Trang trong tổng số 7 trang (66 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7]

Ảnh đại diện

Satthat

(Tiếp theo và hết)

Một số tình hình diễn biến xã hội Trung quốc từ sau cải cách mở cửa đến nay (III)



Hiện nay, thu nhập xám đã thấm thấu vào các ngành nghề xã hội, chút gặp gỡ, phí vui vẻ, quà cảm tạ, phí lao vụ, phí giảng bài, nhuận cảo, mừng lễ hiếu hỷ, v.v… danh mục rất nhiều. Giáo sư Thường Tu Trạch nói, thu nhập xám chủ yếu có 3 tình huống: một là, “đúng là xám”, tức là thu nhập không phạm pháp nhưng vi phạm qui chế; hai là thu nhập tên là “xám” nhưng thực là “đen” như hối khấu thương nghiệp, nhận lễ ngày tết, kho quĩ nhỏ chia riêng, lễ phẩm ngày kỷ niệm, mừng công, khánh thành, khởi công … thuộc biến tướng của hối lộ; ba là thu nhập “xám nhạt”, vốn nên qui vào thu nhập trắng, nhưng trong chế độ không qui định rõ ràng, tuy thuộc kênh thu nhập chính đáng, nhưng thiếu thuế vụ giám sát quản lý.

“Thu nhập màu huyết” là chỉ thu nhập vượt quá giới hạn văn minh loài người, lấy hy sinh tính mạng người khác và dùng máu tươi ép người mà có, như các vụ “Lò gạch đen, Hầm mỏ than đen, …” đã xẩy ra, cần nghiêm trị

“Thu nhập màu kim” là chỉ thu nhập từ các nguôn tư bản, vàng, cổ phiếu, hang hóa tương lai, … mà có. Là nguồn thu nhập rất quan trọng với đà kinh tế ngày càng phát triển, là thu nhập lấy thu lợi từ tư bản làm hình thức biểu hiện chủ yếu, cũng có thể hiểu là thu nhập có tính tài sản. Gần đây, có không ít người từ thị trường cổ phiếu, chứng khoán thu được tăng giá trị tài sản gấp bội. Một số chuyên gia cho rằng “thu nhập màu kim” nên khuyến khích, nhưng cũng cần làm tốt việc quản lý dẫn dắt đi đúng quĩ đạo lý tính, giảm tính đầu cơ. Đồng thời cần chú ý thông qua các chính sách lồng ghép thuế thu, … để điều chình “thu nhập màu kim”, ngăn ngừa chệch hướng, dễ tăng chênh lệch giàu nghèo.

Chuyên gia cho răng “5 màu thu nhập” này vừa dựa vào tính hợp pháp của thu nhập, cũng tham khảo tính đạo đức xã hội, cơ bản đã khái quát con đường và phương thức chủ yếu của phân phối thu nhập Trung quốc hiện nay, là một hình thức biểu đạt dễ được mọi người tiếp nhận, hình tượng hóa mô tả thu nhập hiện nay.

Bộ phận cư dân thu nhập cao tồn tại lượng lớn “thu nhập ẩn”.

Vương Tiểu Lộ trong thời gian dài nghiên cứu vấn đề “thu nhập xám”, mấy năm trước đã điều tra tình hình thu chi gia đình của trên 2.000 người có thu nhập khác nhau, phát hiện bộ phận cư dân thu nhập cao tồn tại lượng lớn “thu nhập ẩn”. Điều tra cho thấy, trong thu nhập của cư dân thành phố thị trấn không được thống kê vào thu nhập ước cao đến 4.800 tỷ NDT, bị lọt chủ yếu phát sinh ở nhóm 10% hộ có thu nhập cao của cư dân thành phố thị trấn, chiếm  ¾ toàn bộ thu nhập bị bỏ lọt.

Một số chuyên gia cho rằng, một nguyên nhân quan trọng khác của chênh lệch lớn phân phối thu nhập là vấn đề tiêu cực tham nhũng do chế độ không kiện toàn gây nên, bao gồm lượng lớn thu nhập xám và thu nhập phi pháp. Điều tra chứng minh, trong thu nhập thanh toán không được thống kê bỏ lọt 4.800 tỷ NDT, chủ yếu trong 10% nhóm có thu nhập cao. Đồng thời với đó, các vụ án tham nhũng cũng bộc lộ cá biệt cán bộ chiếm dụng mức lớn tài sản công. Theo thống kê của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, chỉ năm 2009 cả nước đã kết án tham ô hối lộ 18.191 vụ, cán bộ cấp huyện, vụ trở lên bị kết phạm tội là 2670 người, trong đó cấp ty, cục 204 người, cấp tỉnh, bộ 8 người. Trần Đồng Hải, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Hóa dầu Trung Quốc nhận hối lộ gần 200 triệu NDT, sáng tạo kỷ lục nhận hối lộ đơn món lớn nhất từ thành lập nước lại nay.

Với đà thị trường hóa nền kinh tế ngày càng sâu, khoảng cách thu nhập ngày càng tăng, mọi người ngày cảng cảm thấy một số “lực lượng không công minh chính đại” đang nhẹ nhàng lồng gắn vào thể chế kinh tế thị trường. Quan hệ xã hội tựa hồ ngày càng quan trọng. Hiện tượng quyền lực hành chính bố trí nguồn lực tồn tại rộng rãi. Nếu như quan hệ xã hội của lĩnh vực tư nhân kết hợp với quyền lực hành chính của lĩnh vực công không được ngăn chặn, thì hủ bại sẽ càng nảy nở, không bao giờ dập tắt được. Cũng từ thực trạng này đã dẫn đến một số rút ra bài học thực dụng đáng buồn là “ngày nay muốn làm giàu nhanh, là phải có học vấn cao, có quan hệ tốt, tốt nhất còn phải có quyền lực”, cho nên đang có xu thế các nhà doanh nghiệp đua nhau nhảy sang lĩnh vực chính trị bằng nhiều hình thức.

Chuyên gia cho rằng ảnh hưởng của tham nhũng đối với phân phối thu nhập chủ yếu có 3 mặt:

Một là, làm nhiễu loạn trật tự phân phối, mất thiêng việc điều tiết thị trường phân phối ban đầu, lại hình thành “phân phối ngược chiều” lĩnh vực phân phối lại, làm cho nguồn tiền vốn nên dùng cho quần thể thu nhập thấp thông qua con đường không chính đáng chuyển dịch ngược vào tay người liên quan quyền lực, tăng thêm độ không công băng phân phối.

Hai là, không cách gì hạch toán rõ thu nhập cá nhân, mất tiền đề cơ bản của thiết kế chế độ.

Ba là, thuộc vào phần tử tiêu cực hủ bại của tập đoàn lợi ích có ngay, lại có năng lực, cũng sẽ trở thành “con hổ chặn đường” lớn nhất của cải cách phân phối thu nhập.

Hủ bại tiêu cực của họ tuy không trực tiếp thuộc phạm trù phân phối thu nhập, nhưng thấm thấu và có ảnh hưởng đến cách cục phân phối. Lý Bân, Tổng giám đốc Công ty Động Mạn-Tây an nói, bây giờ bất cứ làm nhà đất, mỏ than, hay muốn nhảy vào doanh nghiệp độc quyền làm công chức, muốn nhờ đó bước lên tầng lớp thu nhập cao, thường phải dựa vào “quan hệ” và “vé” để mở đường. chỉ cần tồn tại “qui tắc ngầm” hủ bại, phân phối thu nhập không có cách gì phơi ra “ánh sáng” được.

Phân phối đang đứng ở ngã tư đường.

Năm 2009 GDP bình quân đầu người gần 3.700 USD, việc chuyển đổi phát triển kinh tế và cấu trúc lại kết cấu xã hội đều bước vào giai đoạn then chốt. Thực tiễn các nước Mỹ - Latinh cho thấy, giai đoạn này cần đặc biệt ngăn ngừa xuất hiện hiện tượng ngưng trễ tăng trưởng, chênh lệch giàu nghèo mở rộng, mất ổn định xã hội.

Tô Hải Nam cho rằng, không kiện toàn hệ thống phân phối thu nhập là nguyên nhân trực tiếp gây nên vấn đề phân phối thu nhập nổi cộm.

Trong phân phối lần đầu không xác định rõ ràng quan hệ tỷ lệ phân phối hợp lý giữa 3 bên nhà nước, doanh nghiệp và cư dân, phân phối theo lao động thấp, không xây dựng cơ chế tăng trưởng bình thường của thù lao lao động. có phần quá chú trọng phân phối theo tư bản. Bất hợp lý của phân phối lần đầu làm cho xu thế “mạnh tư bản, nhược lao động” không ngừng cường hóa. Tăng tiền lương người lao động không theo kịp tăng lợi nhuận doanh nghiệp. Ở các nước phát triển tiền lương chung là chiếm + 50% giá thành kinh doanh của doanh nghiệp, còn ở Trung Quốc chưa đến 10%.

Trong phân phối lần hai, không lấy hình thức chế độ để xác định rõ tỷ lệ chi ngân sách các cấp dùng cho chi trả bảo đảm xã hội và chuyển dịch. Chế độ bảo đảm xã hội không hoàn thiện dẫn đến xuất hiện “điều tiết ngược”. Theo tiết lộ của Tổng Công hội, trong những người tìm việc làm ở thành phố thị trấn, tỷ lệ họ tham gia bảo hiểm dưỡng lão, bảo hiểm y tế chỉ 62% và 60%. Nông dân công tham gia lại càng thấp. Khó bảo đảm tính công bằng, hợp lý của phân phối lần hai.

Qui mô phân phối lần ba như từ thiện, quà tặng nhỏ, công năng điều tiết có hạn, cần kiện toàn cơ chế.

Các chuyên gia kiến nghị cần giữ chặt “chỉ đỏ” chênh lệch giàu nghèo, cần kiên trì cải cách chế độ phân phối thu nhập cả gốc lẫn ngọn, tổng hợp, nhiều kênh cùng làm, các bên cùng phối hợp, xây dựng phương án trị cả tầng sâu và tầng nổi trực tiếp./.

(Tổng hợp từ các bản tin, bài viết trên Nhật báo nhân dân ngày13/02/2007, ngày 11/6/2007, ngày 09/4/2008. Mạng Tân hoa ngày 25/12/2006, ngày 08/3/2008. Nhật báo Giải phóng ngày 21/6/2006. Nhật báo Quảng châu ngày 20/6/2007. Thời báo Công thương Trung hoa ngày 08/82007. Tham khảo kinh tế ngày 10/5/2010.)

ĐẶNG ĐÌNH LỰU
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Satthat

.
Hãy cảnh giác khi “Giấc mơ Trung Hoa” bắt đầu…
 
Như một buổi thánh lễ, gần 3.000 đại biểu tập hợp tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt chào mừng tân Chủ tịch nước và chỉ ngồi xuống khi có tiếng chuông của đoàn chủ tịch. Trên diễn đàn, ông Tập Cận Bình đưa ra lời kêu gọi về “đại phục hưng quốc gia”.
Một thế hệ lãnh đạo vừa được bầu chọn dự kiến sẽ dẫn dắt đất nước đông dân nhất thế giới và đang là nền kinh tế lớn đứng thứ hai toàn cầu trong vòng thập niên tới. Giới quan sát dự báo Trung Quốc đang đứng trước một số cơ hội, nhưng thách thức không phải là nhỏ trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu vẫn còn chịu ảnh hưởng của đợt suy thoái gần đây. Trung Quốc được cho là vẫn phải đối mặt với những yêu cầu ngày lớn về kiểm soát tham nhũng, tăng trưởng nóng đi kèm các hệ quả sinh thái, môi trường, đặc biệt là đối phó với các áp lực ngày càng tăng trong xã hội đòi hỏi có các bước cải thiện về đảm bảo công lý, dân chủ và nhân quyền.

Đại phục hưng quốc gia

Ngày 17/3, phát biểu trong phiên bế mạc khóa họp thường niên Quốc hội Trung Quốc, trên cương vị tân Chủ tịch nước, ông Tập Cận Bình đã kêu gọi một sự “đại phục hưng quốc gia Trung Hoa” và thúc giục quân đội nâng cao khả năng chiến đấu để giành chiến thắng. Lãnh đạo số một Trung Quốc nhấn mạnh : “Chúng ta sẽ tiếp tục tranh đấu vì sự nghiệp xã hội chủ nghĩa mang mầu sắc Trung Quốc và thực hiện giấc mơ đại phục hưng một quốc gia Trung Hoa”. Tháng 11 năm ngoái, khi được bầu vào chức vụ Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Tập Cận Bình từng tuyên bố: “Trong lịch sử hiện đại, chưa bao giờ, chúng ta lại ở gần một sự phục hưng quốc gia Trung Hoa như vậy và tôi tin chắc rằng, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu này”.
Giống như một buổi thánh lễ, gần 3.000 đại biểu tập hợp tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh đã đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt chào mừng tân Chủ tịch nước và chỉ ngồi xuống khi có tiếng chuông của đoàn chủ tịch. Từ trên diễn đàn, trong vòng 25 phút, ông Tập Cận Bình, năm nay 59 tuổi, đã tìm cách nhấn mạnh đến sự trỗi dậy một nước Trung Hoa mới. Tân Chủ tịch nước, vừa chính thức nhậm chức trong khóa họp Quôc hội lần này, đã tái khẳng định tất cả phải nỗ lực nhằm hiện thực hóa “đại phục hưng quốc gia” và “giấc mơ Trung Hoa”.
Khóa họp thứ 11 của Quốc hội Trung Quốc đánh dấu sự kết thúc giai đoạn chuyển giao quyền lực: Ông Tập Cận Bình, Tổng bí thư đảng Cộng sản được bầu làm Chủ tịch nước, kiêm Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Đất nước đông dân nhất hành tinh trong vòng 10 năm tới, được dẫn dắt bởi một ê-kíp lãnh đạo được trẻ hóa. Ông Lý Khắc Cường, 57 tuổi, được xác nhận chính thức tiếp quản chiếc ghế thủ tướng chính phủ, từ tay người tiền nhiệm Ôn Gia Bảo. Ông Lý, người nhận được 2.940 phiếu bầu (tỷ lệ 99,69%), thông thạo tiếng Anh, sẽ phụ trách quản lý lĩnh vực rộng, trong đó có đối nội, kinh tế, môi trường và đô thị hóa của Trung Quốc.
Bốn phó thủ tướng giúp việc cho ông Lý đều là các cán bộ lãnh đạo kỳ cựu của Đảng. Ngoài ba vị là nam giới gồm Trương Cao Lệ, Uông Dương và Mã Khải, một đại diện nữ hiện diện trên cương vị này là bà Lưu Diên Đông. Bà Lưu, 67 tuổi, là phụ nữ cao niên nhất trong ê-kíp cấp phó của ông Lý, trong khi ông Uông Dương, 58 tuổi, được coi là một nhà cải cách. Trong số 25 tân bộ trưởng, ông Thường Vạn Toàn được phê chuẩn nắm ghế Bộ trưởng Quốc phòng. Tân Bộ trưởng ngoại giao là ông Vương Nghị, cựu đại sứ tại Nhật Bản, người từng phụ trách các quan hệ với Đài Loan trước đây.
Ngày 17/3, tại cuộc họp báo sau phiên bế mạc, tân Thủ tướng Lý Khắc Cường cho biết ba nhiệm vụ hàng đầu của chính phủ là duy trì tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân nhân và bảo vệ công bằng xã hội. Ông cam kết sẽ tiết giảm tệ nạn quan liêu, giới hạn tiêu xài của quan chức nhà nước từ công thự, mua công xa cho đến công tác phí khi đi ra nước ngoài. Về quan hệ với Hoa Kỳ, ông Lý Khắc Cường bác bỏ những lời chỉ trích từ Washington về nạn tin tặc khi trả lời một phóng viên ngoại quốc. Thủ tướng Trung Quốc tuyên bố “cảm thấy bị nghi ngờ là thủ phạm”, nhưng ngay sau đó ông dựa vào lập luận tự vệ cố hữu: “Trung Quốc cũng là nạn nhân, Trung Quốc không chủ trương, không ủng hộ….” Trong cuộc điện đàm để chúc mừng tân chủ tịch Tập Cận Bình, Tổng thống Obama không ngần ngại nêu đích danh Trung Quốc, cảnh báo hiện tượng tin tặc tấn công hệ thống máy vi tính của Mỹ và cam kết là sẽ “đối thoại cứng rắn” với Bắc Kinh.
Cũng trong buổi họp báo nói trên, trả lời câu hỏi của một nữ phóng viên liên quan đến vấn đề “đi tù không án”, tân Thủ tướng Lý Khắc Cường nói một cách ngắn gọn là “các cơ quan có liên hệ đang gấp rút soạn thảo một dự luật mới hoàn tất vào cuối năm nay”. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc, khoảng 190.000 người Trung Hoa, trong khi số liệu chính thức chỉ công nhận là 60.000 người đang bị cải tạo. Tháng giêng năm nay, đài truyền hình Trung Quốc đưa tin sẽ dẹp bỏ “chính sách lao cải” trong năm 2013, sau đó bản tin này bị rút xuống. Tuy nhiên, ông Tập Cận Bình nhìn nhận đây là “vấn đề cấp bách”. Hiện nay, bốn thành phố lớn: Nam Kinh, Trịnh Châu, Thanh Đảo và Lan Châu được chọn làm thí điểm thay thế “lao cải” bằng biện pháp được đặt tên là “chỉnh giáo thái độ bất hợp pháp”.

Hiệu ứng của những giấc mơ

Sau khi trở thành Tổng Bí thư và Chủ tịch Quân ủy Trung ương, ông Tập Cận Bình đã liên tiếp nhắc đến cụm từ “giấc mơ Trung Hoa” như là biểu hiện mạnh mẽ cho quyết tâm tạo dựng một Trung Quốc lớn mạnh dẫn đầu thế giới, kể cả về quân sự. Phải chăng là ngẫu nhiên khi cụm từ được ông Tập yêu thích lại trùng lặp với tên cuốn sách của đại tá PLA Lưu Phúc Minh. Ba năm trước, ông Lưu viết cuốn “Giấc mơ Trung Hoa”, trong đó chủ yếu nói về những mục tiêu mới của Trung Quốc vượt qua sức mạnh quân sự hàng đầu thế giới của Mỹ và dự đoán một cuộc đua marathon giành quyền thống trị toàn cầu. Cuốn sách đã bị ngừng phát hành do những lo ngại có thể gây tổn hại đến quan hệ với Mỹ. Trong 100 ngày đầu tiên lên nắm quyền, ông Tập liên tiếp thực hiện các chuyến thăm cấp cao tại các lực lượng quân đội, không quân, các chương trình không gian và các cơ sở tên lửa, điều mà cả hai người tiền nhiệm trước đây, cả ông Giang lẫn ông Hồ đã không làm.
Chính điều này hiện đang khiến thế giới và khu vực lo ngại: Nhật Bản và các láng giềng Đông Nam Á vẫn chưa biết ông Tập thực sự muốn gì khi ông nói nhiều đến thế về “đại phục hưng quốc gia”. Như một sự trùng hợp đầy ý nghĩa, đúng vào ngày bế mạc Quốc hội 17/3 khi ông Tập thúc giục quân đội nâng cao khả năng chiến đấu để giành chiến thắng trước sự hiện diện của nhiều đại sứ nước ngoài thì bên kia bờ Đông Hải, thủ tướng Shinzo Abe đánh giá tình hình an ninh quốc gia của Nhật hiện rất nghiêm trọng và tuyên bố: “Khác với bốn năm trước đây, đất nước của chúng ta, từ lãnh thổ, lãnh hải đến không phận đang bị khiêu khích liên tục”. Ông nhắn nhủ các tân sĩ quan là “thực tế sa trường họ phải đối phó sẽ rất gian khổ” và ông mong rằng “các sĩ quan sẽ tận tụy quên mình trên chiến địa để bảo vệ non sông và dân tộc”.
Hãng tin AFP nhận định Thủ tướng Nhật sử dụng thông điệp bi tráng để mô tả tình hình tranh chấp với Trung Quốc và ông Abe không ngần ngại trích lại nguyên văn một lời tuyên bố bất hủ của cố Tổng thống Mỹ Theodor Roosevelt đọc tại Paris năm 1910: “Danh thơm thuộc về những người thực sự tham gia trận mạc với khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi, máu và nước mắt”. Thật khó biết, trong số 427 tân sĩ quan hiện diện trong buổi lễ tốt nghiệp tại Yokosuka có 27 nữ sinh viên và 11 sinh viên nước ngoài đến từ Campuchia, Indonesia, Mông Cổ, Thái Lan và Việt Nam liệu có cảm xúc họ thật sự đang chuẩn bị ra trận thật không?
Trong khi đó, ở Trung Quốc những ngày này người ta lại đón đợi lãnh đạo mới ít nhất phải đốt lên được một trong ba ngọn lửa để xác lập quyền uy. Vậy nhân vật số một và số hai của đảng/nhà nước Trung Quốc, ông Tập và ông Lý sẽ chọn “ngọn lửa nào” để phát lệnh thực hiện một “cuộc khởi hành mới”? Trau chuốt hình ảnh, củng cố quyền lực hay sẽ khai triển những bước cải tổ lớn lao? Trau chuốt hình ảnh và củng cố quyền lực, cho đến giờ này tạm coi có thể kết thúc. Liệu có ảo tưởng nếu chờ đợi nơi Tập những cải tổ ngoạn mục? Dư luận cho rằng, ông Tập sẽ đi rất cẩn thận, ít ra trong 5 năm đầu. Mối lo "ổn định" vẫn còn đấy và nhiều dấu hiệu cho thấy ý chí duy trì sự tiếp tục đường lối cũ, như việc giữ lại thống đốc Ngân hàng Trung ương, cho dù ông này đến tuổi hưu. Vả lại, những thay đổi thực sự khó diễn ra vì đụng đến chế độ. Ngày này cách đây sáu năm (16/3/2007), thời của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo cũng đã xuất hiện niềm hy vọng cải tổ lớn lao, nhưng 10 năm sau, trên bình diện chính trị cũng như xã hội, chính dư luận Trung Quốc cũng thừa nhận đó là “một thập niên bị đánh mất”.
Nhiều người hiện đang kỳ vọng vào bộ đôi quyền lực mới Tập – Lý ở Trung Quốc. Tuy nhiên vẫn chưa ai đoan chắc liệu tư tưởng cải cách của các ông có mang lại đổi mới gì hay không. Và câu hỏi còn khó trả lời hơn: liệu các ông và ê-kíp mới sẽ là những nhà cải cách thực thụ? Duy có một điều chắc chắn tân thủ tướng sẽ là nhà lãnh đạo có bằng cấp cao nhất mà Trung Quốc được biết đến từ năm 1949. Trong tay ông Lý là hai bằng về luật và kinh tế của trường đại học Bắc Kinh, trường đại học uy tín nhất của đất nước. Không giống như nhiều nhà lãnh đạo khác là được mang tiếng là có bằng cấp, ông Lý Khắc Cường là một tiến sĩ thật sự. Kể từ giờ, hai ông cùng ban lãnh đạo mới sẽ phải gánh lấy trách nhiệm nặng nề chèo lái từng ngày nền kinh tế thứ hai thế giới, khi tuyên bố ủng hộ cải cách và tái cân bằng mô hình tăng trưởng. Báo Le Figaro đặt câu hỏi “liệu những người đàn ông cẩn trọng này có thể làm được gì nhiều hơn những người tiền nhiệm hay không?” Theo đánh giá của các chuyên gia chính trị tại Trung Quốc, trong bối cảnh hiện nay, Tập Cận Bình cũng như Lý Khắc Cường hiểu rõ rằng họ phải làm được cái gì đó, nếu không đó sẽ ngày tận thế.
Còn với các nước lân bang, hãy cảnh giác khi “Giấc mơ Trung Hoa” bắt đầu!

HẢI ĐĂNG
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Satthat

.
.
Chủ nghĩa kì thị dân tộc đang ngóc đầu dậy ở Trung Quốc
   
(Nhân xem cái biển “Cấm người Nhật Bản, Philippin, Việt Nam và chó” tại một cửa hàng ăn nhanh ở Bắc Kinh, kiêm bàn “Hoa Di chi biện”)

http://i1354.photobucket.com/albums/q681/Satthat1/Biencamnguoivietnam_zpsa043ac3b.jpg

Đằng sau các từ ngữ hoa mĩ như “16 chữ vàng”, “hữu hảo”…là tiềm ẩn quan niệm phân biệt chủng tộc thâm căn cố đề của không ít người Trung Quốc. Không phải người Trung Quốc nào cũng thế. Tôi đã từng sống ở Trung Quốc nhiều năm, sau này cũng có nhiều lần sang Trung Quốc và thường xuyên đọc sách báo của họ, học tập họ, tôi thấy họ là một dân tộc văn minh, sáng tạo, khách khí, giữ lễ nghĩa, thích làm “hảo hán”. Nhiều bạn Trung Quốc mà tôi gần gụi có tình cảm rất tốt đẹp, nhường cơm sẻ áo. Nhưng không ít cá nhân của họ nhiều khi phụ thuộc vào quan điểm của nhà nước, cho nên thái độ của họ có thể thay đối 180 độ khó lường trước được.
Trước các tham vọng của Trung Quốc đối với  chủ quyền biển đảo của ta, ta cần biết hiện nay trong thâm tâm họ nghĩ gì về người Việt và các dân tộc xung quanh trong bối cảnh thông tin bị nhiễu để khỏi bị ngộ nhận.
Từ những năm 90 khi tôi sang Trung Quốc sưu tầm tư liệu để viết các sách giáo khoa trung học Việt Nam, tôi có được một cuốn sách Ngữ văn lớp sáu, trong đó có bài Việt Nam tiểu bá, dạy cho học sinh lớp sáu của họ nào Việt Nam có tham vọng lãnh thổ, xưa đã từng thôn tính Chân Lạp và nay có tham vọng thành lập liên bang Đông Dương, xưng hùng xưng bá đối với các nước Đông Nam Á. Một bài tập đọc ngắn nhưng đã xuyên tạc Việt Nam và có ý dạy cho thế hệ trẻ Trung Quốc thái độ bài Việt.
     Gần đây, vào mạng, tôi thấy người Trung Quốc rất tự hào với quan điểm sặc mùi tự kỉ trung tâm luận và kì thị chủng tộc cổ lỗ sĩ là phân biệt “Hoa Di”(Hoa Di chi biện), trong đó Trung Quốc được xem là trung tâm của thiên hạ, các dân tộc xung quanh bị miệt thị là “tứ di”. Tứ Di ấy gồm: Đông Di là Nhật Bản, Triều Tiên, Di châu; Bắc Địch gồm Hung Nô, Tiên Tỳ, Khiết Đan, Mông Cổ; Nam Man là An Nam; Tây Nhung là các tộc người phía Tây Hoa Hạ. Một quan điểm từ thời cổ đại mà theo nhãn quan văn hóa hiện đại, theo hiến chương Liên hiệp quốc thì đã phải vứt vào sọt rác từ lâu rồi, thế mà nhiều người đang ra sức làm sống dậy.
Trong sách Thượng Thư (trong thiên Đại Vũ mô) cho biết, thời vua Vũ trị thủy, người Hoa đã gọi các tộc xung quanh là “tứ di”, tứ Di là các dân tộc man di, mọi rợ, ở xung quanh Hoa Hạ, không có văn hóa. Sách Lễ kí thiên Vương chế nói rõ hơn: “Đông gọi là Di, Tây gọi là Nhung, Nam gọi là Man, Bắc gọi là Địch.” Tể tương Tề Hoàn Công là Quản Trọng chủ trương “Tôn Hoa Nhương Di” nghĩa là đề cao Hoa Hạ và bài xích các Di,  được Khổng Tử khen ngợi hết lời (Luận ngữ, Hiến vấn). Khổng Tử viết Xuân Thu đại nghĩa nhấn mạnh sự phân biệt Hoa Di. Từ Kinh học của Đổng Trọng Thư đến Lí học của Chu Hi đều kế tục sự phân biệt đó. Đến đời Đường, Hàn Dũ trong thiên Nguyên nhân (Tìm bản chất con người) có viết : “Con người là người chủ của các loài vật và tứ Di”. Như vậy đối với Hàn Dũ, một bậc đại gia văn hóa Trung Quốc đáng kính, quan niệm của ông về con người sặc mùi đại Hán: chỉ người Hoa mới là người, các dân tộc xung quanh chỉ được coi như con vật, đồ vật. Đời Tống Trình Di viết : “Lễ mà mất đi thì thành Di Địch, mà mất nữa thì thành cầm thú.” Đời Minh Lữ Lưu Lương viết sách nói, “Sự phân biệt Hoa Di không giống như phân biệt quân thần, bởi vì quan hệ người Hoa đối với người Di giống như quan hệ con người đối với cầm thú, đồ vật, đó mới là ý nghĩa quan trọng nhất.” Các tư tưởng ấy làm chạm nọc vua nhà Thanh, bởi tộc của họ là người Mãn Châu, vốn bị người Hoa gọi một cách khinh thị là Di Địch. Vua Ung Chính đã dõng dạc bác bỏ như sau: “Kể từ khi Trung Hoa nhất thống, không thể tỏa ra xa rộng, có người không theo văn hóa Trung Quốc bèn mắng họ là Di Địch. Như bản triều ta là Mãn Châu, Mãn Châu là tịch quán của Trung Quốc, theo đó thì Thuấn là người Đông Di, Văn Vương là người Tây Di, điều đó có tổn hại gì cho thánh đức đâu?” Ung Chính đã xóa bỏ phân biệt Hoa Di và gọi các vị tổ của Trung Quốc là Di Địch mà người Trung Quốc ai dám hé răng.
“Tôn Hoa nhương Di” là tư tưởng lấy lễ nghi văn hóa Trung Quốc làm tiêu chuẩn phân biệt Trung Quốc với tộc người không phải Trung Quốc[1], đồng thời do tư tưởng độc tôn dân tộc mình, họ khinh bỉ các dân tộc khác do không có văn hóa lễ nghi của họ. Đó cũng là nền tảng để người Trung Quốc xâm lược các nước xung quanh, hủy diệt văn hóa của họ, mà tiêu biểu là lối cướp bóc hủy diệt các thành quả và di vật văn hóa Đai Việt của Vua nhà Minh.
Đó là sản phẩm tư tưởng lạc hậu của người Trung Quốc vào thời họ chưa có quan niệm về thế giới, chưa có khái niệm nhân loại, chưa hiểu về cộng đồng các dân tộc trên thế giới, chưa biết đến sự đa dạng văn hóa của các tộc người trong nhân loại. Dân tộc không có văn hóa Trung Quốc không có nghĩa là không có văn hóa. Văn hóa riêng của họ cũng có giá trị bình đẳng.
Điều quái gở là hôm nay không ít người Trung Quốc hết sức khoái thú với sự phân biệt Hoa Di đó. Họ chủ trương cần phát huy sự phân biệt kia để phát triển văn hóa Trung Hoa.  Các từ điển mở Wikipedia, các trang khác như Hỗ Động, Bách Khoa, Đậu bạn, Bách độ…đều có mục “Phân biệt Hoa Di”, trong đó biện hộ tư tưởng đó không phải là kì thị chủng tộc, mà chỉ là lấy tiêu chí văn hóa phát triển cao để phân biệt các dân tộc mà thôi. Tất cả các nhà khoa học của Trung Quốc tham gia các trang ấy, buồn thay,  không  ai thấy rằng văn hóa các dân tộc đều độc đáo, mà độc đáo thì không so hơn thua được, đều bình đẳng, thì việc lấy văn hóa của mình làm tiêu chí để đánh gía các dân tộc khác thấp hơn là không có cơ sở. Áo mũ, lễ nghĩa chưa phải là thước đo văn minh. Trong thực tế lịch sử Trung Hoa, ngược lại, ta thấy có sự thật là người Trung Hoa có nhiều khi không phân biệt được Hoa Di như họ tưởng. Chẳng phải trong lịch sử Trung Quốc đời nhà Đường người Hoa rất say mê văn hóa của người Hồ (Bắc Địch), từ hồ cầm, hồ cà (nhạc cụ), hồ địch (sáo), hồ nhạc, hồ vũ, hồ phục (trang phục), hồ mã (ngựa hồ), hồ phạn (ẩm thực người hồ) , …đều là các thứ được người Hoa, kể cả vua chúa, quyền quý yêu chuộng tiếp nhận đó sao? Vua Hán Linh đế cũng say mê văn hóa người Hồ, đâu có phân biệt Hoa Di? Đến thời Nguyên người Hoa bị người Mông Cổ là Bắc Địch thống trị mấy trăm năm, tự biến thành Bắc Địch, đâu còn Hoa nữa. Họ không thấy đến thời Mãn Thanh, cả dân tộc Hoa đều phải cạo đầu, dóc tóc như người Mãn, ăn vận theo trang phục người Mãn, đâu còn trang phục Trung Hoa, cả một dân tộc có văn hóa riêng, thoắt cái biến thành Di tất cả trong mấy trăm năm trời thì còn phân biệt Hoa Di mà làm gì? Các biển hiệu treo trong Cố cung trên ghi chữ Mãn, dưới ghi chữ Hán thì đâu có phân biệt Hoa Di? Cả Cố cung cũng có trí tuệ của kiến trúc sư Đại Việt, làm sao phân biệt Hoa Di? Thời cận đại cả dân tộc Trung Hoa lại sang học Đông Di tức là nước Nhật Bản, đất nước đi tiên phong trong việc học tập văn hóa phương Tây để phát triển thành một cường quốc châu Á. Muốn tiếp thu phương Tây thì trước hết phải dịch từ ngữ, mà lúc đầu người Trung Quốc dịch đều thất bại, hầu hết các từ thông dung hiện đại của tiếng Hán đều vay mượn từ dịch của Nhật Bản cả[2]. Trong tiếng Hán hiện đâu có thấy phân biệt Hoa Di? Lúc này Trung Quốc biến thành Di rồi, mà Nhật Bản là Nhật Bản. Đến thời Ngũ Tứ năm 1919, người Trung Quốc đã giác ngộ, tự thấy mình là Di trong mắt người phương Tây, Nhật Bản. Hình tượng AQ chính là hình tượng người Di trong con mắt người hiện đại. Họ nêu khẩu hiệu “đạp đổ cửa hàng họ Khổng” tức là tinh hoa văn hóa của Hoa Hạ, để hoàn toàn Âu hóa. Đến thời Mao họ lại vứt Khổng đi, tôn sùng Mác Lê, một thứ Tây Di hiện đại. Phải nói ngay rằng, chính sự giao lưu, cộng sinh văn hóa giữa các dân tộc đó đã tạo thành bản sắc văn hóa Trung Hoa phong phú. Còn ngày nay thì đất nước Trung Quốc tràn ngập mọi thứ văn minh phương Tây, làm gì có Hoa Di chi biệt nữa? Nếu chỉ phân biệt Hoa Di theo các tư tưởng cổ lỗ ngày xưa thì nay đâu có văn hóa Trung Quốc hiện đại? Thế mà họ vẫn đề xướng “Hoa Di chi biệt” thì thật quái gở. Chẳng lẽ họ không biết phân biệt Hoa Di là tự tách mình ra khỏi nhân loại, khỏi thế giới, khỏi luật pháp quốc tế? Chẳng lẽ họ không biết như thế là chông lại sự bình đẳng về văn hóa của các dân tộc? Hay là sự phân biệt Hoa Di là ngọn cờ dân tộc chủ nghĩa được ai đó lợi dụng phất lên nhằm làm lu mờ khát vọng dân chủ và yêu cầu tôn trọng quyền con người trong nước họ?

http://i1354.photobucket.com/albums/q681/Satthat1/bien_cam_cho_va_nguoi_trung_quoc_1_zps12b7f62d.jpg

Họ đã từng nhục nhã khi thấy Vườn hoa Hoàng Phố thuộc tô giới  Anh ở thành phố Thượng Hải có treo tấm bảng đề tám chữ “Người Hoa và chó không được ra vào”(Hoa nhân dữ khuyển bất đắc xuất nhập), thế mà bây giờ họ quên ráo. Họ lại tự hào truyền thống ông cha xưa, coi phân biệt Hoa Di là tư tưởng cốt lõi để tôn vinh dân tộc Hoa và hạ nhục dân tộc khác. Mới đây một cửa hàng ăn nhanh ở Bắc Kinh treo biển “không tiếp người Nhật Bản, Philippine , Việt Nam và chó”, một hành động bắt chước cái vô văn hóa của bọn thực dân thuần túy. Chính người Hoa cũng nhiều người hiểu rằng, người Anh khi treo cái biểu cấm chó và người Hoa kia là có lí của họ. Vườn hoa thuộc tô giới, là nhượng địa, người Trung Quốc không có quyền vào, tuy nhiên nhiều người không biết cứ vào cho nên đề cấm. Lại nữa, người Hoa vào, theo thói quen, nhổ bậy, đái bậy, ỉa bậy làm ô uế, nên phải cấm. Chó Trung Quốc là thứ chó nuôi thả rông, chúng cũng vô đái bậy, ỉa bậy, không như chó cảnh của mấy ông tây bà đầm. Còn cái biển đề của nhà hàng kia không có ý nghĩa gì ngoài cái nghĩa kì thị dân tộc. Nhà hàng là nơi chào đón người tứ xứ, nhất là khách du lịch, việc gì mà cấm người này, người nọ. Trên thực tế tôi cũng không thấy họ cấm chó, bởi trong cửa hàng Trung Quốc, người ta nuôi chó để làm vệ sinh. Như thế càng rõ họ chỉ có ý làm nhục các nước tranh chấp lãnh thổ của họ. Vấn đề lãnh thổ là chuyện khác, chuyện pháp lí, không phải chuyện yêu ghét. Thế mà người Trung Quốc cứ ra vào nhà hàng như không, hình như không thấy ai phản ứng sự kì thị chủng tộc công khai thách thức đó. Cũng có thể có người không tán thành, mà không dám nói, sợ đám kì thị kia làm khó, cho nên ngậm miệng. Đó là sự trỗi dậy, hiện nguyên hình khía cạnh văn hóa thấp kém của Trung Hoa hàng nghìn năm nay, tự lột cái mặt nạ tư tưởng kì thị dân tộc trước mắt nhân dân thế giới.
  Tóm lại phân biệt Hoa Di là sản phẩm của thời Trung Quốc còn lạc hậu, và trong suốt lịch sử Trung Quốc tự bản thân họ cũng đã nhiều lần hòa trộn với Di, thậm chí biến thành Di trong mắt các nền văn minh khác. Không hề có Hoa Di chi biệt như họ ảo tưởng.
  Chúng tôi yêu quý, trân trọng văn hóa sâu rộng, phong phú của người Trung Hoa, sự giao lưu văn hóa của hai dân tộc Hoa Việt đã làm cho văn hóa Việt Nam được phát triển. Nhưng các biểu hiện gần đây ở Trung Quốc cho thấy chủ nghĩa kì thị dân tộc đang trỗi dậy hết sức mạnh mẽ, và cũng hết sức nguy hiểm. Nó đầu độc tâm hồn cả một dân tộc vĩ đại. Một dân tộc vĩ đại mà bị đầu độc thì còn gì nguy hiểm hơn? Chủ nghĩa Hitler cũng chỉ vì kì thị dân tộc mà trở thành kẻ thù của nhân loại. Trung Quốc bây giờ bề ngoài mạnh mẽ, phồn vinh, nhưng bên trong tâm thức vẫn còn là một kẻ bành trướng tham lam cực kì nguy hiểm. Xin đừng quên cảnh giác.

TRẦN ĐÌNH SỬ
-------------------------------------------------------------------
[1]Người Trung Quốc cổ đại sở dĩ tự gọi mình là Hoa là bởihọ tự hào họ có áo mũ đẹp, có chế độ phân biệt áo mũ,có lễ nghi phân biệt trên dưới rõ ràng.
[2]Xem bài Từ Hán Việt gốc Nhật trong tiếng Việt của Trần Đình Sử.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Satthat

.
Thế giới tiếp tục lên án Trung Quốc phạm luật
  
http://i1354.photobucket.com/albums/q681/Satthat1/389d52b40ee851e4d4ee5c8e8dc6067b_L_zps5ee41d71.jpg
Thế giới lên án Trung Quốc

Biển Đông sẽ là ưu tiên trong nghị trình Cấp cao ASEAN từ 24-25/4. Thông điệp Trung Quốc đưa ra dịp này nhằm khẳng định chủ quyền và trắc nghiệm khả năng bảo vệ các tham vọng phi pháp của họ tại các vùng biển tranh chấp.
Vụ tàu đánh cá của các ngư dân Việt Nam ở Lý Sơn, Quảng Ngãi đã bị hải quân Trung Quốc truy đuổi và bắn cháy trong vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa vẫn được dư luận quốc tế tiếp tục cập nhật. Trả lời câu hỏi của phóng viên trong cuộc họp báo thường lệ tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cuối tuần qua (29/3), người phát ngôn Bộ Ngoại giao Victoria Nuland nhắc lại các quan ngại của Washington về vụ việc xảy ra hôm 20/3.

Mỹ, Nhật đều phản đối mạnh mẽ

Bà Nuland nói, rõ ràng có sự khác biệt trong câu chuyện do hai bên thuật lại và Washington đã yêu cầu Trung Quốc phải làm rõ những gì đã xảy ra: “Quý vị đã biết chúng tôi phản đối mạnh mẽ như thế nào đối với mọi sự đe dọa, hoặc hành động dùng vũ lực hay hiếp đáp của bất cứ nước nào đòi chủ quyền trên Biển Đông. Chúng tôi đang đảm bảo cho tất cả các nước phải được an toàn về hàng hải và yêu cầu các bên hãy tự kềm chế, không được đưa ra bất cứ hành động nào có thể phương hại tới cơ may có thể giải quyết các vấn đề qua đường lối ngoại giao”.
Về những bước leo thang mới nguy hiểm của Trung Quốc tại Biển Đông, Tiến sĩ Charles Morrisson, Chủ tịch Hội Đông-Tây, một cơ quan nghiên cứu chính sách tại Châu Á-Thái Bình Dương, nói rằng Hoa Kỳ không muốn tranh chấp được giải quyết bằng vũ lực hay thái độ 'ỷ lớn hiếp bé'. “Chúng tôi (tức là Mỹ) không muốn chứng kiến các cuộc tranh chấp đó được giải quyết bằng vũ lực hay thái độ hiếp đáp. Hoa Kỳ đã nêu lên rất rõ các lợi ích của mình trong khu vực, về mặt tự do hàng hải và giải quyết tranh chấp một cách hòa bình dựa trên những tiến trình, theo đó các vấn đề như thế này được giải quyết bằng các cuộc tham khảo ý kiến và những tiến trình đa phương, thay vì nước lớn ỷ thế hiếp đáp nước nhỏ”.
Cuối tuần qua, đại tướng Shiregu Iwasaki, Chủ tịch ban tham mưu liên quân của Đội Phòng vệ Nhật Bản đã họp với Đô đốc Samuel Locklear, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Thái bình dương của quân đội Hoa Kỳ, để bàn về một kế hoạch nhằm chiếm lại quần đảo Senkaku, trong trường hợp các đảo này bị Trung Quốc xâm lấn. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ mới đây cho biết họ đang làm việc chung với Nhật Bản để chống lại bất kỳ hành động nào của Trung Quốc nhằm chiếm cứ quần đảo có tranh chấp trên biển Hoa Đông. Các nhà phân tích cho rằng thông cáo này là một lời cảnh báo mạnh mẽ và bất ngờ đối với giới lãnh đạo ở Bắc Kinh.

Thông điệp tới Cấp cao ASEAN

http://i1354.photobucket.com/albums/q681/Satthat1/hai-giam-20130313-212008-763_zpsc468ecb5.jpg
Tàu Hải giám của Trung quốc

Theo tường thuật của các phóng viên quốc tế, tuần qua, lần đầu tiên trong lịch sử cận đại, hải quân Trung Quốc đã tiến sâu xuống phía nam, cách bờ biển Malaysia 80 km. Đoàn tàu 4 chiếc đã đi qua quần đảo Trường Sa và tiến sâu vào bãi đá ngầm James để tiến hành các cuộc diễn tập. Hạm đội này bao gồm các tàu hộ tống hạm và khu trục hạm có phi đạn điều hướng. Phát ngôn viên Hồng Lỗi nói khơi khơi: “Trung Quốc đang hành xử các quyền hợp pháp của mình qua việc thực hiện những cuộc thao dượt này”. Theo GS Ian Storey của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, con số các chiến hạm tham gia cuộc diễn tập không phải là yếu tố quan trọng. Cuộc thao dượt này được thiết kế để đánh đi một thông điệp là “Trung Quốc có khả năng hoạt động ở những nơi cách xa lục địa, có thể đổ bộ lên các hòn đảo và chiếm các hòn đảo để giải quyết các tranh chấp”.
Rõ ràng những hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông đang trở thành mối lo ngại chung của cộng đồng quốc tế. Hòa bình ổn định và tự do, an ninh an toàn hàng hải ở Biển Đông là lợi ích chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực. Biển Đông đã trở thành một vấn đề quốc tế là không thể đảo ngược được. Việc Trung Quốc từ chối đàm phán về COC cho thấy rõ Trung Quốc hoàn toàn không có thiện chí cùng các nước liên quan giải quyết thỏa đáng các vấn đề tranh chấp. Ban lãnh đạo mới ở Bắc Kinh đang thi hành một chính sách cứng rắn với các nước láng giềng nhằm thực hiện mục tiêu đưa Trung Quốc trở thành “cường quốc biển” mà Đại hội 18 Đảng Cộng sản đã đề ra. ASEAN cần nhận thức rằng nếu tiếp tục im lặng Trung Quốc sẽ lấn tới, do vậy cần có tiếng nói chung trên vấn đề Biển Đông để ngăn chặn sự bành trướng của Bắc Kinh.
GS Storey cho rằng không phải tình cờ mà tàu của hải quân Trung Quốc tiến tới sát Brunei, là nước giữ chức chủ tịch của tất cả các hội nghị trong năm nay của ASEAN. Ông Romney Banlaoi, Giám đốc Viện Nghiên cứu hòa bình, bạo động và khủng bố ở Philippines, đã nêu lên vai trò quan trọng mà Brunei sẽ nắm giữ tại diễn đàn ASEAN cuối tháng này. Ông Banlaoi nói: “Tôi nghĩ là Trung Quốc đang gửi tới ASEAN một thông điệp là Trung Quốc không những chỉ muốn khẳng định đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông mà còn muốn trắc nghiệm khả năng bảo vệ các yêu sách về lãnh thổ của mình”. Ông Banlaoi cho biết tranh chấp Biển Đông sẽ có vị trí cao trong nghị trình thảo luận của hội nghị thượng đỉnh ASEAN từ 24-25 tháng tư này.

TRẦN HIẾU CHÂN
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Satthat

Cách mạng Văn hóa - tội lỗi của ai?
(Trao đổi với giáo sư Mao Vu Thức)   

Đấu tố trong cách mạng văn hóa

Trong thời đại Mao Trạch Đông, dân chúng không có quyền tự do ngôn luận, tự do theo đuổi nghề nghiệp, tự do cư trú và tự do đổi nơi cư trú. Điều mà người dân có thể làm chỉ là sự phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không có cơm ăn”, ai không phục tùng thì phải “đói mà chết dần”. Tất cả bi kịch cũng như mọi chuyện hoang đường xuất hiện trong thời Cách mạng Văn hóa không phải là trách nhiệm và lỗi lầm  của nhân dân Trung Quốc (trong đó có giáo sư  Mao Vu Thức[2]). Tạp chí Minh Kính số tháng 8 đăng bài “Kỉ niệm một vị nữ thánh” của Ngô Giá Tường.[3]Trong bài  có nhắc đến chuyện kinh tế gia Mao Vu Thức phát biểu trong lễ kỉ niệm tròn 90 năm ngày sinh Vương Bối Anh[4]rằng “Bi kịch Cách mạng Văn hóa dù do lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông đích thân đạo diễn, cộng thêm nhóm tứ nhân bang cùng những kẻ tay sai trợ ác cùng lắm cũng chỉ mấy trăm người. Vậy mà cả nước sáu bảy trăm triệu người điên cuồng vào cuộc. Có một nửa trách nhiệm ở người dân. Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm việc đó thì khẳng định là làm không nổi”.[5]Giáo sư Mao có dũng khí phản tỉnh như vậy thực đáng ca ngợi. Vậy mà người viết bài này quả thật không dám đồng ý với phát biểu cho rằng nhân dân phải gánh một nửa tránh nhiệm về bi kịch Cách mạng Văn hóa và nếu như là ở Mĩ thì không thể tiến hành được cuộc cách mạng đó. Chúng tôi cho rằng quan điểm đó có  vấn đề về logic rất đáng được trao đổi thêm.

“Kẻ không phục tùng không có cơm ăn”

Cách mạng Văn hóa sở dĩ có thể phát động và lôi cuốn dân chúng - việc này hoàn toàn có quan hệ với thể chế chính trị Trung Quốc. Dưới thời Mao, dân không chỉ mất quyền tự do ngôn luận. Đến quyền tự do chọn nghề nghiệp, tự do cư trú và di chuyển cũng chả có. Mỗi một người đều trở thành “chiếc đinh ốc” trong cỗ máy quốc gia. Còn nhà nước thì trở thành người chủ nhân công duy nhất, người kinh doanh của tất cả các xí nghiệp. L.Trotsky nói từ 1937: “Trong những nước mà nhà nước là người thuê nhân công duy nhất, phản kháng đồng nghĩa với việc “từ từ chết đói”. Nguyên tắc xưa cũ “kẻ không lao động không được ăn” đã bị thay thế bởi nguyên tắc mới “kẻ không phục tùng không được ăn”[6](sách “Đường đến nô dịch”). Trong một xã hội như thế, việc mà dân chúng có thể làm chỉ có thể là phục tùng và phục tùng. Bởi vì “kẻ không phục tùng không được ăn”, kẻ không phục tùng thì sẽ đối diện với uy hiếp của việc phải “từ từ chết đói”.
Ta hãy xem tình cảnh xã hội Trung Quốc thời Mao. Chính quyền mới được thành lập sau 1949. Trong thập niên những năm 50 hàng loạt các cuộc vận động chính trị và trấn áp phản cách mạng do Mao phát động đã tiêu diệt triệt để giai cấp trí thức thân hào trong xã hội Trung Quốc truyền thống. Những chức năng có tính truyền thống của xã hội Trung Quốc theo đó cũng tiêu vong. Trên một cơ  sở như thế Mao đã sử dụng năm thủ đoạn kể sau để khống chế chặt chẽ xã hội dưới tay  mình.

Thủ đoạn thứ nhất - Chế độ hộ khẩu

Chế độ hộ khẩu kiểu Trung Quốc phân tách thành thị và nông thôn. Nông dân suốt đời bị cầm cố ở nông thôn, các hộ dân quê không có cách nào để dời lên thành phố. Không có hộ khẩu thành phố thì không có chỗ làm, không có hộ khẩu thành phố thì không có phân phối lương thực, không có hộ khẩu thành phố không những không làm được bất cứ việc gì mà chính ra là không thể sinh tồn. Dân thành phố cũng bị cầm cố tại chính nơi cư trú của mình. Việc chuyển chỗ ở giữa các thành phố cũng vì chế độ hộ khẩu mà chịu sự khống chế hoàn toàn. Chế độ hộ khẩu đó dẫn đến vấn đề bất bình đẳng về mức sống, việc làm, đi học giữa nông thôn và thành phố. Vậy nhưng chỗ giống nhau về quyền lợi chính trị mà dân nông thôn và dân thành phố được hưởng đều là “không có gì”. Chế độ hộ khẩu Trung Quốc còn có một công năng khác, đó là thông qua hộ khẩu cưỡng chế những ai không phục tùng hay có kiến giải độc lập về nông thôn tiếp thu giáo dục lao động cải tạo. Sự khác biệt giữa thành phố và nông thôn kiểu như thế hoàn toàn là do con người tạo nên. Những ai có hiểu biết về thời kì lịch sử đó đều thấy rõ như thế.  

Thủ đoạn thứ hai Chế độ tem phiếu phân phối

Mao Trạch Đông dùng chế độ phân phối tem phiếu để nắm chặt trong tay mình nguồn nhu yếu phẩm phục vụ đời sống nhân sinh. Bất cứ một số lượng tiêu dùng nhu yếu phẩm nào cần thiết cho sinh hoạt đều được phân phối, người dân không thể tự do có được các nhu yếu phẩm đó. Khi mua lương thực không những cần có sổ mà còn cần cả tem phiếu, có tiền cũng không mua được định mức quy định theo tháng. Điều cần phải chỉ rõ là, phiếu lương thực còn chia thành loại phiếu thông dụng toàn quốc, loại phiếu dùng ở địa phương các tỉnh và loại phiếu dùng cho các thành phố. Trừ loại phiếu lương thực thông dụng toàn quốc ra, hai loại sau chỉ có thể dùng trong phạm vi các tỉnh các thành phố. Người ta không thể xoay trở được nếu như không có phiếu lương thực. Chỉ riêng với chế độ phiếu lương thực đã có thể khống chế được quyền tự do hành động của dân chúng. Nhưng chế độ phân phối của Mao gồm một nội dung hết sức rộng rãi. Tất cả đều được phân phối theo phiếu – có phiếu dầu ăn, phiếu vải, phiếu trứng, phiếu đường, phiếu thịt, phiếu máy khâu, phiếu xe đạp,... Đến tết có phiếu hàng tết. Đủ loại tem phiếu quán xuyến toàn bộ đời sống người dân Trung Quốc.

Thủ đoạn thứ ba Chế độ hồ sơ lí lịch

Chế độ hồ sơ lí lịch không xa lạ đối với mỗi người dân Trung Quốc. Cho dù anh học ở trường, công tác ở các đơn vị cơ quan hay về hưu ở nhà (về hưu hồ sơ lí lịch được chuyển về khối phố hoặc công xã nơi đương sự sinh sống). Hồ sơ lí lịch theo liền với từng người cho đến hết đời. Chức năng của chế độ hồ sơ lí lịch không thua kém gì một sự theo dõi ngầm của cơ quan công an. Trường học và cơ quan sẽ ghi vào hồ sơ nếu đương sự bị kỉ luật. Những nhận xét hay giới thiệu mà chính đương sự không được đọc thấy hay không được chính đương sự xác nhận cũng được phê viết vào hồ sơ lí lịch. Tính cách tiêu cực hay tích cực của những lời phê đó ảnh hưởng đến đến cuộc sống giữa xã hội của chủ nhân bộ hồ sơ. Những ai có dũng cảm phàn nàn, nêu ý kiến hay phát ngôn trái lạ đều bị ghi vào trong hồ sơ lí lịch. Còn như việc sẽ chịu xử lí như thế nào thì chỉ còn trông chờ vào may rủi. Chế độ hồ sơ lí lịch phi nhân tính đó trên thực tế đã tước đi quyền tự do ngôn luận.

(Còn tiếp)
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Satthat

(Tiếp theo và hết)

Cách mạng Văn hóa - tội lỗi của ai?
(Trao đổi với giáo sư Mao Vu Thức)   

Thủ đoạn thứ tư Chế độ giáo dục lao động cải tạo

Giáo dục lao động cải tạo được nói là một loại xử phạt hành chính nhưng trên thực tế rất gống với xử phạt hình sự. Chế độ giáo dục lao động có tính tùy tiện, nó có thể do một đơn vị cơ quan quyết định. Như thế chế độ giáo dục lao động khiến cho các cơ quan đơn vị trở nên rất gần với một cấp tư pháp nhưng tùy tiện và vô pháp luật. Mặc dù nói là  xử phạt hành chính và được gọi là “trị bệnh cứu người” nhưng những người bị bắt đi lao động không những mất quyền tự do nhân thân đồng thời họ cũng trở thành “tiện dân” của xã hội và chịu sự kì thị. Nghiêm trọng hơn là khi mãn hạn lao-giáo rồi người ta vẫn có thể cưỡng chế người bị giáo dục bằng lao động đó ở làm việc tại chỗ. Trên thực tế đó là một thứ tù không kì hạn, suốt đời bị giam thân cảnh tù, mất hẳn tự do. Việc có thể tùy ý thực hiện chế độ lao-giáo đối với dân chúng là biểu hiện của sự khủng bố chính trị thời Mao.

Thủ đoạn thứ năm - Chế độ cơ quan đơn vị

Dưới thời Mao, “cơ quan/đơn vị” trên thực tế chính là chỗ để khống chế cá nhân. Quyền tự do theo đuổi nghề nghiệp bị tước bỏ, tất cả mọi người đều nhận công tác theo sự sắp xếp của nhà nước. Người ta không có quyền chọn công việc và cũng không có quyền từ chối công việc được phân công. Nhà nước không cho phép tùy ý từ chức hay đổi công tác. Mỗi một người suốt đời làm việc ở những vị trí công tác đã được phân công. Tiền lương do nhà nước quy định. Tình trạng đi làm cả đời không có tăng lương là rất nổi bật. Một khi anh rời khỏi đơn vị hoặc bị đơn vị khai trừ đồng nghĩa với việc hoặc là anh đã ra khỏi cái xã hội mà Mao đang khống chế hoặc là anh bị cái xã hội đó khai trừ. Anh sẽ lâm cảnh đường cùng, mất hết nền tảng sinh hoạt. Trong cái chế độ cơ quan-đơn vị đó, để sinh tồn kiếm sống nuôi gia đình anh chỉ có thể phục tùng và phục tùng. Nhân dân Trung Quốc không có tội và cũng không có trách nhiệm về Cách mạng Văn hóa.
Thời đại Mao Trạch Đông chính là dùng những thủ đoạn như thế để khống chế toàn bộ xã hội Trung Quốc. Cộng thêm vào đó là hết cuộc vận động chính trị trị này đến cuộc vận động chính trị kia. Tất cả khiến cho nhân dân Trung Quốc thực không có lấy một cơ hội nào để thở lấy hơi nữa. Cách mạng Văn hóa trong suốt quá trình của nó xem ra rất là hỗn loạn nhưng cả xã hội vẫn được khống chế chặt trong tay Mao. Mà Cách mạng Văn hóa là một cuộc vận động chính trị nhằm giải quyết chuyện người thừa kế quyền lực. Nói cách khác Mao phát động Cách mạng văn hóa là nhằm mục đích biến giang sơn của một  đảng thành giang sơn của một nhà, chuẩn bị cho Giang Thanh tiếp nối quyền hành[7](Xem Lưu Thông, “Mục đích của Cách mạng Văn hóa – Xác lập người thừa kế quyền hành”). Trong Cách mạng Văn hóa, từ trên xuống dưới, từ trong đảng đến người ngoài đảng tất cả đều bị cuốn vào trong đó. Người bị cuốn vào không biết nguyên do sự việc nhưng kẻ phát động thì từng bước hướng cuộc vận động đi đến mục tiêu đã dự định trước. Nhiều lãnh đạo cấp cao bị cuốn vào mà không sao hiểu được nguyên do, họ lại còn đứng đó hô hào học tập. Họ cảm thấy chuyện dường như là “cách mạng gặp phải vấn đề mới”. Nhiều lãnh đạo bị lôi ra phê đấu bắt đầu công việc tự kiểm thảo đi kiểm thảo lại. Mao Trạch Đông bày đặt mê hồn trận, khiến cho đám đông những là “đối tượng của cách mạng” từ to đến nhỏ không biết phải như thế nào cho phải, suốt này hoảng hốt giữa rầm trời tiếng hô khẩu hiệu và tiếng hô đả đảo. Trong một không khí khủng bố chính trị như thế, quần chúng dân đen không chút quyền hành sống khác gì chết. Họ đến nói năng cũng phải giữ mồm, không cẩn thận là bị hàng xóm thậm chí chính vợ (chồng) con cái mình phản ánh, tố giác. Trong thời buổi Cách Văn hóa, ai cũng run sợ cho bản thân, ngay cả người thân cũng không được tin. Lúc bấy giờ, “tin tưởng” đã trở thành từ đồng nghĩa của từ “nguy hiểm”. Bạn bè tri âm trở thành người cáo giác, người dám nói thẳng chẳng khác gì đang đào huyệt cho mình. Cả nước từ trên xuống dưới chỉ mỗi Mao là người hưởng quyền “tự do ngôn luận” ghi trong hiến pháp. Mọi công dân của cộng hòa quốc này đều đã bị tước bỏ quyền phát ngôn. Mọi hành động đều chờ chỉ huy của Mao, vạn vật sinh trưởng cũng nhờ sự tưới tắm của “lời dạy của chủ tịch” (ngữ lục). Trong những năm tháng gọi là “cách mạng” đó, mở miệng là “muôn năm”, kiểm thảo ngày nào cũng có, tự sát trở thành ước mơ. Tất cả là để làm gì? Vận động quần chúng là để chặn đánh tâm lí phản nghịch của quần chúng. Vận động lãnh đạo cao cấp là để chống lại “lửa bất bình” nơi họ, làm cho họ cụp tai cúi đầu cam nô lệ. Mao gây bao án oan, bức đồng chí không ngừng tự kiểm thảo. Mao muốn tinh thần “tội tổ tông” thấm sâu vào thần dân. Chỉ như thế thì mới có thể khiến cho dự trù chính trị của mình thực hiện thông suốt.
Ham sống sợ chết là thiên tính của con người. Trong một xã hội mà không khí khủng bố nhuốm mùi tanh của máu, dân chúng xô dạt theo dòng lớn là chuyện không khó hiểu cả về tình lẫn về lí. Hẵng xem một người tài năng tót vời như Quách Mạt Nhược đã phải sống một cuộc sống run rẩy kinh hãi ra sao là đủ biết quần chúng thường dân vì sao lại phải “ngây cuồng”. Hẵng xem biết bao nhà văn nổi tiếng bỗng chốc tất cả cùng im lặng tập thể, gác bút tập thể là đủ thấy Mao Trạch Đông đã không chế thành công xã hội Trung Quốc đến mức nào. Cũng đủ để thấy dân chúng vì sao phải “ba phải a dua”. Bởi vì họ chỉ mỗi việc phải phục tùng, “ngây cuồng” hay “ba phải vào hùa” là kết quả của việc phải phục tùng. Không thế thì sẽ “dần dần chết đói”. Dám chắc giáo sư  Mao Vu Thức cũng ở trong đội ngũ đó. Đó quyết không phải là tội lỗi và trách nhiệm của nhân dân Trung Quốc (gồm cả giáo sư trong đó). Quả đúng như giáo sư đã nói: “Nếu Mao Trạch Đông và lũ bốn tên sang Hoa Kì làm Cách mạng Văn hóa thì khẳng định là làm không nổi”. Sở dĩ những việc tương tự Cách mạng Văn hóa không thể phát động nổi ở Mĩ là bởi vì chế độ chính trị quốc gia này không cho phép các nhà chính trị muốn làm gì thì làm. Điều còn quan trọng là, các nhân vật chính trị ở Mĩ là do dân chúng bỏ phiếu chọn ra. Tất cả những người đó (bao gồm cả tổng thống) đều phải chịu trách nhiệm trước dân chúng. Thế nên chính trị gia tại Mĩ không thể hành động khinh suất hay tùy ý trái phản ý dân. Ai cũng biết chính trị Trung Quốc thời Mao và chính trị Hoa Kì không giống nhau. Vậy đương nhiên là ngón nghề của Mao làm sao mà thi hành được ở Hoa Kì! Bản thân Mao cũng biết rõ điều đó. Sau lúc Liên Xô hạ bệ Stalin, chính Mao từng nói nếu như ở các nước phương Tây thì đã không có chuyện kiểu Stalin.[8]Thế nhưng Mao hoàn toàn không rút ra bài học gì cả. Sau vụ Watergate, Richard Nixon bị điều trần. Bill Clinton vì chuyện quan hệ ngoài hôn nhân mà bị quốc hội điều tra và ông đã buộc phải xin lỗi dân Mĩ. Ngược lại Mao chưa hề có một lời xin lỗi nào về những việc sai lầm của mình. Bành Đức Hoài[9]dũng cảm vì dân cuối cùng cũng chỉ là “Tôi không uống thuốc của Mao Trạch Đông” “Tôi không ăn cơm của Mao Trạch Đông”.[10]Một nguyên soái chiến công hiển hách cũng chỉ biết dùng cách đó để phản kháng thì còn yêu cầu được người dân phải làm thế nào? Một chế độ tốt đẹp có thể khiến một người xấu không dám làm việc hư, một chế độ bất lương có thể khiến người tốt làm việc xấu. Đây là lí do vì sao người ta yêu cầu phải cải cách thể chế. Giả sử, nếu xưa kia các bậc tiên hiền buổi đầu nước Mĩ kiến quốc không dựng nên chế độ dân chủ, nếu  G.Washington sau 8 năm làm tổng thống không sáng suốt và dứt khoát rút lui khỏi đời sống chính trị, nếu không có việc những người kế thừa Washington thể chế hóa hành động của ông, nếu Washington thực hiện triệt để chế độ chính trị kiểu Mao thì hoàn toàn có thể khẳng định - việc xuất hiện thảm cảnh Cách mạng Văn hóa hay việc nảy sinh bi kịch tương tự bi kịch của những Trương Chí Tân[11], Vương Bối Anh là hoàn toàn có thể.
Vì vậy, tất cả những bi kịch hay những chuyện hoang đường xuất hiện trong Cách mạng Văn hóa chỉ có thể là trách nhiệm của kẻ phát minh Mao Trạch Đông. Nếu không sẽ là không công bằng đối với lịch sử và cũng là một điều sỉ nhục đối với người dân Trung Quốc – những kẻ không có chút quyền kinh tế và quyền chính trị nào trong tay.

HIDEMATSU HIYOSHI [1]

Lê Thời Tân dịch từ nguyên bản tiếng Trung.
...................................................................................................................................................
[1]Học giả Nhật gốc Hoa. Bài đăng trên 《明鏡月刊》nhan đề “文革”究竟誰之罪:與茅于軾先生商榷” (xin xem city.mirrorbooks.com).
[2]茅于軾(Mao Yushi 1929-  ), nhà kinh tế học Trung Quốc đương đại. Năm 1958 bị quy “phái hữu” đình chỉ công tác. Trong Cách mạng Văn hóa bị khám nhà và đấu tố rồi bắt đi lao động. Nhận Giải thưởng kinh tế học Milton FriedmanLiberty Prize của Mĩ năm 2012.
[3]吳稼祥(Wu Jiaxiang 1955 -  ), nhà nghiên cứu kinh tế học, từng thỉnh giảng tại Đại học Harvard. Sau sự kiện mùa xuân Thiên An Môn bị bắt giam. Mãn hạn tù năm 1992. Ngô là một trong những học giả đề xuất sớm nhất ý hướng cải cách xí nghiệp quốc doanh và thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc.
[4]王佩英(Wang Peiying 1915-1970), nguyên là một nữ nhân viên ngành  đường sắt, do phản đối Mao Trạch Đông mà bị bắt vào viện chữa bệnh tâm thần. Trong Cách mạng Văn hóa bị gán tội phản cách mạng, nhét gạch vụn vào mồm và giong phố đấu tố. Sau đó bị phán quyết “lập tức tử hình”. Cuộc xử bắn ngày 27/1/1970 được truyền hình làm gương. Năm 1980 sửa án sai,  kết luận bị bệnh nhân tâm thần không nên kết án hình sự. Năm 2011 kết luận lại Vương vô tội và rút lại lời kết luận Vương mắc bệnh tâm thần.
[5]Xem Ngô Giá Tường, 《雖億萬人,吾往矣- 紀念一位聖女》đăng trên《明镜月刊》số tháng 8/2010 (kì 6), tr.78.
[6]Xem Vương Minh Nghị dịch, 《通向奴役之路》, Trung Quốc Xã hội Khoa học Xuất bản xã, 1997, tr.116 (The Road to Serfdom  của Friedrich August von Hayek có bản dịch tiếng ViệtĐường về nô lệcủa Phạm Nguyên Trường, Hà Nội, Nxb Tri thức –ND).
[7]Xem劉松,《文化大革命的目的-確立繼承人》introng日本大學大學院國際關係研究科《大學院論集》, kì 11, 2001, tr.61~85. Hoặc xem 關心dịch,《毛澤東最後的革命》, Thinker Publishing (HK) Limitedxuất bản, 2009, tr.328 (tức cuốn Mao's Last Revolution của Mac Farquhar và Roderick - ND)                                                                                                                                             
[8]Xem《鄧小平文選》, quyển 2, tr.333
[9]Bành Đức Hoài (1898-1974), nguyên soái, từng là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chống lại chính sách Đại nhảy vọt của Mao từ Hội nghị Lư Sơn (1959). Bị quy tội phản đảng cách chức và kỉ luật. Trong Cách mạng Văn hóa bị đấu tố đánh đập rồi quy tội gián điệp. Bị thầm vấn hàng trăn lần. Mắc bệnh không được chạy chữa, chết ngày 29/11/1974. Trước lúc chết xin được gặp vợ đã li hôn đang lao động cải tạo ngoại ô Bắc Kinh nhưng bị vợ từ chối. Bình đựng tro cốt ghi thành họ tên khác. Được khôi phục danh dự năm 1978. Ghi chép trong tù xuất bản thành sách nhan đề “Bành Đức Hoài tự thuật” (ND).
[10]Xem 馬輅,佩璞,馬秦泉,《彭德懷廬山起禍》(Bành Đức Hoài – Tội khởi từ Hội nghị Lư Sơn), Nhã Lâm xuất bản xã, 1990, tr.36.
[11]Trương Chí Tân (1930-1975), đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc. Bị bắt tù từ 1969 cho đến 1975 vì dám phê phán sùng bái cá nhân và bệnh tả khuynh. Khác biệt giữa hai người phụ nữ Trương Chí Tân và Vương Bối Anh ở chỗ Trương trước sau không phủ nhận tư cách đảng viên của mình, trong lúc Vương sớm xin ra khỏi đảng. Trương trước lúc đem ra tử hình đã bị tra tấn đến phát điên nhưng vẫn bị cho là giả vờ trong lúc Vương khi đưa ra bắn bị xem là điên. Vương bị siết cổ khi đem ra pháp trường còn Trương bị cắt yết hầu trước khi xử tử. Năm 1978 Trương được khôi phục danh dự, năm 1979 công nhận liệt sĩ (ND).
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 7 trang (66 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7]