Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Há Giang Lăng (Lý Bạch): Bản dịch của Moonlight15

rõ ràng Hán tự là: hạ Giang Lăng, tảo phát Bạch Đế Thành, mà sao cứ dịch thành há Giang Lăng,

Ảnh đại diện

Phong Kiều dạ bạc (Trương Kế): Bổ sung chú giải nghĩa Phong Kiều dạ bạc – Trương Kế

楓橋夜泊-張繼
月落烏啼霜滿天,江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,夜半鐘聲到客船
Phong Kiều dạ bạc – Trương Kế
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang Phong Ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn sơn Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Chú giải nghĩa:
1. Phong Kiều (楓橋): tên địa danh, vùng đất bên ngoài cửa Xương Môn thành Tô Châu (Thành Cô tô), nay là thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô Trung Quốc, gần chùa Hàn sơn.
2. Dạ bạc (夜泊): dạ là đêm, bạc có nghĩa là bến nước, bến sông, chữ bạc trong chữ Lương Sơn bạc。
3. Phong Kiều dạ bạc: đêm cập thuyền ở bến Phong Kiều.
4. Nguyệt lạc (月落): mặt trăng xuống hướng tây, đã quá nửa đêm。
5. Ô đề (烏啼): ô: tên thường gọi là Lô Tư Ô, có nghĩa là con chim cốc, loại chim được thuyền chài đánh cá trên sông nuôi để bắt cá. Người Việt khi dịch thơ vẫn hay nhầm dịch thành con quạ, con quạ tiếng Hán là ô nha. Đề: tiếng kêu. Ô đề: tiếng chim cốc kêu.
6. Sương mãn thiên(霜滿天) sương mù trời, khói sương mịt mùng mặt nước.
7. Giang Phong (江楓): cây phong mọc bên bờ sông.
8. Ngư hoả (漁火): ngọn đèn lửa hoặc ngọn lửa trời của thuyền đánh bắt cá, người Trung Quốc ban đêm bắt cá trên sông dùng ánh sáng đèn hoặc ngọn lửa trời để thu hút cá. Sau đó thả chim cốc xuống sông bắt cá.
9. Đối sầu miên (對愁眠): cùng sầu thiếp ngủ. Sự hoài cảm của khách trên thuyền.
10. Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự (姑蘇城外寒山寺): chùa Hàn Sơn bên ngoài thành Cô Tô.
11. Dạ bán chung thanh(夜半鐘聲): đương thời chùa viện có thói quen đánh chuông vào ban đêm gọi là “chuông vô thường”.
12. khách thuyền (客船): thuyền chở tác giả, do tác giả ngồi thuyền phiêu bạt trên đất khách cho nên tự gọi là khách thuyền.

Dịch Nghĩa:
Trăng tà, tiếng cốc kêu, sương giăng đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài cùng khách trên thuyền đang ngủ buồn.
Chùa Hàn Sơn bên ngoài thành Cô Tô.
vẳng tiếng chuông chùa đến khách thuyền lúc nửa đêm.

Dịch thơ (mượn ý thơ cụ Tản Đà)
Trăng tà, tiếng cốc kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm vẳng tiếng chuông chùa Hàn San.

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: