Tựa rằng:

Tôi nghĩ rằng: Người sanh trong ngàn trăm năm nhẫn trước,
Cũng văn chương mà hãn đặng đầu đuôi.
Vật để lại ngàn trăm năm về sau, phải nghiệm suy mới tìm ra cội rễ.
Sẵn có người trí huệ, biết mấy chỗ hào hoa.
Chẳng thiếu nơi thắng cảnh sơn hà, song nhiều bực thời nho chí khí.
Những điều ly mị, dã sử còn chép để coi chơi.
Các tích khôi hài, văn nhơn cũng sắp nên câu đặt.
Kìa như Khổng An Quấc, nọ như Tư Mã Thiên.
Công trước tác đa niên, sách lưu truyền hậu thế.
Lai5ch đại công khanh vương đế, cổ kim nhơn vật phong lưu.
Đã hiệp vận liền nhau, lại phân chương có lớp.
Vẫn biết miệng ngang khó lấp, nhưng mà đường thẳng dễ đi.
Mừng ngày nay kỳ ngộ cố tri, xảy thấy quyển Nam kỳ phong tục.
Đã xem cùng khoản khúc, lại đọc hết thỉ chung.
Thiệt là văn lý mạch lạc thảy quán thông, khen bấy diễn ca tinh tường như sử ký.
Thiên hạ đủ điều tự sự, thơ trung thêm rạng nho phong.
Lộn châu mắt cá có đôi tròng, mượn bút lông mèo làm một tự.

Mỹ Tho, làng Hoà Khánh.
Dật sĩ Nguyễn Ngọc Huỳnh kính tự.



Thơ bát cú dĩ hạ:

Diễn ca mấy lúc nhọc công dòm,
Một cuộc ra tài tiếng nức om.
Lượm lặt tích xưa chưn rểu rểu,
Kể bày chuyện cũ mắt lom lom.
Câu dài câu vắn hàng đen hắc,
Khuyên dọc khuyên ngang nét đỏ lòm.
Sánh kịp Mã Thiên ghi chép sử,
Nam kỳ nhơn vật trước sau gom.

Cái Bè.
Tổng đốc Trần Bá Thọ kỉnh tặng



Chửa học lâu nay tuổi ướm già,
Vung làm sáu tỉnh sách nôm ta.
Đã trang phong tục riêng từ hạt,
Lại sắp danh gia đủ mọi nhà.
Lượm lặt gương xưa trưng đặng rõ,
Góp thâu chuyện mới nói cho ra.
Muộn nhờ văn vận khuê tinh ứng,
In để ngàn thu một bổng ca.

Long Xuyên.
Tri phủ Nguyễn Hà Thanh kính tặng.



Sáu tỉnh nghe ra vịnh đã cùng,
Từ đây thêm rạng vẻ non sông.
Xuống tay khó tặng thơ Hoàng Phủ,
Trước mắt từng xem phú Thái Xung.
Không mực khá thoa rồng đỏ mũi,
Có son khôn tỉa quạ đen lòng.
Xưa nay có xạ thời thơm đặng,
Lựa phải cầu ai dậy gió đông.

Bà Rịa.
Tri phủ Nguyễn Hữu Đức kỉnh tặng.



Miệng thêu lòng gấm phẩm xuê xang,
Phong tục Nam kỳ diễn vẻ vang.
Nửa vách giang san loà đuốt ngọc,
Sáu thành cảnh vật chói lời vàng.
Châu cơ trong cuộc rành rành chữ,
Tinh đẩu bên hông sắp sắp hàng.
Vạch núi thầm khen thần cự lý,
So tài thước ngọc đã nên trang.

Bổn quấc.
Giáo thọ Trịnh Hoài Nghĩa kỉnh tặng.



Sự tích Nam kỳ kể vang thiên,
Diễn ra phong tục rất nên siêng.
Văn tươi chi kém vàng cao giá,
Vận thuộc dường như chuỗi xỏ liền.
Non nước ngàn trùng thâu dưới bút,
Cõi bờ muôn dặm tóm trong nghiêng.
Dở hay còn có người trên lậu,
Học lực thế nầy chắc gặp duyên.

Mỹ Tho, làng Dưỡng Điềm.
Trần Anh Các kỉnh tặng.



Đã từng lưu lạc bước quen chơi,
Thú vị giang hồ trải mọi nơi.
Chỉ vẽ nhơn tình trong sáu tỉnh,
Hỏi han phong tục chuyện đương đời.
Dĩa nghiên mài đủ màu non nước,
Ngòi bút thêu nên cuộc đất trời.
Đèn sách mười năm công chẳng phụ,
Ngàn thu danh giá tiếng thơm rơi.

Mỹ Tho, làng Vĩnh Kim Đông.
Đặng Hữu Thường kỉnh tặng.



Dinh hườn đứng giữa một anh ta,
Ngâm vịnh Nam châu tiếng ngợi đà.
Tích trước ngàn năm lòng chứa gấm,
Cảnh trong sáu tỉnh miệng thêu hoa.
Lên dây họ Mã kiêng tay thợ,
Xuống bút thầy Ban chạy mặt già.
Cái nợ thơ đăng rày phỉ hẹn,
Trời xanh đâu có phụ con nhà.

Nghệ An.
Dư sĩ Hồ Xuân Lang kỉnh tặng.



Cũng cho rằng trí hay bày đặt,
Lục tỉnh chuyện xưa đi lượm lặt.
Tục ngữ quen dùng đọc dễ nghe,
Quấc âm khéo lựa coi không mắt.
Ngồi không nói pháo gẫm nhiều tay,
Ra sức nưng xe xem ít mặt.
Đồng đạo thương nhau mới phải là,
Dở hay xin chớ tiếng khoan nhặt.

Saigon.
Phụng Hoàng San kỉnh tặng.



Địa dư khúc diễn vận du dương,
Nhơn vật Nam châu thấy chán chường.
Sáu tám giọng ca thi thể cách,
Trăm ngàn câu vịnh điệu từ chương.
Thanh tân tuấn dật bì ông Lý,
Cẩm tú anh ba sánh họ Vương.
Dâu biển trải bao đời đổi cuộc,
Hãy còn đồ sộ việc phong cương.

Gò Công.
Dật sĩ Lê Quấc Tá kỉnh tặng.



Đất thì tục người thì quê,
Sáu tỉnh non sông rất bộn bề.
Cao thẳm ngàn trùng ngờ mắt đuốc,
Xưa nay trăm chuyện nhẹ tay đề.
Dày công đương giỏ đêm nuôi đóm,
Có phận quạnh phòng lửa nháng lê.
Muôn nước đều riêng trong một thói,
Người siêng đọc sách lộc ê hề.

Mỹ Tho, làng Dưỡng Điềm.
Dật sĩ Trần Thinh Dự kỉnh tặng.



Tuỳ thời phải dụng chữ nôm na,
Phong tục Nam kỳ khéo diễn ca.
Bút ngọc vẻ vời câu sáu tám,
Lời vàng trao chuốt đạo năm ba.
Sách xưa chán để gương hưng phế,
Truyện mới tiêng phân lẽ chánh tà.
Lòng gấm miệng thêu đà phải mặt,
Ích đời ai chẳng muốn ngâm nga.

Saigon.
Thơ ký Nguyễn Hữu Vang kỉnh tặng.



Khen bấy nhơn tài chẳng lẫn kiêu,
Nam châu phong tục diễn nên điều.
Kinh thần mỗi vận vàng vàng thếp,
Thổ phụng từ câu gấm gấm thêu.
Bờ cõi rảo xem hay đáng mấy,
Non sông thầm nhớ biết bao nhiêu.
Ngàn thu sử sách công mường tượng,
Gương để đời sau cũng tạc biêu.

Gia Định,
Chánh quản Đinh Thiều Quan kỉnh tặng.



Lục bát nôm na giọng mặn mòi,
Nam kỳ phong hoá để người coi.
Núi sông góp lại thơ ngàn lá,
Bờ cõi thêu nên bút một ngòi.
Tích trước nhờ thầy ra trí sáng,
Đời sau lấy đó tạc gương soi.
Giang hồ mà chí trên lang miểu,
Nào khách cân đai cỡi ngựa voi.

Nghệ An.
Du sĩ Nguyễn Trung Thanh kính tặng.



Công phu diễn dịch rất nên chuyên,
Cẩm tú từ câu sắp đặt liền.
Dân quấc sáu châu trang mặc giấy,
Giang san ngàn cụm tóm lòng nghiêng.
Chép ghi Sử Mã noi đường thẳng,
Lượm lặt Kinh lân dõi dấu truyền.
Có xạ há trông ai dậy gió,
Đôi tròng xanh trắng thích tình khuyên.

Vĩnh Long, Bình Long,
Phó tổng Tống Hữu Định kỉnh tặng.



Nhả ngọc phun châu giọng nhũn nha,
Nam kỳ phong tục diễn lời ca.
Nước non một dải chia từ chỗ,
Nhơn vật trăm năm kể chuyện ra.
Gió phất đầu thềm xao sắc mực,
Tuyết phê trên án trổ màu hoa.
Ngàn vàng khôn chuộc Tương như phú,
Tiếng để bi chừ cõi Việt ta.

Chợ Mới.
Y sanh Phạm Đăng Sơn kỉnh tặng.


Nguồn: Nguyễn Liên Phong, Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, tập 1, Libraire Imprimeur, Saigon, 1909
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.