc sống thì phải im lặng tâm trí.

Tâm giải thoát phiền não mang ý nghĩa hiếu nghĩa lớn nhất, mang ý nghĩa nghĩa vụ và trách nhiệm cao quý nhất, vì đó là hành động thuận đạo lí, thuận hợp đại luật vận hành của vũ trụ.

Nếu đã thật sự phát khởi tâm nguyện lớn (tâm Đại thừa) thì dù chưa triệt ngộ, vẫn có thể tuỳ duyên sử dụng nghịch hạnh.

Khi triết lí giáo dục chưa minh triết thì tất yếu dẫn đến suy yếu đạo đức nghề nghiệp ở người lao động, suy yếu lương tri ở người cán bộ.

Càng tôn vinh quá độ các gíá trị bản năng và công cụ (nhất là công cụ trí óc) thì thế giới càng đảo điên, khốn đốn.

Vắng mặt năng lực tự tri tự chủ, vắng mặt trí-lương-tri thì trí-công-cụ sẽ trở thành tôi tớ cho trí-chó-sói.

Cái “tôi” càng lớn, càng bền chắc, càng xảo quyệt, càng tự tôn, càng bè phái thì sự liêm khiết trí thức càng suy yếu, tư tưởng và hành vi “người bóc lột người” càng đa dạng.

Người có tâm Đại thừa thì vui mừng vì nhiều người biết hướng thượng, chứ không cố chấp “hơn thua” về khái niệm, về từ ngữ.

Giáo dục “toạ thiền-quán hơi thở-tự tri” là biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả giáo dục, thăng hoa tâm trí, cải thiện thế giới.

Thiền là sống tỉnh thức, thực tế và minh triết.

“Vô niệm” để chấm dứt trí nhớ tâm lí - thứ trí nhớ lấy cái “tôi”, cái chấp ngã làm trọng tâm.

Niềm tin nếu đi đôi với sự chấp ngã nặng nề thì nuôi dưỡng lòng kiêu ngạo sân si.

Không biết tu tâm thì không thể phát triển nhân cách. Sự tu tâm chân chính là việc làm quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với xã hội, vũ trụ.

Không tự tri, tức quán tâm, thì không thể thấy huyễn tướng cái “tôi”, tức bản ngã.

Sự giác ngộ đích thực thì đi đôi với lòng từ bi, bao dung.

“Tự tri” là quán chiếu tâm thức, là biết rõ tâm trí. “Tỉnh thức” là tâm không vọng tưởng. “Vô ngã” là tâm thái hoà bình, an lạc, yêu thương, thiện ích, tự do tự tại, diệu dụng, bất sinh bất diệt, tịch tri, tịch chiếu.

Truyền bá minh triết Thiền Định Tự Tri là góp phần cải tạo xã hội.

Khi dục vọng vô mình và sự chấp ngã ngự trị thì không có tự do tinh thần.

Vô minh là trạng thái tâm trí trụ vào kiến chấp nhị nguyên (nhị tướng).

Tự tri là hồi quang phản chiếu, là nội quán.

Giá trị làm người thể hiện ở hiệu quả thiện ích, ít tác hại (nhất là ở mặt “tiềm ẩn” là năng lượng tâm thần) đối với xã hội, đối với vận hành của vũ trụ.

Thấu triệt lí duyên sinh-vô ngã thì tâm dễ tĩnh lặng, não dễ chuyển hoá, dễ ngộ nhập chân lí tuyệt đối.
------------------------

ĐÀM ĐẠO VỀ MINH TRIẾT

Hỏi: Thế nào là tâm trí minh triết?

Đáp: Tâm trí minh triết là tâm trí mang phẩm chất chân-thiện-mĩ.

Hỏi: Thế nào là tâm trí mang phẩm chất chân-thiện-mĩ?

Đáp: Tâm trí mang phẩm chất chân-thiện-mĩ là tâm trí giải thoát khỏi tình trạng óc não bị quy định, bị khuôn đúc (tình trạng vô minh quy ngã).

Hỏi: Tâm trí giải thoát khỏi tình trạng óc não bị quy định, bị khuôn đúc, nói cụ thể hơn, có nghĩa là gì?

Đáp: Tức là giải thoát khỏi tình trạng ngã chấp (tình trạng chấp thủ cái “tôi”, tình trạng vô minh quy ngã).

Hỏi: Tại sao điều này có tầm quan trọng như vậy?

Đáp: Vì cái “tôi” càng đen tối, tình trạng quy ngã càng lớn thì các phẩm chất quan trọng như tâm thái hoà bình an lạc, tâm trí tự do tự chủ, tình yêu thương lân mẫn, thiện chí công bằng bình đẳng càng yếu kém. Yếu kém các phẩm chất quan trọng này thì không thể có tâm trí minh triết; vì minh triết có nghĩa là có nhãn quan minh triết, có hành động minh triết với cuộc sống toàn diện, với thế giới, với con người.

Hỏi: Làm sao để giải thoát khỏi tình trạng ngã chấp?

Đáp: Viên mãn giải thoát thì rất khó. Để giảm thiểu tình trạng ngã chấp, để có được những giây phút giải thoát khỏi tình trạng ngã chấp, chủ yếu là phải biết tự tri; tức là phải thấu hiểu, phải thấy biết, phải cảm nghiệm tâm trí mình. Tự tri mang nội hàm “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”. Muốn đi sâu vào tự tri, cần thực hành nghiêm túc và tìm hiểu thêm về thiền định tự tri (pháp môn quán tâm).

Hỏi: Tự tri có phải cũng chính là trí tuệ tâm linh?

Đáp: Đúng vậy. Tự tri là trí tuệ minh triết, là trí tuệ nhân văn, là trí lương tri, là trí vô sư, là trí tuệ tâm linh, là trí bát-nhã, là trí tuệ vũ trụ (trí tuệ nhất thể). Vì thế, “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống.
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả. “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính mình. (Đường Về Minh Triết; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn).

Hỏi: Như thế, không biết tự tri thì không thể có tâm trí mang phẩm chất minh triết (phẩm chất chân-thiện-mĩ) đích thực?

Đáp: Đúng vậy. Không thể nào có minh triết khi mà mình hoàn toàn vô minh đối với tâm ý của mình. Vô minh thì không thể minh triết, dù giàu sang về trí-công-cụ.

(Đường về minh triết - có bổ sung; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn; Thuvienhoasen org).
---------------------------------

Ảnh đại diện

Nhành hoa bể khổ (Tuệ Thiền): Lời dâng (tiếp theo)

Tâm hồn không thanh bình thì cuộc sống kém chất lượng, hiệu quả công tác không cao, không có kinh nghiệm về niềm an vui tự phát, không thể ngộ nhập Tánh Viên Giác vốn có ở chúng sinh và trùm khắp mười phương.

Truyền bá minh triết thiền “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là góp phần xây dựng nền văn hoá hoà bình, nền văn hoá tiên tiến.

Nền văn học nào, nền giáo dục nào không giúp được con người nhận ra các bệnh tâm hồn, không giúp con người biết cách tự chữa trị có hiệu quả, thì đó là nền văn học, nền giáo dục còn nhiều yếu kém.

Óc địa vị là biểu hiện của bản năng quyền lực đậm nét thú tính; nó không biết quý trọng giá trị nhân cách.

Tuyên truyền quá nhiều về giá trị của kinh tế, của văn minh vật chất sẽ làm cho giá trị của nhân cách, của đạo đức, của văn minh tinh thần bị coi thường.

Từ năng lượng quán tâm (tự tri) xuất sinh tình thương, niềm vui, năng lực sáng tạo có chất lượng cao, xuất sinh nhãn quan minh triết, tác dụng giáo dục.

Tâm thái vô ngã là tâm thái hoà bình, bao dung, minh triết, thông minh.

Khi đã biết sống với tâm vô ngôn thì tuỳ duyên ứng xử, không bị quy định bởi bất cứ gì; đó là sự tự do tự tại đích thực của tâm trí. Tâm Thiền là Chân-Thiện-Mĩ. Minh triết tối thượng là biết dừng tâm và tịch chiếu.

Theo nhiều nhà khoa học tự nhiên, năng lượng tâm thức là dạng năng lượng cơ bản, có ảnh hưởng tốt hoặc xấu cho toàn vũ trụ (tuỳ tính chất tâm thức) và cho bản thân.

“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.

Sự tĩnh tâm tự tri có công năng giữ gìn lương tri, sự tự chủ, sức khoẻ tinh thần, giá trị làm người.

Người biết yêu nét đẹp của tâm hồn là người trưởng thành tâm trí, là người có tinh thần dũng cảm, biết sống với hạnh phúc chân chính.

Càng hướng đến lí tưởng vô ngã thì cái “tôi” càng giàu thiện ích mĩ.

“Vô ngã” là bản ngã (cái “tôi”) chuyển thành trạng thái tâm trí hoà bình, tỉnh sáng, “vô ngôn giữa muôn lời”.

Khi cái “tôi” xâm lấn, bóc lột người khác, nó luôn ẩn núp sau những lời hoa mĩ.

“Vô ngã” là Sự Sống bất sinh bất diệt. “Vô ngã” là chân ngã, là giải thoát.

Tâm hồn không tự do thì không có năng lực tư duy độc lập, không cảm thụ được trọn vẹn vẻ đẹp cuộc sống, nghèo nàn tinh thần sáng tạo, kém nhân cách.

Nặng óc cục bộ thì không yêu dân, không yêu nhân loại; chỉ yêu cái “tôi”, luôn bao che những xấu ác.

Tâm ý xấu ác không chỉ có hại cho thế giới, mà còn rất hại cho môi trường năng lượng của mình.

Tư tưởng xuất thế góp phần làm trong sạch sự nhập thế.

Muốn chữa cơn bệnh nặng, không thể chỉ uống vài lần thuốc. Muốn rèn luyện cơ thể, không thể chỉ cần một vài buổi tập. Cũng vậy, muốn cải tạo những tính xấu thì phải có chương trình học tập, rèn luyện lâu bền. Đây là điều mà ngành giáo dục cần quan tâm đúng mức khi bàn đến chất lượng giáo dục, hiệu quả giáo dục, đào tạo cán bộ...(Giúp cho mọi người có cảm hứng tự hoàn thiện nhân cách, đó là vấn đề cực kì quan trọng của giáo dục, của văn hoá).

Tâm trí không tĩnh lặng thì không thể giáp mặt thực-tại-đúng-như-thực, không thể giáp mặt chân lí cuộc sống.

Thượng Đế (hay Chân-Thiện-Mĩ) không thuộc về phe này hay nhóm kia, không thuộc về hình tướng nào; mà thuộc về những tâm hồn trong sạch, bình đẳng, bác ái, từ bi. Đó là Tánh Viên Giác.

Khi sống muốn bao la cùng trời đất thì khi chết sẽ không bị trói buộc vào chốn phiền não.

Tự tri là, bằng trí tuệ nội quán, nhận biết trọn vẹn mọi cảm giác, tư tưởng, ý muốn, nhận thức phân biệt v. v…đang xảy ra trong tâm trí. Đây là sự nhận biết (kiến chiếu) một cách tự nhiên, không phê phán, không lấy-bỏ (thủ-xả), không dụng công. Có năng lực kiến chiếu này thì tâm trí sẽ tĩnh lặng (tỉnh thức) và thấy rõ bản chất của bản ngã (cái “tôi”). Bản ngã sẽ được chuyển hoá thành trạng thái tâm vô ngã - tức là tâm thái hoà bình, từ bi đích thực, mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn “mạng lưới vật chất và tâm linh” của vũ trụ.

Khi ngồi định tâm mà vẫn nhớ nghĩ đủ chuyện (tức nói năng bên trong) thì giống như khi ngồi một mình mà nói đủ điều. Đó là tình trạng bất bình thường của tâm trí, của bộ não và hệ thần kinh.

“Tỉnh thức” là “có mặt” trong giây phút hiện tại với những gì đang xảy ra.

“Có mặt” tức là tâm trí không còn vọng tưởng lang thang.

Người biết yêu điều tốt ghét điều xấu là người biết phục thiện; người biết phục thiện thì dễ tiếp thu đạo lí giác ngộ; người biết tiếp thu đạo lí giác ngộ thì dễ thực hành tự tri; người biết thực hành tự tri thì dễ thực chứng chân lí tuyệt đối, siêu vượt khái niệm-tướng trạng.

Khi kẻ ác tấn công ta, ta sử dụng trí tuệ và lòng dũng cảm để đối phó với chúng; làm như thế thì có lợi hơn là sử dụng lòng căm thù.

Vô ngã là tâm thái tịch tri, tịch chiếu, thường tịch quang. Vô ngã là Chân ngã.

Đừng coi thường việc chữa trị các bệnh tinh thần, vì nếu thế, văn minh vật chất và sự hưng thịnh kinh tế chỉ như sức lực dồi dào của một gã khùng hung hãn, sẽ rất nguy hiểm cho nhân loại.

Những người yếu kém văn hoá (có thể có học vị cao, tri thức dày) thường coi khinh dân quê, coi khinh những nghề lao động vất vả, thu nhập thấp. Tâm hồn họ bị xơ hoá, vô cảm, vong ân.

Cái nhìn khách quan không thể đánh giá được nhân cách minh triết; chỉ họ tự biết. Nhân cách minh triết tối cao chính là nhân cách tự-do-tinh-thần. Đó là giá trị cao nhất.

Tâm bất bình thường thì não bất bình thường. Tâm não bất bình thường tác động bất bình thường đến sự vật và ảnh hưởng xấu đến nhận thức của ta, đến cuộc sống của ta (kể cả hoàn cảnh).

Được lên thiên đường bởi niềm vui: niềm vui mang tính chất nhân từ. Bị xuống địa ngục cũng bởi “niềm vui”: “niềm vui” mang tính chất gian ác.

Không quan tâm đến sự sống sau khi thể xác chết là quá thờ ơ với tương lai.

Trong ta có “tấm gương” “nghe và thấy” được tư tưởng, cảm giác, ý muốn... Tĩnh tâm một thời gian thì tấm gương này sẽ lộ rõ. Nó càng sáng, ta càng dễ thấy cái “tôi” và cái “tôi” dễ dàng được chuyển hoá thành “vô ngã”.

Mọi tài năng đều có giá trị về mặt công cụ, đều có thể góp phần làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn. Nhưng cái năng lực quý giá nhất làm cho con người giữ vững giá trị làm người, đó là sự tự tri tự chủ. Thiếu cái năng lực này, các tài năng khác có thể biến con người thành ác quỷ, dã thú, kẻ đê tiện.

Tôn giáo có ý nghĩa lớn về đạo đức, về cảm hứng, nhu cầu cải tạo tâm tính, nếu tôn giáo giàu từ bi bác ái.

Gọi là “Thiền” hay từ nào khác cũng được, điều quan trọng là cái nội hàm “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”.

Thiền học không nên chỉ dạy hạn chế ở một vài ngành đại học, mà nên phổ cập ở mọi cấp học để có nền tảng vững chắc trong giáo dục-đào tạo nhân cách.

Cái “tôi” làm cho tâm hồn nặng trĩu vì uy lực, còng xuống vì nô lệ, đen tối vì tự ti, tự phụ, tự ái…

Thiền định tự tri càng cao thì càng minh mẫn hơn, chủ động hơn với cuộc sống, với công việc; năng lượng phiền não được chuyển hoá thành năng lượng an lạc, thiện ích.

Niệm (nhớ-nghĩ) luôn xuất hiện trong tâm. Chúng là ngôn từ (tiếng nói bên trong) và có hình tướng (sóng tâm thức). Trong thiền định (tự tri), ai thấy rõ niệm sinh diệt liên tục, thấy rõ chỗ niệm xuất hiện và chấm dứt (tức là khoảng trống giữa hai niệm) thì sẽ nhận ra (ngộ) tâm vô niệm, “vô ngôn”. Đó là tâm thể “một niệm vô ngôn” như vầng trăng toả sáng. (“Niệm” trong “niệm vô ngôn” có huyền nghĩa khác hẳn với “niệm” trong “vọng niệm”. Phải ngộ mới thấy, mới biết). Vô ngôn đó khi đã “an định”, sẽ soi sáng muôn lời (tức là soi sáng trí phân biệt tương đối), sẽ là tri giác tự do tự tại, thoát tình trạng vọng động vô minh. Đó là “tánh sáng” bất sinh bất diệt.

Phải biết “ghét” bệnh phong, nhưng đừng ghét người mang bệnh phong; cũng vậy, phải biết ghét thói xấu nhưng đừng ghét người đang có thói xấu. Sự xấu ác là bệnh tinh thần.

Nếu chưa quán tâm (tự tri) để thấy rõ tướng trạng như huyễn của bản ngã thì chưa biết “đọc kinh bằng tâm”, chưa biết đọc công án Thiền.

Nhiệm vụ quan trọng nhất của văn nghệ sĩ là giúp người khác biết sống với hạnh phúc trong sáng - thứ hạnh phúc mà người văn nghệ sĩ chân chính phải có, nhà văn hoá chân chính phải có, con người biết tự tin-tự trọng phải có.

Thỉnh thoảng có được một vài phút sống với tâm vô ngôn cũng có công đức và phước đức rất lớn.

Giới hạnh là vấn đề khoa học, vấn đề nhân quả. Chí hướng giác ngộ biết tôn trọng nhân quả, nhưng muốn siêu vượt nhân quả, luân hồi.

Muốn có hiệu qủa cao trong việc chống hối lộ-tham ô-bè phái, một đại nạn của thế giới, thì tôn giáo phải vào cuộc với giới luật rõ ràng về vấn đề này.

Thói hối lộ sinh ra nhiều tội ác nghiêm trọng.

Thấy-biết khác với hiểu. Nếu thấy-biết của tâm chưa khế hợp với Bát Nhã Tâm Kinh thì chưa có Trí Bát Nhã.

Một trong những phương cách giúp duy trì cảm hứng sống thiền là toạ thiền mỗi ngày. Không nên bỏ trắng ngày nào cả (vì lí do gì đó cũng nên duy trì vài phút).

Tâm vô ngôn là sự tỉnh thức toàn diện của sự sống.

Khoác lác, tự đại, tự ti, khiêm tốn đều không có lợi cho Đạo.

Muốn đi sâu vào kinh sách về Thiền, phải có năng lực đọc-hiểu và đọc-thấy. Thiền định tự tri làm xuất sinh năng lực đọc-thấy. Đó là cái thấy nội tại.

Khi tâm hồn không có lí tưởng thánh thiện và minh triết thì con người rất dễ bị cái xấu lôi cuốn, rất dễ bị tha hoá biến chất.

Chưa thật thấy chúng sinh là ân nhân của mình thì chưa có phẩm chất Bồ tát, chưa tỉnh thức.

Tâm Đại thừa là tâm khiêm hạ, hiểu rằng tội lỗi của mình từ vô lượng kiếp đã ảnh hưởng xấu đến tất cả chúng sinh.

Tâm Đại thừa khởi phát từ sự nhận thức sâu sắc rằng, tội lỗi của cá thể ảnh hưởng đến toàn thể, qua thân khẩu ý.

Thể xác thì tất nhiên có sở trụ, nhưng tinh thần thì cần “hướng đến” vô sở trụ.

Làm cho con người biết yêu quý nét đẹp tâm hồn mình, đó là nhiệm vụ cao cả của văn hoá, của giáo dục, của tôn giáo.

Thiền định tự tri là sống tận nền tảng, tận cội nguồn sự sống.

(Mời đọc tiếp phần dưới)

Ảnh đại diện

Bài ca vì hoà bình (Tuệ Thiền): “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã”

* 21/9 – NGÀY HOÀ BÌNH THẾ GIỚI (21/9/1981)
---
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.

* Không tự tri, tức quán tâm, thì không thể thấy huyễn tướng cái “tôi”, tức bản ngã.

* Sự xấu ác là biểu hiện của cái “tôi” (bản ngã) đen tối.

* Cái “tôi” càng lớn thì tình thương càng nhỏ. Càng chấp thủ cái “tôi, bệnh tinh thần càng nặng; càng ảnh hưởng có hại cho tha nhân, môi trường bằng hành vi, bằng thái độ, bằng năng lượng tâm ý.

* Theo cách nói của nhiều nhà vật lí thì vũ trụ là một mạng lưới chằng chịt vật chất và tâm linh tương quan với nhau. Hiểu như vậy, sẽ thấy toàn vũ trụ là một cơ thể bất khả phân.

* Con người cần có sự định tâm tỉnh trí để thấy biết trọn vẹn tâm hồn mình. Không tự tri thì không tự chủ, không có sự liêm khiết và tự do tinh thần, không có Thiền.

* Tham cứu Thiền là tham cứu sự sống và ý nghĩa cuộc sống.

* Viên mãn “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” rất khó, nhưng chỉ có hướng đến đó mới xây dựng được mẫu số chung cho nhân cách, cho ý nghĩa cuộc sống. Chỉ có hướng đến đó mới tạo nên tiếng nói chung cho hoà bình, công bằng, nhân ái - thật sự biết tôn trọng nhau giữa người với người.

* “Tự tri” là quán chiếu tâm thức, là biết rõ tâm trí. “Tỉnh thức” là tâm không vọng tưởng. “Vô ngã” là tâm thái hoà bình, an lạc, yêu thương, thiện ích, tự do tự tại, diệu dụng, bất sinh bất diệt, tịch tri, tịch chiếu.

* Tự tri là, bằng trí tuệ nội quán, nhận biết trọn vẹn mọi cảm giác, tư tưởng, ý muốn, nhận thức phân biệt v. v…đang xảy ra trong tâm trí. Đây là sự nhận biết (kiến chiếu) một cách tự nhiên, không phê phán, không lấy-bỏ (thủ-xả), không dụng công. Có năng lực kiến chiếu này thì tâm trí sẽ tĩnh lặng (tỉnh thức) và thấy rõ bản chất của bản ngã (cái “tôi”). Bản ngã sẽ được chuyển hoá thành trạng thái tâm vô ngã - tức là tâm thái hoà bình, từ bi đích thực, mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn “mạng lưới vật chất và tâm linh” của vũ trụ.

* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.

* Thượng Đế (hay Chân-Thiện-Mĩ) không thuộc về phe này hay nhóm kia, không thuộc về hình tướng nào; mà thuộc về những tâm hồn trong sạch, bình đẳng, bác ái, từ bi. Đó là Tánh Viên Giác.

* Thiền định tự tri thì không thuộc riêng tôn giáo nào hay nền văn hoá giáo dục nào; đó là tài sản cực kì quý giá của nhân loại muôn đời, của vũ trụ.

* Thiền là tự tri, là siêu vượt tín ngưỡng, hình tướng, khái niệm…, là sống tỉnh thức toàn diện với trí vô sư, với trí tuệ siêu vượt quy định nhị nguyên (tức là sống với trí bát-nhã).

* Có thể có tinh thần tôn giáo mà không theo tôn giáo nào, tín ngưỡng nào.

* Mọi tài năng đều có giá trị về mặt công cụ, đều có thể góp phần làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn. Nhưng cái năng lực quý giá nhất làm cho con người giữ vững giá trị làm người, đó là sự tự tri tự chủ. Thiếu cái năng lực này, các tài năng khác có thể biến con người thành ác quỷ, dã thú, kẻ đê tiện.

* Đừng coi thường việc chữa trị các bệnh tinh thần, vì nếu thế, văn minh vật chất và sự hưng thịnh kinh tế chỉ như sức lực dồi dào của một gã khùng hung hãn, sẽ rất nguy hiểm cho nhân loại.

* Từ năng lượng quán tâm (tự tri) xuất sinh tình thương, niềm vui, năng lực sáng tạo có chất lượng cao, xuất sinh nhãn quan minh triết, tác dụng giáo dục.

* Theo nhiều nhà khoa học tự nhiên, năng lượng tâm thức là dạng năng lượng cơ bản, có ảnh hưởng tốt hoặc xấu cho toàn vũ trụ (tuỳ tính chất tâm thức) và cho bản thân.

* Tâm thái vô ngã là tâm thái hoà bình, bao dung, minh triết, thông minh.

* Giáo dục “toạ thiền-quán hơi thở-tự tri” là biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả giáo dục, thăng hoa tâm trí, cải thiện thế giới.

(Trích trong Đường Về Minh Triết; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn; nxb Văn Nghệ, 2007)
-------------------

Ảnh đại diện

Gặp lại vầng trăng (Tuệ Thiền): Một số trích đoạn về khoa học-tâm linh-thiền định

(Trước khi vào PHẦN SƯU TẦM, xin mời đọc "góp lời" dưới bài thơ Truyền Trao Đuốc Tuệ - cùng tác giả)

-------------
(Sưu tầm – hỗ trợ khát vọng trở về Chân-Thiện-Mĩ)

MỘT SỐ TRÍCH ĐOẠN VỀ KHOA HỌC-TÂM LINH-THIỀN ĐỊNH

(Tâm linh là Tâm trí-tinh thần-linh hồn-trường tiềm năng).

(Vài chỗ trong ngoặc đơn, các chữ được chuyển thành chữ in hoa là do người đọc - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn - làm cho rõ nghĩa).
---

PHẦN A.-

“Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu. Sự gặp gỡ chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân loại một NỀN VĂN MINH MỚI”. (Báo Giác Ngộ số 15/1991).
***

“Albert Einstein nói: Khoa học mà không có tôn giáo thì khập khiễng; tôn giáo mà không có khoa học thì mờ ảo”.
(Theo giáo sư-viện sĩ Đào Vọng Đức, nguyên viện trưởng viện Vật lí, nguyên giám đốc trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người về Khoa học và Tâm linh. Bài phỏng vấn “Khoa học lí giải Tâm linh như thế nào?”; Khoahoc tv).
***

Thiền sư học giả Daisetz Teitaro Suzuki viết trong Nghiên Cứu Kinh Lăng Già (dịch giả: thầy Thích Chơn Thiện, cư sĩ Trần Tuấn Mẫn):

“(…) Thế thì “Duy tâm” nghĩa là gì? Tôi xin trích dẫn một số câu kệ liên hệ đến chủ đề này:
(…) Những gì hiện ra bên ngoài thì không thực sự hiện hữu, quả thực chính Tâm được nhìn thấy thành phức tính, thân thể, tài sản, nhà cửa… Ta bảo tất cả các thứ này không là gì cả, mà chỉ là Tâm.
(…) Bảo rằng “Duy tâm” là do bởi Tâm, cũng là được sinh ra từ Tâm; khi thông hiểu được các tướng trạng đặc thù trong tất cả các biến đổi có thể có được, thì chúng không gì khác hơn là chính cái Tâm.
(…) Cittamhi traidhàtuka yonih (Tâm sinh ra ba cõi – Tam giới do Tâm sinh). (…)”.
***

“Sự sống, về bản chất là Ý THỨC, là vĩnh hằng và không có đối lập. KHÔNG CÓ CÁI CHẾT, chỉ có những biến dạng của CÁC HÌNH THÁI SỰ SỐNG, biểu hiện ý thức thế này hoặc thế khác.”
(Eckhart Tolle, tác giả The Power Of Now - Quyền năng của hiện tại).
***

(Trích trong bài báo ở: https //dantri com vn/xa-hoi/ve-tam-linh-neu-chua-biet-xin-dung-phu-nhan-1285923006.htm (Đoàn Xuân Mượu - giáo sư tiến sĩ, người đã kinh qua các chức vụ: phó viện trưởng viện Vệ sinh dịch tễ trung ương, viện trưởng viện Pasteur Đà Lạt, viện trưởng viện Văcxin Quốc gia…):

“Trước đây, khoa học chính thống theo mô thức thực chứng duy lý, dựa trên nền tảng vật lý cổ điển của Newton không giải thích được các hiện tượng đặc biệt này. Nó không công nhận thế giới siêu hình và cho rằng nguyên tử là nguyên tố bé nhất.

Đến đầu thế kỷ XX xuất hiện mầm mống thuyết tương đối của Einstein thuyết này nói rằng, ngoài nguyên tử là phần tử nhỏ nhất còn có sóng và hạt. Thuyết lượng tử từ đó cũng lên ngôi.
(…)
Mọi sinh vật được tạo hoá sinh ra không phải một cách tình cờ, mà đều có ý định, có mục đích do “Ý THỨC VŨ TRỤ”. Ý thức có trước, kế hoạch sáng thế có sau, tất cả đều bắt nguồn từ năng lượng. Con người phải do năng lượng sinh ra, bắt đầu từ năng lượng lỏng, năng lượng đặc và thành hình hài con người ngày nay.

(…) Con người gồm 7 PHẦN, gồm thể xác, năng lượng, cảm xúc và 4 cơ thể tâm thần, trong đó chỉ có thể xác là hữu hình, được y học chính thống giảng dạy (đây là NĂNG LƯỢNG ĐẶC), 6 phần còn lại có độ đặc khác nhau. Năng lượng càng loãng càng nghiêng dần về phía linh cảm (năng lượng chưa phải tế vi). Khi sống, phần năng lượng đặc vẫn còn, nhưng khi mất đi thì phần năng lượng đặc mất, CÁC PHẦN NĂNG LƯỢNG KHÁC VẪN TỒN TẠI”.
***

“Ngài Đạt Lai Lạt Ma cho rằng: “Nếu người ta xem xét THƯỢNG ĐẾ không phải trên phương diện thần thánh cá nhân, mà là với tư cách là nền tảng của bản thể, thì các phẩm chất như lòng vị tha có thể được gắn với NỀN TẢNG THIÊNG LIÊNG NÀY CỦA BẢN THỂ. Nếu người ta phải hiểu Thượng Đế theo cách này thì sẽ có thể xác lập được những mối quan hệ gần gũi giữa một số yếu tố của tư duy và sự thực hành Phật giáo”.
(Cái vô hạn trong lòng bàn tay; Mathieu Ricard-nhà sinh học, tu sĩ Phật giáo; đồng tác giả: Trịnh Xuân Thuận-nhà vật lí thiên văn).
***

(Trích trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh (Deepak Chopra - tiến sĩ y học, nhà nghiên cứu tâm linh; được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 anh hùng và biểu tượng của thế kỉ XX; dịch giả: Trần Quang Hưng):

“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó.

(…) Có thể là ý thức không nằm trong bộ não. Đó là một khả năng gây sửng sốt, nhưng phù hợp với truyền thống tâm linh cổ đại nhất thế giới. (…).

Khoa học trong thời đại vật lí lượng tử không phủ nhận sự tồn tại của các thế giới vô hình (siêu hình). Hoàn toàn ngược lại”.
***

“Phải luôn nhớ rằng CÕI SAU SỰ SỐNG không hề “sau” như chúng ta vẫn tưởng. Ba hệ quy chiếu của Ý THỨC (Tâm) là không gian LUÔN HIỆN TẠI”.
(D. Chopra; theo sách đã dẫn).
***

“Mười phương thế giới thu vào MỘT ĐIỂM HIỆN TIỀN; quá khứ, hiện tại, vị lai tụ trong MỘT NIỆM ĐƯƠNG THỜI. Dù ở giữa hàng chư thiên cũng khó có niềm vui nào so được với đây; ở loài người lại càng hiếm lắm. Sự tiến bộ như thế trong đời sống tâm linh có thể thâu đạt được chỉ trong vài bữa, nếu hành giả dốc lòng tu tập”. (Thiền sư Bạch Ẩn) - (Thiền Luận - quyển trung; D.T. Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
***

“Mặc dù các trường phái đạo học phương Đông khác nhau về nhiều chi tiết, nhưng tất cả đều nhấn mạnh đến TÍNH NHẤT THỂ của vũ trụ, đó là điểm trung tâm của mọi giáo pháp.

(...) Sự TỈNH GIÁC này - có khi gọi là giác ngộ - không phải chỉ là một tiến trình hiểu biết, mà là một kinh nghiệm tự nếm trải, kinh nghiệm này chiếm toàn bộ thân tâm hành giả và vì thế có tính chất tôn giáo.

(…)
Truyền thống đạo học thực ra có mặt trong mọi tôn giáo, và các yếu tố huyền bí cũng có mặt trong các trường phái triết học phương Tây”.

(Đạo của vật lí; Fritjof Capra-giáo sư vật lí; Nguyễn Tường Bách dịch).
--

(Mời đọc phần dưới)

Ảnh đại diện

Ánh tâm xuân (Tuệ Thiền): Giới thiệu tác phẩm & thơ-thiền

ĐƯỜNG VỀ MINH TRIẾT (VÀ TOÀN BỘ BỔ SUNG) được Thi Viện giới thiệu và lưu trữ; gồm 117 bài thơ (ở phần chính), một số truyện ngắn, bài viết, bài sưu tầm... (ở phần thảo luận). Một số bài sưu tầm có sự lặp lại, nhưng có xen kẽ những đoạn mới.
Tác giả đã kiểm tra kĩ để chỉnh sửa các lỗi về văn bản. Vì thế một số “thiền ngôn” nghe có vẻ phi lí, có thể được xem là đáng tin cậy về mặt văn bản.
(Có 5 bài thơ viết tặng thiếu nhi được đăng 2 lần).
Một số bài trong phần thảo luận được giới thiệu ở danh mục, dưới bài thơ Thay Lời Cảm Tạ Bậc Minh Sư Vĩ Đại.
Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn
----------------------------

“Bao linh hồn trần tục
Tỉnh thức nhớ trời cao...
(...)
Cõi lòng thêm tiếng hát
Yêu cuộc đời thăng hoa”.
(Ánh tâm xuân; TT LBB)

“NHƯ LÀ HIỀN TRIẾT CHO ĐỜI THÊM HOA” - Tuệ Thiền Lê Bá Bôn sưu tầm hồi hướng Ngày Thơ Thế Giới (WPD, 21/3) & Ngày Hoà Bình Thế Giới (21/9)
--

* Theo MINH TRIẾT tâm linh-cuộc sống, TÂM TÍNH mang năng lượng tương tác, góp phần quan trọng TẠO SỐ MỆNH riêng và chung. Vì thế, Thiền khuyên chúng ta cần tích luỹ TÂM TRÍ HOÀ BÌNH, TỪ-BI-HỈ-XẢ.
------------

1.
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta có thêm ngày nữa để yêu thương”.

(Ngôn sứ; Kahlil Gibran; Nguyễn Nhật Ánh dịch; Thivien net - diễn đàn).
***

2.
“Đạo vốn không nhan sắc
Mà ngày càng gấm hoa
Trong ba ngàn cõi ấy
Đâu chẳng phải là nhà”.

(Tăng thống thị chúng; Thường Chiếu-thiền sư VN; Phạm Đình Nhân dịch; Thivien net).
***

3.
“Cảm ơn từng đoá hoa cuộc sống
Biết yêu thương nên bớt đảo điên
Thiên đường giữa cõi lòng tri túc
Cái “tôi” nhẹ gánh nghiệp ưu phiền”.

(Biết tri túc - biết cảm ơn đời; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn; Thivien net - có các sưu tầm dưới nhiều bài thơ của tác giả, danh mục dưới bài “Thay lời cảm tạ bậc minh sư vĩ đại”).
***

4.
“Nếu em nhớ, đời bôn ba tất bật
Dòng miên man... còn chảy đến vô cùng
Dừng chân lại, quay về trong Lẽ Thật
Đốt hương trầm, Tỉnh Thức sống ung dung”.

(Nếu em nhớ; An Nhiên Thích Tánh Tuệ; Thivien net).
***

5.
“Ta về rũ áo mây trôi
Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say”.

(Động hoa vàng; Phạm Thiên Thư; Thivien net).
***

6.
“Từ khi lộ ánh trăng thiền
Tri ân sâu nặng cơ duyên cuộc đời
Vô ngôn sáng giữa muôn lời
Dấn thân thế sự, chẳng rời Tánh Không”.

(Dấn thân; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn; Thivien net).
***

7.
“Xuân qua, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt, việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi...
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”.

(“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”).

(Cáo tật thị chúng; Mãn Giác-thiền sư VN; Ngô Tất Tố dịch; Thivien net).
***

8.
“Thở vào, cảm nhận hơi vào
Thở ra, cảm nhận hơi ra...
Dần dần biết nghe vọng tưởng
Chân Tâm cực lạc khai hoa”.

(Hơi thở minh triết; bài thực hành; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn; Thivien net).
--
(Lắng nghe = cảm nhận (mà không nghĩ ngợi miên man, không căng thẳng, không tập trung vào ngực hay đầu) = giác = tuệ giác = tri giác thuần tuý = ý thức trực tiếp-vô niệm = thấy biết như thực = tự tri-tỉnh thức).
--
(Chân Tâm = tánh Không = vô ngã = tánh Viên Giác (Phật tánh) = trường tiềm năng = trường ý thức = pháp thân = pháp giới = bổn lai diện mục (mặt thật nghìn đời, chủ thể tuyệt đối) = Chân Thiện Mĩ = không tịch-linh tri = sống với ánh sáng Viên Giác đại thừa: một niệm hiện tiền đang là với cái đang là).
--
(Vọng tưởng là những nhớ tưởng, suy nghĩ không cần thiết, xuất hiện trong lúc tĩnh tâm thiền định. Chúng là ngôn từ trong tâm). (Đọc thêm phát biểu của ngài Krishnamurti trong các sưu tầm ở dưới).
--
(Giác ngộ rồi - sơ ngộ - còn phải tiếp tục trưởng dưỡng; có thể trải qua nhiều kiếp luân hồi mới dứt sạch vô minh ngã chấp).
***

9.
“Mặc đời ô trọc vừa qua
Tấm thân nhỏ nhặt người la mắng người
Buồn phiền vỡ mộng đường dài
Ta xin một góc ta ngồi với ta”.

(Những bài thơ không tựa; Trịnh Công Sơn; Thivien net).
***

10.
“Tịch liêu
cũng là niềm vui thú
chiều thu”.

(Tịch liêu; Yosa Buson; Đông A dịch; Thivien net).
--
(Ngài J. Krishnamurti nói rằng: “Nhân đức là việc đối mặt với hiện thể, và đối diện với sự kiện là một trạng thái hạnh phúc tuyệt trần”. Tự do đầu tiên và cuối cùng; Phạm Công Thiện dịch).
***

11.
“Chút thiền nhé mười phương bạn lữ
Tâm rỗng rang đầu sẽ tỉnh hơn
Tình sẽ chảy xanh dòng nhân thế
Ước nguyện trần gian bớt chuyện buồn”.

(Sống với ánh sáng Viên Giác mang năng lượng đại thừa: Tâm-Rỗng-Không đang là với cái đang là).

(Bên cội mai trổ sớm; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn; Thivien net).
***

12.
“Đời đời, đạo đạo, trước và sau
Đạo gắn với đời, sống có nhau
Sống đời vui đạo theo duyên phận
Nhân Quả và Duyên nối tiếp nhau”.

(Cư trần lạc đạo; Phạm Đình Nhân; Thivien net).
***

13.
“Dằng dặc trầm luân từ mấy độ
Thuyền ta trôi hề, Ý ta bay
Sông in bóng nguyệt, Không mà Có
Hay Có mà Không nhỉ gã say?”

(Bài ca siêu thoát; Vũ Hoàng Chương; Thivien net).
***

14.
“Tạm quên cỏ nội mây ngàn
Trở về cố quận trà đàm cố nhân
Cố nhân: diện mục Pháp thân
Cố hương: Pháp giới thanh xuân yên bình...
Về đây tỏ ngộ chính mình
Thêm duyên cứu khổ chúng sinh muôn trùng”.

(Chùm thơ vô đề; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn; Thivien net). (Viết theo chánh tư duy, hỗ trợ khởi phát Bồ đề tâm).
--
(Diện mục Pháp thân: thật tướng - bản thể - bất sinh bất diệt của sinh mệnh; Pháp giới: quê hương chung của tất cả sinh mệnh).
***

15.
“Ngồi lặng công đường lưng tựa ghế
Suối lòng không động, như nước trong
Nghe sấm nổ cửa lòng chợt mở
Này, lão vẫn ngồi ở quê cũ”.

(Triệu Biện, nhân một hôm việc quan rỗi rảnh, ngồi nghỉ ngơi tại công đường, bỗng nghe một tiếng sấm nổ mà hoát nhiên đại ngộ; ông đã ghi lại bài thơ trên.
Trích theo Thiền luận-quyển trung; Daisetz Teitaro Suzuki-thiền sư học giả; Tuệ Sỹ dịch).
--
"(...) Tâm không sao bước vào một chiều không gian hoàn toàn mới khác nếu còn có bóng đen của kỉ niệm (mang tính tâm lí). Bởi “cái kia” vốn phi thời gian. Cái chiều không gian kia vốn vĩnh hằng, và tâm trí muốn thâm nhập vào đó phải không có yếu tố thời gian (tâm lí). Tôi nghĩ điều này hợp lẽ và hợp logic.”

(Lửa giác ngộ; J. Krishnamurti; Đào Hữu Nghĩa dịch).
***

16.
“Chung trà đạo cho lòng trần bớt tục
Để sáng mai: năm mới trọn tâm hồn
Tận nhân lực và biết tri thiên mệnh
Trân trọng mình - cảm tạ cả càn khôn.

(Thiên mệnh: đại luật vận hành của vũ trụ).

(Trà đạo cuối năm; Tuệ Thiền-Lê Bá Bôn; Thivien net).
***

(Mời đọc tiếp phần ở dưới)

Ảnh đại diện

Gửi bạn (Tuệ Thiền): "Tâm Vô Ngã: nguồn yêu thương"...

SƯU TẦM 1.-

(Trích một đoạn trong Trở Về Từ Cõi Sáng – Nguyên Phong tuyển dịch; nxb Đồng Nai, 2013; ghi lại lời của một linh hồn đã từ trần – trong cuộc tiếp xúc đặc biệt với một nhóm bác sĩ và gia đình;
https //thuvienhoasen org/p104a26528/tro-ve-tu-coi-sang).
---
(Những chỗ chữ in hoa và vài chỗ trong ngoặc đơn là do người đọc nhấn mạnh, làm cho rõ nghĩa).
------

“- Cháu có thể đọc được tư tưởng của bác. Ở CÕI BÊN NẦY người ta có thể đọc rõ tư tưởng của những người bên cõi trần một cách dễ dàng. Nầy bác Franz, điều bác nghĩ không đúng đâu! Cõi giới bên nầy RẤT GẦN với cõi trần, và chỉ trong chớp mắt là người ta có thể qua đến bên nầy. Để cháu lấy một thí dụ cho dễ hiểu: Khi bác mặc áo choàng (tức còn thể xác) là lúc bác ở cõi trần, và khi cởi bỏ áo choàng ra (tức bỏ thể xác) là bác đã qua cõi bên kia rồi. Con người của bác khi khoác chiếc áo choàng và khi cởi bỏ nó nào có khác gì đâu, vẫn y nguyên như trước đấy chứ. Bác không hề thay đổi gì, cũng như đi làm bác mặc áo choàng rồi về nhà cởi bỏ áo ra, bác đâu thình lình bay bổng lên một hành tinh nào đâu, bác vẫn đứng nguyên ở chỗ cũ đấy chứ.

Nói một cách khác, khi từ trần người vẫn ở nguyên chỗ cũ, chỉ có khác là các giác quan thuộc về xác thân đã hư hại không còn sử dụng được nữa, nhưng CÁC GIÁC QUAN MỚI lại bắt đầu làm việc. Sau một giây phút thay đổi như người đang đi ở chỗ tối bước ra chỗ sáng, bị loá mắt một lúc rồi mới có thể nhìn được mọi vật một cách rõ ràng, thì cũng như thế, nhờ các giác quan mới hoạt động mà người ta có thể ý thức được cõi giới bên nầy một cách rõ rệt hơn.

Điều đáng nói ở đây là sự QUYẾN LUYẾN VỚI CÕI VẬT CHẤT, giống như người từ chỗ tối bước ra chỗ sáng lại CỨ NHẮM MẮT, không muốn nhìn gì nữa. Tuy họ không còn ở chỗ tối nữa, nhưng họ cũng chưa thể thấy gì ở cõi sáng vì nhắm mắt chặt. Đó là cái áp lực vật chất, cái cảm giác u mê, đau khổ đè nặng lên tâm thức con người khiến cho họ trở nên tê liệt không sáng suốt, không ý thức và cũng không hiểu biết gì. Ôi, cái tâm trạng sống không ra sống mà chết cũng không ra chết, CỨ VẤT VƯỞNG trong trạng thái lúc từ trần, ở giữa hai cõi giới nầy thật vô cùng ghê gớm, không thể tưởng tượng được.

Cậu Jo im lặng một lúc rồi nói tiếp:

- Con muốn nói để cha mẹ và mọi người hiểu thêm về thế giới bên nầy. Có rất nhiều vong linh sau khi từ trần vẫn KHÔNG CHỊU RỜI BỎ những ràng buộc vật chất. Số nầy rất đông, họ sống vất vưởng, lang thang, đói khổ, không nơi nương tựa, không biết phải làm gì và cũng KHÔNG CHỊU NGHE AI. Phần con thì rất thoải mái, muốn làm gì cũng được. Con có thể bay lên bay xuống nhẹ nhàng, nhưng con thích ở bên cõi sáng nầy hơn, vì mỗi lần đi trở lại cái đường hầm âm u tăm tối kia con thấy buồn lắm. Buồn vì thấy còn có những người cứ u mê, than khóc, buồn vì cứ nghe những câu trách móc, than van, những lời nguyền rủa, những sự oán hận, đau đớn không thể kể xiết. Mấy tháng trước con cũng như thế, nhưng nhờ cha mẹ và mọi người CẦU NGUYỆN mà con tỉnh thức, thoát khỏi cái tình trạng kinh khủng kia. Bây giờ con đã hiểu rồi nên CỐ GẮNG GIÚP ĐỠ những người còn đang u mê để họ có thể tỉnh thức... Con làm việc ngày đêm không biết mệt và cũng không cần phải ăn uống nữa...

Bà Kunz giật mình kêu lớn:

- Sao, con không ăn uống gì ư?

Cậu Jo cười lớn:

- Ở bên nầy ĐÂU CÓ AI CẦN PHẢI ĂN UỐNG! Người ta SỐNG BẰNG TÂM THỨC chứ đâu bằng thân xác vật chất nữa.

Nầy mẹ, mẹ hay làm nhiều đồ ăn quá, mẹ nên hạn chế bớt việc nấu nướng đi. Hiện nay sức khoẻ của cha mẹ không còn như xưa, mẹ không nên quá cực nhọc trong việc nấu nướng, ăn uống. Phần con thì không nghĩ gì đến việc ăn uống, thế mà sức khoẻ của con lại hơn xưa, vì Ở BÊN NẦY THỨC ĂN CẦN THIẾT là (năng lượng) TÌNH THƯƠNG chứ không phải thứ gì khác. Cha mẹ ơi, lạ lùng lắm! Con nghiệm được rằng TÌNH THƯƠNG là sự cho ra chứ không phải nhận vào. Càng cho ra bao nhiêu con càng cảm thấy thoải mái, sung sướng, mạnh khoẻ bấy nhiêu. Đó cũng là ĐẶC ĐIỂM CỦA CÕI SÁNG bên nầy: Càng yêu thương bao nhiêu, người ta càng nhẹ nhõm, sung sướng, thoải mái, bình an bấy nhiêu.

Hiện nay con đang cố gắng giúp đỡ những VONG LINH vừa từ trần đang đau khổ. Con tự nhủ: Thế nào họ cũng trải qua tâm trạng đau khổ, oằn oại, thao thức như con đã trải qua, và họ sẽ sống trong đau khổ như thế cho đến lúc tỉnh thức. So sánh với hoàn cảnh của con thì nhiều người còn khổ hơn nhiều, có người đã đau khổ như vậy ĐÃ MẤY TRĂM NĂM RỒI, không thể nào cảnh tỉnh họ được. Con có cảm giác rằng tâm thức họ bị đè nặng bởi những áp lực rất lớn, những áp lực kinh khủng mà sức con không thể giúp họ được. Chắc hẳn họ đã phạm những lỗi lầm ghê gớm lắm. Theo chỗ con biết, họ là những người khi sống không hề biết yêu thương, không hề biết xúc động, trái tim của họ đã khô kiệt, chỉ còn những sự thù hận, oán hờn, ích kỷ nên họ phải ở trong những nỗi ĐAU KHỔ cùng cực, CHO ĐẾN KHI NÀO những động năng THÙ OÁN đó tiêu tan bớt đi.

Phần con rất may mắn là chỉ đau khổ trong vòng mấy tháng thôi, vì mê muội không chịu chấp nhận sự thật rằng mình đã chết, cứ u mê thiết tha với những vọng tưởng về vật chất mà không biết đời sống Ở ĐÂU CŨNG CÓ cái hay, cái đẹp của nó. Nếu biết như vậy con đâu để mình bị ngộp nước lâu đến thế. Những điều con nói đây là sự thật mà con đã nghiệm được, cha mẹ nên trình bày cho mọi người biết để họ tránh cái hoàn cảnh đau khổ mà con đã trải qua.

(…..)

Bác sĩ Franz lên tiếng:

- Nầy Jo, cháu có thể cho bác biết thêm về cõi giới bên đó không?

- Được chứ. Cõi bên nầy không phải là nơi mà người đi qua sẽ không bao giờ trở lại, hoặc là nơi tối tăm, ghê rợn, hễ ai rơi vào đó là mất hút, mà trái lại, đó là MỘT CÕI SÁNG RẤT LINH HOẠT. Có lẽ nó còn linh hoạt hơn cả những đô thị sống động nhất của cõi trần, nhưng sự linh hoạt ở đây không phải là sự ồn ào, náo nhiệt mà là một sự linh hoạt rất nhẹ nhàng, bình an, thoải mái để người ta có thể cảm nhận được một tình yêu thương tuyệt đối, một ân phước dồi dào không bút mực nào có thể tả xiết. Trong sự bình an nầy, người ta bắt đầu hồi tưởng nhiều việc đã xảy ra để rút tỉa kinh nghiệm và học hỏi, ĐỂ CHUẨN BỊ CHO MỘT ĐỜI SỐNG MAI SAU.

- Cháu nói sao? Còn có một đời sống nữa hay sao?

- Đúng thế. Còn CÓ NHIỀU CÕI GIỚI NỮA, chứ không phải chỉ có một cõi bên nầy mà thôi. Hiện nay việc học hỏi của cháu còn giới hạn nên cháu không biết rõ những cảnh giới khác ra sao, nhưng cháu được biết sẽ có lúc cháu SẼ TRỞ LẠI CÕI TRẦN, dĩ nhiên dưới một hình thức nào đó. Theo sự biết của cháu thì việc học hỏi ở bên nầy có tính cách lý thuyết, còn phải mang ra thực hành, và nhờ kinh nghiệm thực hành mà người ta mới thực sự học hỏi. Vì người ta chỉ có thể KINH NGHIỆM THỰC HÀNH được qua đời sống ở cõi trần mà thôi, nên trước sau gì các vong linh cũng đều tái sinh trở lại.

Cậu Jo quay qua cha mẹ:

- Thưa cha mẹ, con đã nói tất những gì con biết về cõi giới bên nầy. Con xin cha mẹ cứ yên chí, đừng quá lo lắng gì nhiều cho con và cũng đừng gọi con trở lại nữa... Sự liên lạc nầy không cần thiết, GÂY QUYẾN LUYẾN và làm trở ngại việc học hỏi của con. Công việc của con hiện nay rất bận rộn. Con xin cảm ơn cha mẹ và mọi người đã CẦU NGUYỆN cho con, chính nhờ việc nầy mà thần trí con sáng suốt và được thức tỉnh. Việc cầu nguyện chân thành cho người chết có thể giúp đỡ cho họ rất nhiều, đây là một điều hết sức QUAN TRỌNG mà mọi người cần nên biết.

Khi từ giã cõi trần, người ta không thể mang theo tiền tài, sự nghiệp, danh vọng mà CHỈ CÓ THỂ mang được lòng YÊU THƯƠNG và sự HIỂU BIẾT mà thôi. Chính lòng yêu thương là mãnh lực duy nhất có thể vượt qua không gian, thời gian và tồn tại với người đó mãi mãi, nó cũng là yếu tố quan trọng nhất giúp người ta tiến hoá, phát triển ở cõi giới bên nầy. Người ta có thể chuẩn bị cho cuộc hành trình nầy với hành trang quý báu và độc nhất là sự yêu thương mà thôi.

Những điều con nói ra hôm nay cần được trình bày CHO MỌI NGƯỜI BIẾT RÕ, đó cũng là lý do ông Piquet viết thư riêng cho cha để báo trước. Dĩ nhiên tin hay không là vấn đề riêng của mỗi người, điều nầy không quan trọng; nhưng SỰ HIỂU BIẾT về cõi sáng, về các áp lực vật chất, sẽ là một HẠT GIỐNG TỐT gieo vào tâm thức người đó, và rồi trong giờ phút khổ sở lúc lìa đời, người ta SẼ NHỚ LẠI. Con xin kính chào tất cả, chúc cha mẹ và mọi người luôn luôn được bình an, hạnh phúc”.
------------------

SƯU TẦM 2.-

Đọc trong Người Nam Châm – Bí Mật Của Luật Hấp Dẫn (Jack Canfiel & D. D. Watkins; người dịch: Thu Huyền & Thanh Minh; tái bản lần 6; nxb Lao Động-Xã Hội, 2015):
-----

“Người nào gửi đi những SUY NGHĨ TÍCH CỰC (thiện lành) SẼ KÍCH HOẠT THẾ GIỚI QUANH ANH TA trở nên tích cực, và anh ta cũng sẽ nhận lại những kết quả tích cực”. (Tiến sĩ Norman Vincent Peale).

(…) BẠN LÀ NĂNG LƯỢNG.
(…) Những hạt nhỏ hơn nguyên tử đó là gì? Xin thưa, là NĂNG LƯỢNG.
Vạn vật đều là năng lượng.
Năng lượng không được tạo ra, cũng không thể phá huỷ.
Tự nó đã mang tính nhân quả.
Nó hiện diện như nhau ở mọi lúc, mọi nơi.
Năng lượng chuyển động vĩnh hằng và không bao giờ ngừng nghỉ.
Nó chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, luôn luôn như vậy.
SUY NGHĨ “SINH RA” NĂNG LƯỢNG.

(…) BẠN LÀ MỘT THỎI NAM CHÂM
Bạn là một thỏi nam châm sống. Bạn hút – theo đúng nghĩa đen của từ này – người, vật, ý tưởng và các tình huống có tần số năng lượng rung động và cộng hưởng như của bạn về phía mình. Trường năng lượng của bạn thường xuyên thay đổi, nó phụ thuộc vào suy nghĩ và cảm xúc của bạn, và vũ trụ giống như một chiếc gương phản chiếu chính xác nguồn năng lượng bạn đã “tạo ra”. Suy nghĩ và cảm xúc của bạn mãnh liệt bao nhiêu thì lực hút sẽ mạnh bấy nhiêu. Quá trình này không đòi hỏi bất kì một sự nỗ lực thật sự nào, nam châm không phải “cố” hút vật – mà đơn giản, nó có đặc tính hút vật. Và bạn cũng vậy! Bạn vẫn luôn trong quá trình hút thứ gì đó vào cuộc sống của mình. (…).

"(…) Cuộc sống là một trò chơi boomerang (vật được ném, lại quay về chỗ người ném). Suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta không sớm thì muộn cũng sẽ trở lại với chúng ta, chính xác đến độ đáng ngạc nhiên”. (Hoạ sĩ Florence Shinn).

(…). Vì Luật Hấp Dẫn tương tác với những năng lượng rung cảm của suy nghĩ và tình cảm của bạn, nên bạn cần tập trung sự chú ý của mình vào những thứ có thể đưa bạn tới trạng thái của rung cảm tích cực (thiện ích). Nhiều chuyên gia về Luật Hấp Dẫn đã nói rằng, không gì quan trọng hơn việc cảm thấy THOẢI MÁI.

(…) Ý CHÍ của chúng ta tự do, chúng ta có toàn quyền quyết định mình muốn tập trung NĂNG LƯỢNG và sự CHÚ TÂM của mình vào đâu. Vũ trụ chỉ đơn giản phản chiếu (gửi ngược) điều đó lại cho chúng ta. Nếu chúng ta tập trung chú ý (chú tâm) vào điều gì đó (tiêu cực-xấu ác hoặc tích cực-thiện lành), thì vũ trụ sẽ gửi lại cho chúng ta chính điều đó, nhưng nhiều hơn.
-----------------

* (Mời đọc các bài sưu tầm dưới bài thơ Tôi Nghe, Gặp Lại Vầng Trăng…, tác giả TT LBB).
-------------------------------

Ảnh đại diện

Truyền trao đuốc tuệ (Tuệ Thiền): Tham khảo

(Bài viết ngắn "Mầu nhiệm của Tâm Định Tuệ", dưới bài thơ "Trì danh Quán Thế Âm bồ tát" (cùng tác giả), góp phần quan trọng làm sáng ý nghĩa của bài GYVMTTL&CS - và phần sưu tầm dưới bài thơ "Gặp lại vầng trăng").
---

GỢI Ý VỀ MINH TRIẾT TÂM LINH & CUỘC SỐNG
(Phần nội dung chính; Tuệ Thiền Lê Bá Bôn)
--

(Xin giới thiệu ở đây các gợi ý chính. Để đọc toàn bài, xin mời đọc ở dưới bài thơ Tâm Đối Xứng - cùng tác giả).

1. Vũ trụ là biểu hiện của tâm (tinh thần); tìm hiểu về minh triết tâm linh là việc làm vô cùng cần thiết để nâng cao chất-lượng-thực của cuộc sống.

2. Nên hiểu về Thượng Đế theo quan niệm: Thượng Đế là chân lí tuyệt đối, là bản thể vũ trụ, là Viên Giác.

3. Mỗi một chúng ta là một sinh mệnh tâm linh; tâm linh vừa mang tính chất cá thể, vừa mang tính chất tổng thể.

4. Tất cả chúng ta đều lưu lạc từ một quê hương tâm linh chung, và quên mất đường về từ nhiều kiếp sống; càng xa quê hương tâm linh thì càng vô minh, bất thiện, gặp nhiều đau khổ phiền não, trói buộc trong nghiệp chướng.

5. Cái chết của thân xác không làm chấm dứt dòng sinh mệnh tâm linh; sinh mệnh tâm linh vô minh vẫn tiếp tục trong vòng sinh hoá luân hồi theo nhân quả (nghiệp báo).

6. Sau cái chết của thân xác, nếu linh hồn còn luẩn quẩn ở nơi thờ cúng và chốn mồ mả thì đó là những kiếp sống của linh hồn ngạ quỷ (quỷ đói).

7. Sự sống của chúng sinh là một diễn trình gieo nhân-gặt quả của hành vi thân khẩu ý (diễn trình của nghiệp), trong đó tính chất tâm ý là trọng tâm.

8. Con người cần biết học tập (có thể tự học) ở các tôn giáo thánh thiện và các minh triết tâm linh để tu chỉnh tâm ý; cần biết hướng về quê hương tâm linh (có thể có nhiều tên gọi khác nhau) để giảm bớt nghiệp chướng phiền não, tăng trưởng trí tuệ tâm linh (trí tuệ siêu việt).

9. Giác ngộ là soi sáng cái “tôi” và chuyển hoá thành trạng thái vô ngã, nhất thể; giác ngộ là từng bước trở về với sự sống vĩnh hằng bất sinh bất diệt; tuỳ cường độ giác ngộ mà có các phẩm chất tâm linh mang năng lượng tự lợi-lợi tha khác nhau.

10. Để góp phần cải thiện sức khoẻ, hạnh phúc và nâng cao mọi chất lượng tâm linh-cuộc sống, để góp phần vào sự chứng ngộ Chân Tâm vô ngã, xin giới thiệu bài Hơi Thở Minh Triết (của tác giả).

11. Thiền định, tự tri, hơi-thở-thiền, mọi sự tu tập thăng hoa trí tuệ tâm linh, sự cầu nguyện chân chính, đó là những hành động tích cực của tâm linh, mang năng lượng cải thiện sức khoẻ tổng quát, thiện ích cho mình và tha nhân.

12. Thiền là “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, là siêu vượt khái niệm-tướng trạng, là tự do tinh thần, là sống với ý-thức-mở; ý thức mở là tâm giải thoát, là vô sư trí, là điều kiện để cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp cuộc sống, để Chân-Thiện-Mĩ hiện tiền trong cuộc sống của ta.

13. Tu tập thăng hoa trí tuệ tâm linh mang năng lượng tích cực; thiện ích cho tất cả chúng sinh, cho toàn vũ trụ, cho sự nghiệp giác ngộ chung.

14. Tự tri là soi sáng, là thấy biết cái “tôi”; thiền định tự tri là hành động tích cực để giải thoát khỏi trạng thái bị khuôn đúc của trí não, để giải thoát khỏi tình trạng kiến chấp vô minh.

15. Sự chứng ngộ xuất sinh từ khát vọng giác ngộ vì tự lợi-lợi tha tối thượng; chứng ngộ là sự đột chuyển (chuyển y) ở tâm thức: ánh sáng tâm phi thời gian (tâm thấy biết vô niệm vô ngôn) hiện tiền và soi sáng mọi tạo tác, mọi sáng tạo.

16. Nguyện hạnh Đại thừa xuất sinh năng lực gia trì cho tha nhân; năng lực gia trì mang công năng ý giáo nhiệm mầu.

17. Hiện thực giác ngộ mang phẩm tính “tam thân nhất thể” (pháp thân-báo thân-hoá thân); vì thế chứng ngộ Tánh Không không phải là ở trong trạng thái của sự trống rỗng vô dụng, mà chính là Tâm Không-diệu dụng (Chân Không-diệu hữu).

18. Giác ngộ (ở kiếp này hoặc vào các kiếp sau) là trở về với quê hương tâm linh (tức là trở về với tự tánh nhiệm mầu, ngộ nhập pháp giới); gặp lại vô số bạn lữ giác ngộ; tiếp tục con đường sự nghiệp tối thượng tự lợi-lợi tha.

19. Khi không ý thức cái “tôi”, khi vô minh và ảo tưởng ngã chấp còn làm chủ hoàn toàn tâm trí, thì không thể có nhãn quan minh triết và đạo đức nhân văn đích thực.

20. Không có người nào không chất chứa phiền não, không có người nào không có tâm xấu ác, vì thế rất cần có Ngày Quốc Tế “Tự Tri-Tỉnh Thức-Vô Ngã” để định hướng cho văn hoá-giáo dục, để đánh thức tâm trí con người, để xây dựng mẫu số chung cho ý nghĩa cuộc sống.
--------------

(Mời tham khảo thêm các sưu tầm dưới bài thơ Gặp Lại Vầng Trăng và dưới nhiều bài thơ khác của tác giả, để rõ vấn đề hơn).
----------------------------------------

NÓI VỀ HOẠT ĐỘNG TRÍ NÃO

* Cần phải thừa nhận rằng trong các khoa học tự nhiên cũng có một phần lớn mang tính chủ quan. Với vai trò là sinh vật biết tư duy, nhà khoa học không thể quan sát Tự nhiên một cách hoàn toàn khách quan. Einstein từng nói: “Các khái niệm vật lí là những sáng tạo tự do của trí tuệ con người, ngay cả khi chúng có vẻ như được quyết định chỉ bởi thế giới bên ngoài. Những cố gắng của chúng ta nhằm nắm bắt hiện thực cũng tựa như những nỗ lực của người tìm cách hiểu cơ chế hoạt động của một chiếc đồng hồ kín mít. Anh ta chỉ nhìn thấy mặt đồng hồ và các kim chuyển động, thậm chí còn nghe cả tiếng tích tắc, nhưng anh ta không có cách nào để tháo vỏ đồng hồ ra. Nếu đủ thông minh, anh ta sẽ tạo ra hình ảnh của một cơ cấu đã gây ra tất cả những gì anh ta quan sát được, nhưng anh ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng hình ảnh mà anh ta tạo ra là duy nhất có thể giải thích được những quan sát của mình. Anh ta sẽ không bao giờ có thể so sánh được mô hình của mình với cấu trúc thực, và thậm chí cũng không thể hình dung ra được liệu sự so sánh này có một ý nghĩa nào không”.

(Trịnh Xuân Thuận-nhà vật lí thiên văn.Cái vô hạn trong lòng bàn tay; (đồng tác giả: Mathieu Ricard); Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ dịch).
---

* Thực ra, ngành sinh học thần kinh đã chứng tỏ được rằng “hiện thực” chỉ xuất hiện đồng nhất đối với các sinh vật cùng loài có cùng một hệ thần kinh. Các loài khác nhau thì cảm nhận thế giới theo các cách khác nhau. Chẳng hạn, nhiều nghiên cứu đối với loài cá, chim và côn trùng đã chứng tỏ rằng màu sắc và hình dạng của các vật được các loài vật này cảm nhận theo những cách hoàn toàn khác với con người. Hiện thực chắc chắn bị thay đổi tuỳ theo hệ thống thần kinh cảm nhận nó.

(Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).
---

* Nếu người ta phân tích một trong những cách tri giác nào đó, như cách tri giác của con người chẳng hạn, thì người ta sẽ nghiệm thấy đơn giản rằng, trong một số điều kiện, người ta quan sát và đo lường một số hiện tượng theo cách có thể tái tạo được. Nhưng làm như vậy, hiện thực của “vật” không vượt qua thân phận ban đầu của nó, tức là cái “nhãn mác tinh thần”. Quá trình thực nghiệm này chưa bao giờ chứng tỏ rằng cái mà người ta quan sát là tồn tại tự thân và có các đặc tính nội tại. Chúng ta có thể nhìn thấy một nghìn lần hai Mặt trăng bằng cách áp một nghìn lần hai ngón tay vào nhãn cầu của chúng ta, và chắc chắn là việc nhìn thấy hai Mặt trăng này không hề có nghĩa là có hai Mặt trăng thật!

(Mathieu Ricard-nhà sinh học; sách đã dẫn).
---

* Định lí về tính không đầy đủ của Godel thực tế ngụ ý rằng có tồn tại những giới hạn đối với sự suy luận logic, chí ít là trong toán học. Định lí này thường được coi là một phát minh logic quan trọng nhất của thế kỉ XX. (…) Năm 1931, ông đưa ra một định lí có lẽ là tuyệt vời và bí hiểm nhất trong số các định lí toán học. Ông đã chứng tỏ được rằng một hệ thống số học nhất quán và phi mâu thuẫn chắc chắn sẽ chứa các mệnh đề “không giải quyết được”, tức là các phát biểu toán học mà người ta không thể bằng logic nói được chúng là đúng hay sai. Mặt khác, không thể chứng minh được rằng một hệ thống là nhất quán và phi mâu thuẫn chỉ dựa trên cơ sở của các tiền đề (các mệnh đề đầu tiên được chấp nhận không cần chứng minh) có trong hệ thống này. Ngược lại, cần phải “đi ra ngoài hệ thống” và đưa ra các tiền đề phụ bên ngoài hệ thống. Theo nghĩa này, hệ thống tự bản thân nó chỉ có thể là không đầy đủ. Chính vì thế, định lí của Godel cũng thường được gọi là “định lí về tính không đầy đủ”.

Định lí này quả thật chẳng khác gì cú sét trong thế giới toán học. Godel đã chứng minh rằng logic có những giới hạn và rằng giấc mơ của Hilbert (biết chứng minh một cách chặt chẽ sự nhất quán của toàn bộ toán học) là một ảo tưởng. Nó cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực khác của tư duy như triết học hay tin học.

(Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).
---

* Từ khi khoa học hiện đại ra đời vào thế kỉ XVI, vốn tri thức của chúng ta đã tăng lên theo hàm mũ, nhưng nó không làm cho chúng ta tỏ nên minh triết hơn. Tình hình càng trở nên cấp bách khi con người hiện nay đang có khả năng sẽ làm đảo lộn sự cân bằng sinh thái của toàn bộ hành tinh, thậm chí còn có thể tự huỷ diệt mình, khi các vấn đề đạo đức ngày càng trở nên gay gắt, và khoảng cách giàu nghèo vẫn không ngừng nới rộng thêm…

(Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).
---

* Nghiệp có thể chuyển thành chiếc chìa khoá để tìm hiểu chính bộ não. Các nhà thần kinh học lúng túng trước cái họ gọi là “hiệu ứng liên kết”, một lực lượng huyền bí kết nối các vùng khác nhau trong não lại.

(…) Chúng ta đều mang trong tâm trí mình một cơ sở dữ liệu thông tin rộng lớn mà chúng ta coi là nền tảng. Cơ sở dữ liệu này nắm giữ mọi thứ quan trọng mà chúng ta tin tưởng về thế giới. Đó là thế giới quan của chúng ta. Chúng ta phụ thuộc vào nó để sống sót thậm chí một thời gian ngắn. Các niềm tin phát triển qua nhiều thế kỉ, và do vậy một số nhà nghiên cứu coi niềm tin như bản thể dạng “gene ảo” trở thành các đặc tính cố định của bộ não.

(…) Thế giới quan cung cấp lối mòn cho hành vi, không may là nhiều khi nguy hiểm. Các đặc tính như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự hiếu chiến tồn tại như các phản xạ tự nhiên. (…). Đây chính là cái Bhagavad-Gita ngụ ý với tên gọi là hiệu ứng trói buộc của nghiệp. (…).


(Deepak Chopra - tiến sĩ y học, giảng dạy ở Đại học Boston. Sự sống sau cái chết: gánh nặng chứng minh; Trần Quang Hưng dịch).
---

(Mời đọc tiếp ở phần dưới)

Trang trong tổng số 14 trang (131 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: