Trang trong tổng số 21 trang (206 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [18] [19] [20] [21]

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Hải chiến Hoàng Sa 1974
sẽ có trong sách sử Việt Nam

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhVwu_pa0_kmAm0wMIOT1v5uGWZCuyhfhlrpwnBRtdir5xchXOYxEW7SYSZMHacv4jvrbj1IC587MnjdUUWHT20QnukUJpZEw6azKRWhUYOppaVxZGCC8OOfKSTuq4Fu_flGPnE5cD8s_lKKAVOMSQlOJ5pG-HN6tosJX8xDuiWX5eJd6a0-RW5HY1S0N3I/w640-h426/0-10..PNG


Bên cạnh bộ Lịch sử Việt Nam do Viện Sử học thực hiện và đã ra mắt còn có bộ Lịch sử Việt Nam (gồm 25 tập thông sử và 5 tập biên niên sự kiện) là đề án cấp nhà nước, do GS Phan Huy Lê làm chủ nhiệm.

Thay đổi cách gọi đối với chế độ Việt Nam cộng hoà là thái độ khách quan của những người làm sử, bởi Việt Nam cộng hoà là một thực thể đã tồn tại trong lịch sử nước ta.

Không dùng cách gọi mang màu sắc chủ quan là đúng đắn và thể hiện tinh thần hoà hợp, hoà giải dân tộc.

Tôi mong rằng, đồng bào ở hải ngoại cũng nên có cách nhìn nhận khách quan về các thực thể chính quyền đã từng tồn tại ở Việt Nam trong giai đoạn lịch sử 1954-1975.

Thời kỳ đó, trên lãnh thổ Việt Nam hình thành hai chế độ Việt Nam dân chủ cộng hoà ở miền Bắc và Việt Nam cộng hoà ở miền Nam.

Bỏ qua sự khác nhau về ý thức hệ thì mỗi chế độ đều lo phát triển kinh tế, đảm bảo cuộc sống của người dân, đảm bảo chủ quyền của đất nước. Những việc này phải mô tả việc khách quan trong lịch sử.

GS NGUYỄN MINH THUYẾT (nguyên phó chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội)
Đề án huy động hơn 250 nhà khoa học lịch sử, một số chuyên gia nước ngoài cùng một hội đồng khoa học gồm 21 nhà khoa học làm nhiệm vụ tư vấn.

Trả lời Tuổi Trẻ, GS.TSKH VŨ MINH GIANG (phó chủ nhiệm đề án Nghiên cứu và biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam) cho biết sẽ có những điểm mới trong bộ quốc sử đang được triển khai.

* Bộ thông sử quốc gia này sẽ có những điểm gì mới, thưa ông?

- Bộ thông sử sau khi hoàn thành sẽ được công bố trước dư luận trong nước và quốc tế là bộ sử tầm cỡ quốc gia.

Một trong những điểm mới căn bản của việc biên soạn bộ sử này là đề cao nguyên tắc toàn bộ (Entire history) và toàn diện (Complete history), đồng thời cố gắng cập nhật những kết quả nghiên cứu mới nhất về lịch sử Việt Nam cả trong và ngoài nước.

Nguyên tắc toàn bộ, hay còn gọi là lịch sử đầy đủ, là trình bày đầy đủ các biến cố lịch sử quan trọng từng diễn ra trên lãnh thổ nước mình một cách khách quan, khoa học.

Việt Nam là quốc gia có lịch sử lâu đời với những nội dung vô cùng phong phú.

Tuy nhiên, vì nhiều lý do, suốt một thời gian dài trước đây các bộ lịch sử Việt Nam thường được trình bày theo hướng nhấn mạnh dòng chảy của lịch sử người Việt (Kinh).

Theo đó, các nền văn minh và các vương quốc cổ đại phía Nam được thể hiện rất mờ nhạt, thậm chí hoàn toàn thiếu vắng trong các bộ thông sử.

Và trong thời hiện đại, bên cạnh Nhà nước cách mạng từng tồn tại những thực thể chính quyền như chính phủ quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hoà.

Nếu bỏ qua, không nhắc tới những thực thể lịch sử này sẽ dẫn tới thiếu hụt trong nhận thức lịch sử.

Tất nhiên trình bày lịch sử phải có lợi cho dân tộc, nhưng phải diễn đạt khách quan, khoa học. Bộ Lịch sử Việt Nam sẽ trình bày toàn vẹn các thực thể chính quyền đã tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam.

Chính phủ quốc gia Bảo Đại cũng sẽ được đề cập.

Ông Trần Văn Hữu, là thủ tướng chính phủ quốc gia Việt Nam, từng đứng trước hội nghị quốc tế hơn 50 nước tại San Francisco tuyên bố rõ ràng chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam. Những sự kiện này rất cần phải đưa vào sách sử.

Những thực thể lịch sử đóng góp đến mức độ nào đối với tiến trình lịch sử Việt Nam đều cần được đặt ra xem xét. Đây là lần đầu tiên bộ thông sử quốc gia đặt vấn đề này.

* Nếu vậy, trong bộ sử này có đề cập đến những câu chuyện trong lịch sử hiện đại Việt Nam như thuyền nhân Việt Nam, cải cách ruộng đất...?

- Nói tới quan điểm toàn bộ không có nghĩa là tất cả những điều chưa được nói tới trước đây đều đưa vào bộ sử này.

Không phải né tránh, nhưng khi đưa nội dung nào vào bộ sử cũng phải đảm bảo rằng sự kiện đó đã được nghiên cứu thấu đáo.

Đây là công trình khoa học nên khi chưa có nghiên cứu đầy đủ thì chưa thể thành nội dung trình bày trong bộ thông sử.

Chẳng hạn như vấn đề cải cách ruộng đất, tuy đến giờ chưa thể nói là đã có những nghiên cứu sâu sắc nhưng khi đã có những kết luận tương đối khoa học thì sẽ đưa vào.

Hoặc vấn đề thuyền nhân Việt Nam.

Đó là thời kỳ mà đất nước chúng ta cực kỳ khó khăn: lạm phát phi mã đến mấy trăm phần trăm; chính trị vẫn còn những vấn đề chưa giải quyết được sau năm 1975; kinh tế thiếu đói; đời sống khó khăn.

Đó là hệ quả tất yếu của câu chuyện thuyền nhân Việt Nam mà cần trình bày để mọi người chấp nhận được.

* Bộ thông sử quốc gia có nói về cuộc kháng chiến chống quân Trung Quốc xâm lược trên mặt trận biên giới phía Bắc từ năm 1979 không, thưa ông?

- Dù quan hệ giữa ta và Trung Quốc như thế nào, việc Trung Quốc huy động 600.000 quân tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam vào tháng 2-1979 là một sự kiện lớn trong lịch sử nước ta.

Bởi nếu không viết về cuộc chiến này thì truyền thống chống ngoại xâm của Việt Nam có một lỗ hổng lớn. Điều này không có lợi trong việc duy trì sức mạnh của dân tộc.

Cách định danh sự kiện có dùng cụm từ “Trung Quốc xâm lược Việt Nam” hay không thì cần cân nhắc và không quá câu nệ.

Bởi chữ “xâm lược” là từ đầy biểu cảm, hiện nay trên thế giới cũng hạn chế dùng, mà thay bằng các thuật ngữ quân sự.

* Những cuộc hải chiến bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam có xuất hiện trong bộ sử này hay không?

- Bộ sử sẽ đề cập toàn bộ quá trình từ khi ông cha chúng ta bắt đầu xác lập chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa đến bây giờ.

Những cuộc hải chiến bảo vệ chủ quyền hai quần đảo này của Việt Nam cũng được viết có hệ thống.

Đó là sự kiện năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, cuộc hải chiến năm 1988 của các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam giữ Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

* Những quan điểm sử học mới đang được xác lập, nhưng làm sao để những thành tựu này đi vào sách giáo khoa, đến được với học sinh và đại đa số công chúng?

- Việc đưa các thành tựu sử học vào sách giáo khoa nhanh hay chậm đều tuỳ thuộc Bộ GD-ĐT.

Đây là việc không đơn giản, nên phải tìm cách để những thành tựu này được đến với học sinh và người dân nhanh nhất.

Thành tựu văn học nghệ thuật ở miền Nam trước năm 1975 cần được ghi nhận

Tôi đồng tình với những quan điểm phản ánh lịch sử theo đúng sự thật mà nó đã diễn ra trong quá trình phát triển của dân tộc và nhân loại.

Dù không phải là người làm sử, nhưng tôi hiểu rằng trước đây chúng ta đánh giá thấp nhà Mạc, nhà Hồ... vì chúng ta theo quan điểm phò chính thống.

Nhưng khi một triều đại suy thoái thì có một triều đại mới thay thế là điều bình thường trong lịch sử.

Nên nhìn nhận xem triều đại đó có đóng góp gì và đóng góp như thế nào cho tiến trình lịch sử dân tộc.

Những tác phẩm khoa học, văn học, nghệ thuật ở cả hai miền Nam – Bắc thời kỳ đó ra sao cũng cần được đánh giá công bằng. Những tác phẩm có giá trị phải được ghi nhận.

Hiện nay chúng ta nghiên cứu về văn học miền Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hoà còn rất ít và chưa phản ánh được đầy đủ, khách quan.

Những tác phẩm có giá trị nhân văn của cộng đồng 3 triệu đồng bào ở hải ngoại cũng cũng phải được nghiên cứu về đề cập.

Các nhà nghiên cứu phải nỗ lực để có thể ghi nhận được thành tựu đó ở cả hai miền.

Các chế độ chính trị trong một lãnh thổ quốc gia là sự nối tiếp liên tục.

Chính quyền Việt Nam cộng hoà đã tiếp nối các triều đại trước mà quản lý các vùng biển, đảo của nước ta như: dựng bia chủ quyền, cử người ra bảo vệ đảo, dựng các đài quan trắc, chiến đấu bảo vệ đảo khi có kẻ xâm lược...

Chúng ta phải thừa nhận sự khách quan ấy và đó cũng là cách khẳng định chủ quyền liên tục của VN đối với hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa.

Sách giáo khoa phổ thông phải phản ánh thành tựu ổn định của giới nghiên cứu. Nên các nhà nghiên cứu luôn là người đi trước.

Những quan điểm, thành tựu mới của giới sử học trong bộ sách Lịch sử VN (Viện Sử học biên soạn) cũng phải được cập nhật trong sách giáo khoa.

Các sách giáo khoa văn học cũng phải viết về thành tựu nghiên cứu văn học ở cả hai miền Nam - Bắc bởi đó đều là tài sản chung của cả dân tộc.

GS NGUYỄN MINH THUYẾT (nguyên phó chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa:
3-Toan tính của Trung Quốc

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhfUeH72eWB6yBdSynUblI6zQVB8_5aEoV70HX6K67KQn_TtfyEsKw1HX0qWo5M5-tHWhPk7SxTfaukKxWb1LNimVcOxfdV3MF5vT4xdCAUczKcYt_H2xNEK6Vmkk_hwXf40mA9PadYiIddgBcdcR5Nbiw5JlSGX-Y4h2QkYKj8CNLVZ3_u-Qexlgb0FjUl/w640-h428/0-11.PNG


Những toan tính chiến lược của Trung Quốc trong việc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa đã được ủ mưu từ lâu, theo nhận định từ hồ sơ ngoại giao được giải mật của Mỹ.

Ngày 30.1.1974, lãnh sự quán Mỹ ở Hồng Kông đã báo cáo về cho Bộ Ngoại giao và đại sứ quán Mỹ ở các nước liên quan về những tính toán của Trung Quốc trong việc thôn tính quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Theo nhận định của lãnh sự quán ở Hồng Kông, Trung Quốc đã có ý đồ đánh chiếm Hoàng Sa từ trước chứ không phải chỉ tự vệ như những lời nguỵ biện và lu loa của Bắc Kinh trước cộng đồng quốc tế. Theo phân tích của lãnh sự quán Mỹ ở Hồng Kông, quyết định đánh chiếm Hoàng Sa phụ thuộc vào một số yếu tố như tiềm năng về dầu khí tại khu vực, lo ngại về việc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa cũng như lợi ích chiến lược về lâu dài của quần đảo.

“Có bằng chứng chắc chắn về việc Trung Quốc tính trước khả năng hành động quân sự tại Hoàng Sa từ trước khi xảy ra các sự cố giữa tháng 1. Việc Trung Quốc có thực sự lên kế hoạch khiêu khích và sau đó chiếm toàn bộ quần đảo vẫn còn được để ngỏ. Song trong mọi trường hợp, một khi cuộc đụng độ bắt đầu, Bắc Kinh ra tay kiên quyết và triển khai mọi vũ lực cần thiết để đánh bật Việt Nam ra khỏi quần đảo”, bài phân tích của Lãnh sự quán Mỹ viết.

Trung Quốc nhận ra việc sở hữu quần đảo Hoàng Sa có lợi ích về kinh tế và chiến lược. Có một số yếu tố thúc đẩy quyết định của Bắc Kinh. Trước hết là những quan tâm ngày càng gia tăng về tiềm năng dầu khí tại toàn bộ thềm lục địa Đông Á. Bằng việc đánh bật Việt Nam ra khỏi Hoàng Sa, Bắc Kinh đưa ra lời cảnh báo đến các nước có tranh chấp lãnh thổ khác, kể cả Nhật và Hàn Quốc, kiềm chế thực hiện các hành động đẩy mạnh tuyên bố chủ quyền. Việc này cũng làm chùn bước các công ty dầu muốn thăm dò ở khu vực.

Theo phân tích của lãnh sự quán Mỹ ở Hồng Kông, Trung Quốc cũng có thể lo sợ việc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ không tiếp tục giữ thái độ im lặng trước vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Bằng việc sử dụng vũ lực, Trung Quốc đã “tiên hạ thủ vi cường” để tránh tình huống nguy hiểm hơn nhiều sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đưa ra tuyên bố chủ quyền về Hoàng Sa (điều này thực tế đã được Nhà nước CHXHCN Việt Nam tiến hành sau khi đất nước thống nhất).

Cũng theo nhận định trong hồ sơ ngoại giao được giải mật, nỗi lo sợ ngày càng lớn của Trung Quốc trước các hoạt động của hải quân Liên Xô tại biển Đông và các vùng biển khác ở châu Á có thể là một yếu tố dẫn đến quyết định của Trung Quốc.

“Chúng tôi hoài nghi việc Bắc Kinh lo ngại rằng Liên Xô hoặc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lên kế hoạch cho hành động trực tiếp liên quan đến quần đảo Hoàng Sa ở thời điểm này, song việc tăng cường đáng kể hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô trong những năm gầy đây đã nhấn mạnh cho Trung Quốc thấy được tiềm năng chiến lược lâu dài của lãnh thổ tranh chấp”, hồ sơ viết.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa
2-Hoàng Sa ở Hội đồng Bảo an LHQ

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhLLdlKZjEIvAH3lAlhWiRlVSYC676MGX2cT4_InnTE8NUaBxv6fmdsIIxK2CCgKkqSoH1v_rmjBmrcXEx1aQh-AISWSvvgOnEokx3EmKYPjqaXdAeor54fIffAi334aaskjwHE1jdHR1qGEZ0vNLl0xu_f7J-nuw7GA9xcZIll8YkcPjvnlpDRLxfVx5Kj/w430-h640/0-10.PNG


Giới chức ngoại giao Việt Nam Cộng hoà đã xúc tiến các nỗ lực đưa vấn đề Hoàng Sa ra các tổ chức quốc tế, song bất thành.

Trong điện tín gửi về Bộ Ngoại giao ngày 20.1.1974, Đại sứ Mỹ Graham Martin cho biết Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của Việt Nam Cộng hoà (VNCH) đã gặp ông để thảo luận về “tình hình rất nghiêm trọng” tại quần đảo Hoàng Sa. Theo đó, chính quyền Sài Gòn đã kết luận rằng việc sử dụng biện pháp quân sự, kể cả không quân, để tái chiếm Hoàng Sa là không khả thi trước sự vượt trội về sức mạnh của quân Trung Quốc. Do vậy, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho ông Bắc thực hiện một số bước đi ngoại giao để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa.
“Ông Bắc nói với tôi rằng trong tình huống nghiêm trọng này, Tổng thống Thiệu cảm thấy ông cần phải kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ, người bạn và đồng minh thân thiết nhất của VNCH. Ông hy vọng Mỹ sẽ ủng hộ các sáng kiến ngoại giao khác nhau mà VNCH dự định tiến hành”, ông Martin viết.

Nỗ lực ngoại giao
Cụ thể, theo ông Martin, các bước đi mà Sài Gòn dự định thực hiện gồm: thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (LHQ) và Tổng thư ký LHQ về cuộc tấn công của Trung Quốc ở Hoàng Sa; kiến nghị đến Hội đồng Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO); cân nhắc đưa tranh chấp ra Toà án Công lý Quốc tế. Ngoài ra, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc cũng được lệnh thông báo sự việc cho các bên ký kết Định ước của Hội nghị quốc tế về Việt Nam (định ước đảm bảo việc thực thi Hiệp định Paris), với lý do Trung Quốc, một thành viên ký kết định ước, đã vi phạm Hiệp định Paris, vốn quy định mọi quốc gia phải tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngoại trưởng Bắc cũng triệu tập ngoại giao đoàn để thông báo về tình hình và đề nghị chính phủ các nước ủng hộ VNCH.
Ngày 20.1.1974, VNCH đã chính thức gửi thư đến Chủ tịch Hội đồng Bảo an LHQ, yêu cầu triệu tập cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an để xem xét hành động xâm lược của Trung Quốc “nhằm thực hiện các hành động khẩn cấp để sửa chữa tình hình và chấm dứt việc xâm lược”. Tuy nhiên, các nhà ngoại giao Mỹ tại Hội đồng Bảo an tỏ ra bi quan về việc đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an bởi Trung Quốc vốn là một thành viên thường trực của cơ quan này trong khi VNCH chỉ là quan sát viên của LHQ và tư cách đại diện còn là vấn đề gây tranh cãi.
Đại sứ Mỹ tại LHQ John A. Scali nhận định trong một bức điện gửi cho Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó: “Dự định đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an sẽ gây ra rắc rối rõ ràng và nghiêm trọng cho chúng ta. Phía Việt Nam có vẻ như không có cơ hội đạt được một quyết định thuận lợi từ Hội đồng Bảo an và có ít triển vọng đạt được bất kỳ lợi thế nào”.
“Tình thế của chúng ta sẽ cực kỳ bất tiện ngay cả khi Việt Nam có quyền hợp pháp hiển nhiên với quần đảo tranh chấp. Trong tình cảnh hiện tại, chúng ta sẽ tìm cách trì hoãn tiến trình của Hội đồng Bảo an. Điều này sẽ giúp phái bộ VNCH có thời gian thăm dò trực tiếp các thành viên Hội đồng Bảo an và báo cáo kết quả về cho Sài Gòn”, đại sứ Mỹ tại LHQ John A. Scali viết.

Kết quả bất lợi
Cuộc tham vấn các thành viên Hội đồng Bảo an của Chủ tịch Hội đồng Bảo an người Costa Rica Gonzalo J. Facio mang lại kết quả bất lợi cho VNCH. Các nước như Pháp, Úc và Áo đều tỏ ra nghi ngờ về ích lợi của việc ra tuyên bố về vấn đề Hoàng Sa trong khi Iraq và Indonesia đặt câu hỏi về việc ai là đại diện hợp pháp của Việt Nam tại Hội đồng Bảo an, theo tường thuật của ông Facio.
Indonesia là nước đã công khai ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa. Peru thì thắc mắc về việc liệu một bên không phải là thành viên của LHQ có thể đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an hay không. Đáng chú ý đại sứ Liên Xô tại LHQ Yakov Malik thừa nhận sẽ bất tiện cho Liên Xô nếu phải ủng hộ Trung Quốc. Ông Malik châm chọc rằng Mỹ sẽ gặp vấn đề trong việc chọn lựa “giữa đồng minh cũ và người bạn mới”.
Trước tình hình đó, VNCH đã quyết định gửi thư đến Chủ tịch Facio rút lại yêu cầu về việc triệu tập cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an. Ngày 25.1, Chủ tịch Facio thông báo Hội đồng Bảo an sẽ không nhóm họp để thảo luận vấn đề Hoàng Sa bởi VNCH đã rút lại yêu cầu.
Ông Facio nói không có đủ ủng hộ cho cuộc họp của Hội đồng Bảo an vì Trung Quốc cho biết sẽ phủ quyết mọi quyết định và có khả năng đại diện của VNCH không được quyền phát biểu trước Hội đồng Bảo an. Trong cuộc tham vấn, một số thành viên đã tranh cãi về quyền triệu tập cuộc họp Hội đồng Bảo an của VNCH, vốn không phải là thành viên LHQ. Theo khảo sát của ông Facio, VNCH sẽ không có đủ 9 phiếu cần thiết. Chỉ có 5 nước phản ứng tích cực là Mỹ, Anh, Úc, Costa Rica và có thể là cả Áo. Những nước phản đối cuộc họp của Hội đồng Bảo an bao gồm Liên Xô, Belarus, Iraq, Indonesia và có thể là cả Pháp. Trả lời một câu hỏi tại cuộc họp báo, ông Facio nói Mỹ không thúc đẩy một cuộc họp của Hội đồng Bảo an và ông có cảm giác Mỹ không thực sự muốn có cuộc họp.
Song song với việc rút lại yêu cầu ở Hội đồng Bảo an, VNCH cũng gửi thư đến Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) yêu cầu kêu gọi các thành viên của tổ chức này “xem xét cách thức và biện pháp để khắc phục tình thế nguy hiểm do cuộc xâm lược của Trung Quốc gây ra” (VNCH không phải là thành viên của SEATO song được bảo hộ bởi hiệp ước này).
Tuy nhiên, một lần nữa VNCH lại gặp phải sự thờ ơ. Ngoại trừ Philippines, vốn lo lắng trước động thái của Trung Quốc, các thành viên còn lại của SEATO đã đưa ra quan điểm rằng SEATO không phải là một tổ chức phù hợp để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và Sài Gòn không đủ tư cách để viện dẫn điều khoản 2 Điều 4 của Hiệp ước về các biện pháp phòng thủ tập thể vì không phải là thành viên chính thức.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy


Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa
1-Bàn cờ nước lớn

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjRyFVPpsWYsUGcqDe9VbpbjIHnm_5dKkt-l_PXYhbH-zqoTXmtLTGZudRQTwZSoq2qU2NxmApBCoVdzDy4vxNVrdbP9uwuGMyBqmbNstKF7xY1r3_4YGSSDRfcx_cK6SQWEXNSie7mzUI1vKZ-RC1Ch3drDc_xaz8eXvmabmJYtj6Ys_nFkENJ8LD-RJjK/w636-h640/0-10..PNG


Hồ sơ ngoại giao được giải mật của Mỹ cung cấp một góc nhìn mới về Hải chiến Hoàng Sa cách đây tròn 40 năm.

Câu hỏi liệu có sự thông đồng giữa Trung Quốc và Mỹ trong việc Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng 1.1974 vẫn là vấn đề chưa có câu trả lời dứt khoát sau 40 năm. Tuy nhiên, mối quan hệ mới được vun đắp giữa hai nước vào lúc đó cũng như thái độ của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa chắc chắn góp phần khuyến khích Trung Quốc mạnh dạn thôn tính trọn vẹn quần đảo của Việt Nam.

Các hồ sơ ngoại giao của Mỹ được giải mật trong thời gian qua gợi ý Washington đã chủ động bỏ rơi và gây sức ép buộc Việt Nam Cộng hoà (VNCH) không được “manh động” trong vấn đề Hoàng Sa nhằm bảo vệ “thời kỳ trăng mật” trong quan hệ với Trung Quốc.

Như một sự trớ trêu, Liên Xô lại là một trong những quốc gia tỏ ra thông cảm với VNCH trong vụ Hoàng Sa, qua việc chỉ trích Trung Quốc, dù chỉ để phục vụ mục đích tuyên truyền chống Bắc Kinh vào lúc đó. Ngược lại, bằng một thái độ lạnh nhạt, Washington và các đồng minh đã cố gắng thuyết phục Sài Gòn không đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.

Thái độ của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa đã được một đại diện ngoại giao Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc mô tả bằng một câu nói mỉa mai rằng Washington đang bối rối trong việc lựa chọn ủng hộ “đồng minh cũ và người bạn mới”.

Bối cảnh quốc tế
Hải chiến Hoàng Sa cần phải đặt trong bối cảnh những rạn nứt quan hệ Liên Xô - Trung Quốc. Quan hệ Xô - Trung trong thập niên 1960 bị phủ bóng bởi những bất đồng sâu sắc về tình trạng của khu vực Ngoại Mông cũng như nhiều tranh chấp lãnh thổ dọc biên giới sau vụ “đoạn giao” năm 1960.

Cuộc đụng độ ở biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) niềm tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu thực hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Mỹ, với cao trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2.1972. Sau chuyến thăm của Nixon, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã ra lệnh tiến hành chương trình hiện đại hoá quân đội lớn, kêu gọi phát triển hải quân viễn dương, cũng như tiếp tục mở rộng việc phòng thủ bờ biển. Điều này mang lại cho hải quân Trung Quốc phương tiện cần thiết để tiến xuống biển Đông. Trong khi đó, Mỹ đã rút quân khỏi miền Nam Việt Nam theo hiệp định Paris ký kết tháng 1.1973.

Trong bối cảnh cuộc chiến Việt Nam sắp đi vào hồi kết, Bắc Kinh đã quyết định đánh chiếm Hoàng Sa ngay trước khi Việt Nam thống nhất. Việc Bắc Kinh lên kế hoạch kỹ càng cho việc tiến chiếm Hoàng Sa cũng được ghi nhận trong một bức điện tín được Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin gửi về cho Bộ Ngoại giao Mỹ vào ngày 20.1.1974, một ngày sau khi hải chiến nổ ra: “Rõ ràng, Trung Quốc không đơn giản tăng viện lực lượng ở Hoàng Sa mà đang tiến hành một kế hoạch chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm chiếm quần đảo”. Chính vì việc này, ông Martin đã đề nghị Washington hãy cân nhắc gây sức ép lên Bắc Kinh và đẩy mạnh các bước đi trong lĩnh vực ngoại giao. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó có vẻ như bận rộn bảo vệ mối quan hệ với Trung Quốc hơn là với một đồng minh hết thời.

Thái độ của Mỹ
Tháng 11.1973, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger công du Trung Quốc và có các cuộc mật đàm với Thủ tướng Trung Quốc Chu n Lai. Trước đó, vào tháng 2.1973, hai nước đã tuyên bố thiết lập văn phòng liên lạc. Khi tình hình biển Đông căng thẳng vào tháng 12.1973, Đại sứ quán Mỹ tại Singapore đã gửi điện tín cho Bộ Ngoại giao Mỹ hỏi về lập trường của chính phủ trong các tranh chấp tại khu vực. Bộ Ngoại giao Mỹ đã gửi điện tín cho các đại sứ quán và văn phòng liên lạc ở VNCH, Singapore, Philippines, Đài Loan và Trung Quốc rằng lập trường của Washington là không đứng về bên nào trong các tuyên bố chủ quyền tại đây. Quan điểm này được tái xác nhận trong các cuộc họp ngày 25.1.1974 và 31.1.1974 của nhóm hành động đặc biệt do Kissinger đứng đầu. Theo đó, phía Mỹ sẽ tránh xa những tranh chấp ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Trước đó, ngày 11.1.1974, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa. Ngay sau đó, ngày 12.1, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VNCH đã cực lực bác bỏ những tuyên bố vô căn cứ của Trung Quốc. Ngày 16.1, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của VNCH ra tuyên bố tố cáo Trung Quốc cử người và tàu bè đến vùng biển xung quanh các đảo Hữu Nhật, Quang Hoà và Duy Mộng, vi phạm trắng trợn chủ quyền của VNCH. Sau khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19.1, Đại sứ Mỹ Martin ngày 20.1 đã gửi điện tín báo cáo về Bộ Ngoại giao cho biết họ đã tức tốc đề nghị các quan chức VNCH hãy kiềm chế, tránh hành động leo thang và khẳng định quân đội Mỹ sẽ không hề can thiệp trong bất kỳ tình huống nào. Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó thông báo cho các đại sứ quán của Mỹ rằng họ đã yêu cầu Bộ Quốc phòng chỉ thị cho hải quân tránh xa khu vực.

Trong cuộc gặp với quyền trưởng Văn phòng Liên lạc Trung Quốc ở Washington Hàn Tự ngày 23.1.1974, Kissinger đã đề nghị Bắc Kinh xem xét trường hợp của nhân viên người Mỹ Gerald Emil Kosh bị bắt giữ trong trận chiến và khẳng định Mỹ không ủng hộ tuyên bố chủ quyền của VNCH với Hoàng Sa.

“Chính quyền Nam Việt Nam đang gửi một số kiến nghị đến các tổ chức quốc tế như SEATO cũng như Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi muốn các ông biết rằng chúng tôi không liên kết với những kiến nghị đó”, Kissinger phát biểu, theo một biên bản được giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Đô đốc Mỹ:
Chúng tôi đã ra lệnh tránh xa Hoàng Sa

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiIsjR8oJz0qP6k7I2vOidU0K9lbvYef_QKvxVUDf7p5EyKns5f5kBqFihBWpkDzVkyo1ug-i1SCH0DfiJWryQ02WhV-GGBaWndP7K6bUVDRJtH-FyVslcrp0IXq6WyP1Uf4lwVaFLFanwDFlvWSPC4j-islaAsiyJvn-SONqvlv0Vq6c86K3RcKp0v3jdb/w312-h640/0-12.PNG


Đô đốc Thomas H. Moorer, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, khi đề cập đến xung đột tại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam hồi năm 1974 đã nói rằng “Mỹ tránh xa Hoàng Sa”.

Phát biểu của ông Moorer thể hiện thái độ làm ngơ của Mỹ trước việc Trung Quốc tấn công đồng minh Mỹ lúc bấy giờ là Việt Nam Cộng Hoà. Phát biểu này được đưa ra trong một cuộc họp mật giữa các quan chức cấp cao Mỹ.

Ngoại trưởng Mỹ khi đó là ông Henry Kissinger đã chủ trì cuộc họp diễn ra vào ngày 25.1.1974, một tuần sau trận Hải chiến Hoàng Sa. Biên bản cuộc họp đã được Bộ Ngoại giao Mỹ công bố gần đây trên website chính thức.

Chúng tôi xin dịch lại đoạn trò chuyện có liên quan đến Hải chiến Hoàng Sa 1974 và thái độ của Mỹ đối với sự kiện này:

Ngoại trưởng Henry Kissinger: Hãy nghĩ về tác động tâm lý đối với toàn Đông Nam Á. Sẽ rất thảm khốc. Hậu quả tại Nam Việt Nam từ vụ (quần đảo) Hoàng Sa là gì?
Đô đốc Moorer: Chúng ta (Mỹ) đã hoàn toàn tránh xa vụ này.
Ngoại trưởng Kissinger: Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam Việt Nam đối với Hoàng Sa hay sao?
Đô đốc Moorer: Toàn khu vực đó là cả một vấn đề. Quần đảo Trường Sa và những đảo khác trong khu vực đều có chung một vấn đề - đó là lãnh thổ đang có tranh chấp chủ quyền. Chúng tôi đã ra lệnh tránh xa khu vực đó. Đó là chính sách của chúng ta mà, phải không?
Ngoại trưởng Kissinger: Đó là cái gì, Trường Sa ấy? (chỉ vào bản đồ)
Đô đốc Moorer: Không, Trường Sa ở phía nam Hoàng Sa.
Ông Colby (William Colby, Giám đốc CIA): Vấn đề là quần đảo Trường Sa được tất cả các bên tuyên bố chủ quyền.
Ngoại trưởng Kissinger: Chúng ta chưa bao giờ bày tỏ lập trường về các đảo này ư?
Ông (Kenneth) Rush (từ Bộ Ngoại giao): Có lực lượng trên các đảo à?
Ông (Monteagle) Stearns (Bộ Ngoại giao): Vâng, chúng tôi nghĩ là có một đồn trại ở trên các đảo.
Ông Rush: Quân của ai?
Ông Stearns: Tôi nghĩ là đồn trại của Philippines.
Ngoại trưởng Kissinger: Trận chiến (Hoàng Sa - PV) đã bắt đầu như thế nào vậy? Ai đã khơi mào trận chiến tại Hoàng Sa?
Đô đốc Moorer: Một tàu tuần tra Nam Việt Nam trong khu vực phát hiện một số thuyền Trung Quốc tiến đến quần đảo đó và đưa khoảng 75 người lên đảo Quang Hoà. Đây là một trong số các đảo thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm phía nam. Họ đã đối mặt với hai đại đội Trung Quốc. Phía Nam Việt Nam đã buộc phải rút sang những đảo lân cận. Lúc đó có bốn tàu của Nam Việt Nam đụng độ với khoảng 11 tàu Trung Quốc rồi phía Nam Việt Nam rút lui. Khu vực này đã căng thẳng một thời gian. Phía Trung Quốc đã thường xuyên cho tiêm kích MiG tuần tra ở đó hầu như hằng ngày.
Ông Colby: Vấn đề then chốt của toàn khu vực là quần đảo Hoàng Sa. Có hai nhóm đảo, gồm Lưỡi Liềm ở phía nam và An Vĩnh ở phía bắc.
Ngoại trưởng Kissinger: Phản ứng của Bắc Việt Nam đối với toàn bộ vụ việc này là gì?
Ông Colby: Họ phớt lờ, nói rằng nó nằm dưới vĩ tuyến 17 và vì vậy không ảnh hưởng đến họ. Nhìn chung là họ đã không đưa ra lập trường, không theo bên nào cả.
Ngoại trưởng Kissinger: Họ không thể vui sướng với tình hình này được. Họ đã chẳng có tuyên bố gì hết, nhưng ông nghĩ họ cảm thấy thế nào hả Dick (ông William Smyser thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ - PV)?
Ông Smyser: Họ rơi vào một tình huống tế nhị. Họ đã không nói gì cho đến khi mọi việc kết thúc và sau đó tất cả những gì họ nói là họ phản đối việc dùng vũ lực.
Ngoại trưởng Kissinger: Tôi đã biết những gì họ nói, nhưng họ thực sự nghĩ gì?
Đô đốc Moorer: Tôi nghĩ họ lo lắng.
Ông Colby: Bắc Việt Nam có thể muốn mỏ dầu ở đó.
Ông Clements (Thứ trưởng Quốc phòng William Clements): Đừng nghĩ về khả năng có dầu tại những quần đảo đó. Điều đó vẫn có thể chỉ là chuyện viễn vông. Hiện ở đó chẳng có gì, tất cả là chuyện tương lai. Còn bây giờ thì dầu không phải là vấn đề thực tế. Chỉ là tiềm năng thôi.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Hải chiến Hoàng Sa:
Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai
đã hành động như thế nào?

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjuDdZmFQ03I0CC8_dSLCKANev7Lq_AAuRelHSX3QpsaPJi5z4ZgYuSNoGD5E65JgMcYsLqDcGifHfoIerEn9khyGPbAt8kgxwijexUiB07iPuyKj8M4Y1rHFETBy5nDcArVs-ieYnV56OZqQc2g-TKj2PWzJci5-dH5SQugDHFA90MJkQ0qIcATtU8UCIQ/w640-h410/0-9.PNG


Trung Quốc đã chuẩn bị gì cho Hải chiến Hoàng Sa 1974 mà họ gọi là “Tự vệ Phản kích Tây Sa”? Báo nhà nước Trung Quốc tiết lộ hành động của các lãnh đạo Bắc Kinh quanh thời điểm quan trọng này.

Lúc 10 giờ sáng ngày 18/1/1974, khi Mao Trạch Đông còn chưa thức giấc, một văn bản đã được đặt ngay ngắn trên bàn làm việc của ông. Đó là bản báo cáo do Thủ tướng Chu Ân Lai và Phó chủ tịch Quân uỷ Trung ương Diệp Kiếm Anh ký, tường trình tình hình Hoàng Sa và kế hoạch “bảo vệ” quần đảo này.

Liên tục trong một tuần trước đó, căng thẳng Hoàng Sa leo thang không chỉ trên bình diện ngoại giao mà cả trên thực địa.

Thức dậy, Mao vừa xem báo cáo, vừa “chìm sâu vào suy nghĩ”, trong đó là cả một đoạn sử về giằng co chủ quyền Hoàng Sa từ khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa lập quốc cho tới những diễn biến vừa qua. Với Mao, quyết định lần này không chỉ có ý nghĩa với riêng Trung Quốc mà còn vì “ổn định thế cục thế giới”.

Nghĩ đến đấy, Mao bèn cầm bút phê lên hai chữ: “Đồng ý”, đoạn nói: “Xem ra không đánh một trận thì không bảo vệ được quyền và lợi ích của Trung Quốc trên biển”.

Đó là cách tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc mô tả quá trình phê duyệt đề xuất đánh Hoàng Sa của Mao.

Hải chiến Hoàng Sa là trận chiến với nước ngoài đầu tiên trong lịch sử hiện đại của hải quân Trung Quốc. Đó cũng là trận đánh cuối cùng do Mao Trạch Đông quyết định.

Khi ấy Mao giữ chức Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và đã 81 tuổi, độ tuổi mà ông tự trào là sắp phải “đi gặp Marx”.

Sau khi được Mao đồng ý, Chu Ân Lai cùng bộ sậu Quân uỷ Trung ương lên phương án tác chiến.

Sáng sớm ngày 19/1, tiểu tổ lãnh đạo được thành lập gồm 5 thành viên: Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Trần Tích Liên. Tô Chấn Hoa được bổ sung sau đó, thành ra 6 người.

Theo đề xuất của Chu Ân Lai thì Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình đại diện đảng phụ trách chính, lập tức sang Bộ Tác chiến Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo.

Chu Ân Lai gọi điện cho Diệp Kiếm Anh, nói ngắn gọn: “Anh giữ quyền phụ trách. Hãy đến Bộ Tổng tham mưu để chỉ huy tác chiến.”

Đặng Tiểu Bình lúc bấy giờ vừa trở lại chính trường sau khi bị ép lao động cải tạo ở Giang Tây. Đặng là một trong những nạn nhân của Đại Cách mạng Văn hoá do Mao Trạch Đông khởi xướng.


Trưa cùng ngày, trận chiến chính thức nổ ra.

Theo tờ Nhân Dân nhật báo, trong lúc chiến sự diễn ra, không khí tại Bộ Tác chiến Bộ Tổng tham mưu “có phần căng thẳng”: trong khi Diệp Kiếm Anh không ngớt hỏi tình hình tiền tuyến thì Đặng Tiểu Bình hút thuốc “hết điếu này sang điếu khác”.

Đến 2 giờ chiều, tin thắng trận báo về, Diệp được mô tả là đã phấn khích hô lên liên tiếp “đánh hay lắm”, còn Đặng hít sâu một hơi thuốc trước khi dập điếu rồi nói với Diệp: “Ta đi ăn cơm thôi”.

Sau thắng lợi ban đầu, Đặng và Diệp, với sự ủng hộ của Mao, lệnh Quân khu Quảng Châu đánh chiếm tiếp ba đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là San Hô), Hữu Nhật (Trung Quốc gọi là Cam Tuyền) và Quang Ảnh (Trung Quốc gọi là Kim Ngân). Lý do, theo truyền thông nhà nước Trung Quốc, là để “dạy cho quân xâm lược Nam Việt một bài học”.

Khoảng nửa năm sau Hải chiến Hoàng Sa, tháng 7/1974, Mao Trạch Đông được chẩn đoán mắc chứng xơ cứng teo cơ một bên (ALS), khiến cơ thể mất từ từ khả năng điều khiển vận động. Đó chỉ là một trong số nhiều bệnh mà Mao đã mang sẵn từ trước.

Sau khi Mao chết năm 1976, Đặng Tiểu Bình trở thành lãnh đạo tối cao của Trung Quốc, dẫn dắt công cuộc cải cách và mở cửa kinh tế của nước này.

Tuy lập trường chính thức của Trung Quốc trong giai đoạn đó là “gác lại vấn đề chủ quyền, cùng nhau phát triển”, nhưng dưới thời Đặng, quân Trung Quốc và Việt Nam còn một lần nữa chạm trán trong Hải chiến Gạc Ma 1988.

Hải chiến Hoàng Sa 1974 đánh dấu một trong những bước quan trọng để từ đó Trung Quốc đẩy mạnh chiến lược bành trướng trên Biển Đông.

Đây cũng là thời điểm mang tính bước ngoặt trong lịch sử phát triển hải quân của Trung Quốc thời hiện đại, từ chỗ “hầu như không có khả năng chiến đấu trên biển” trở thành một trong những lực lượng hải quân hàng đầu thế giới.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 21 trang (206 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [18] [19] [20] [21]