Trang trong tổng số 18 trang (175 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [15] [16] [17] [18]

Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 10:
Lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhLAKEqaQSu_5p4d5HhAGjTrb6-SN5DtdEMCS8gpCiLzl3pHDc-55CbE3bDVlXW4FzRKF5fH5Htb-4iT97E73nImowiohA-SML0qFCutFgYfpaSWoI2P-VTgIWqFwZm5cqkwyXUr-dAnGRZCSUD3pNIHPF7A05XAW3oChEpDU5JrgvwNpmvQWxfBc8YHvrF/w512-h640/0-0.PNG


Trong các tài liệu thâu giữ từ dinh Độc Lập và Phủ Đặc uỷ trung ương tình báo của chính quyền Sài Gòn có lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm viết từ mặt trận Phước Long (hồ sơ số 568 - Font ĐIICH)...
Thư viết đúng dịp lễ Giáng sinh - gửi linh mục Cao Văn Luận:

Phước Long ngày 25.12.1974
Kính trình cha Chính,
Tuyệt vọng rồi cha Chính ơi! Sáng ngày 19.12 (1974), con đã gọi điện kêu cứu cha chính là vì thấy Đức Phong, cầu 37, Bù Na, cầu 111, Bố Đức, đã mất hết, còn quanh Tỉnh một hai cây số có Việt Cộng xuất hiện (...) Chiều 19, con thúc Hội đồng Tỉnh nhóm họp và mời đại tá (tỉnh trưởng) đến để cùng xét lại tình hình. Suốt hơn hai tiếng đồng hồ con đã tay đôi đấu khẩu với đại tá, con đã nói thẳng cho ông biết tình cảnh đồng bào, tinh thần của lính, sĩ quan qua những sự kiện cụ thể. (...) Bố Đức vừa là quân lỵ mới, vừa là trung tâm tỵ nạn - sau khi giải toả được 3 ngày, sang Chúa nhật 22 lại bị đánh và 4 giờ chiều thì bị tràn ngập, bỏ chạy tán loạn. Xứ Phước (?) sang thứ hai cũng mất luôn. Thế là Phước Long chỉ còn chút quân lỵ Phước Bình và tỉnh lỵ Phước Long mà thôi. Hiện nay Việt Cộng đặt đại liên và hoả tiễn phòng không nhiều nơi, nhất là dọc từ Bố Đức về Phước Bình. Mỗi lần máy bay lên là nó bắn. Lúc 11 giờ một chiếc C 130 lên tiếp tế vừa décoller thì bị hoả tiễn (bắn) cháy, lao đầu xuống tan tành.

Thấy thiết giáp T54, súng phòng không, xe molotova chạy cả đoàn, đồng bào, quân đội, và sĩ quan đều chỉ nghĩ đến chuyện một chạy hai chết! Ông Tỉnh (tỉnh trưởng) không dám nói thật với thượng cấp nên tìm cách che giấu, không cho đồng bào đi, chúng con can thiệp cũng có cấp giấy đi máy bay nhưng dặn không cho ai (theo) lên máy bay. Đồng bào kéo nhau đến bãi đáp chờ cả tuần mà không đi được. Một số công chức, nhà giàu, họ hối lộ với phi công gunship thì thoát thân được với giá hai ba chục ngàn một người. Thế thì con nhà nghèo sao đi được.

Sau khi thấy CIA ở Biên Hoà gọi nhân viên ở Phước Long về, chúng con biết là họ được (lệnh) bỏ Phước Long và con đã xin giấy cho thầy giảng (...) chạy, nhưng chờ chực 3 ngày mà chưa đi được. Còn con chưa giải quyết được, vì giáo dân chưa đi nên cầu cứu - từ sáng Chúa nhật tất cả giáo dân Bố Đức, Phước...(?), chạy luôn về tỉnh hết. Thật là bi thảm, chết đến nơi, phen này họ cần sự hiện diện của chúng con, nên chúng con đã cam kết với đồng bào là nếu đồng bào không đi được thì chúng con sống chết như họ.

Nghe ngóng đài BBC, Manila, thì chắc chắn là Phước Long sẽ mất... Hiện nay nhìn vào tình hình Việt Cộng, nhìn vào tinh thần lính (Sài Gòn), nhìn vào sự tăng viện nhỏ giọt của quân đoàn, không ai có thể tin là Phước Long cầm cự nổi nếu bị đánh. Tất cả vợ con từ đại tá đến các ty sở đã đi từ một vài ngày đầu nổ súng. Như vậy không cho dân chạy, định giao luôn cho Cộng sản sao! Chúng con biết lúc này chính phủ không có khả năng nuôi dân tỵ nạn nên không dám tổ chức di tản như năm 1972 (mùa hè đỏ lửa), nhưng ít nữa (hãy) cho dân chạy và họ tự kiếm chỗ ăn ở. Số lính ít ỏi quân đoàn vừa cho lên Phước Long là lính sư đoàn 5, bạc nhược và thua ở Snoul, mệt mỏi nơi chiến trường An Điền, nên chả làm được gì.
Ông Tỉnh nay đang bị dân oán, công chức, quân nhân ghét, làm sao có thể giữ nổi mảnh đất còn lại trước sức mạnh dồi dào về vũ khí lẫn tinh thần của Việt Cộng. Tuyệt vọng, con đã dọn mình chết, đã làm testament và chờ chết - chờ lọt vào tay Việt Cộng và chỉ hy vọng 1% chạy thoát và sống sót khi Việt Cộng tấn công. Đến đây chắc cha Chính biết tinh thần con bị căng thẳng đến độ nào rồi. Nhưng thưa cha Chính, đức tin đã trấn an con, nay con đã chấp nhận và sẵn sàng….
Xin cha Chính thương.

Con (Trần Đức Sâm)

Đến nay, bức thư trên là tài liệu góp phần thông tin chính xác về mặt trận Phước Long ngày ấy và phản ánh phần nào một số nội dung chính trị xã hội liên quan.

Nhận thư ngày 27.12.1974, linh mục Cao Văn Luận đã gửi bản sao lá thư đến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, kèm theo mấy dòng sau (ghép chung hồ sơ số 568 - font ĐIICH: Đệ nhị Cộng hoà - Trung tâm lưu trữ quốc gia II - TP. HCM):

Sài Gòn ngày 27.12.1974

Kính thưa Tổng thống, tôi xin phép đệ trình tổng thống bản sao bức thư của cha Trần Đức Sâm, chánh xứ tỉnh lỵ Phước Long mà tôi vừa nhận được chiều nay do thầy giảng của cha Sâm mang về, để tổng thống biết rõ hơn tình hình bi đát của Phước Long. Nếu còn có thể, xin tổng thống cho lệnh di tản dân chúng theo nguyên vọng của họ.

Trân trọng kính chào tổng thống (ký tên) - Cao Văn Luận.

Cao Văn Luận thụ phong linh mục khoảng 1938-1939, học Trường sinh ngữ Đông Phương Paris 1942-1945, dạy Triết tại trường Quốc Học - Huế từ 1949. Ông đứng ra vận động thành lập Viện Đại học Huế và là Viện trưởng đầu tiên của Viện Đại học Huế từ 7.1957 cho đến ngày bị chế độ Ngô Đình Diệm cách chức vì lý do đã để phong trào sinh viên Huế đấu tranh chống đàn áp Phật giáo. Sau ngày nhà Ngô sụp đổ, linh mục Cao Văn Luận tiếp tục làm Viện trưởng Đại học Huế và từ chức vào tháng 9.1964. Từ đó ông giảng dạy tại Đại học Sư phạm Sài Gòn cho tới năm 1975. Là một giáo sư tận tuỵ, người mở đầu của nền đại học khu vực miền Trung, ông được giới trí thức miền Nam quý trọng. Ông mất tại Chicago (Mỹ) năm 1986, thọ 76 tuổi. Lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm gửi ông đã được ông chuyển ngay đến Nguyễn Văn Thiệu như đã nói trên.

Nhưng Thiệu đã không đáp ứng. Và rồi, như cách diễn đạt của các đài phương Tây, toàn bộ tỉnh Phước Long đã “hoàn toàn do Cộng sản kiểm soát kể từ ngày 6.1.1975” - trở thành ngòi pháo làm bùng nổ dây chuyền các mặt trận tiếp đó, dẫn đến sự kiện 30.4 vào bốn tháng sau. Còn lúc ấy - ngay khi tiếng súng vừa dứt - Hà Nội luôn chờ đợi câu trả lời về hiệu quả của đòn “trinh sát chiến lược” giáng vào Phước Long do một điệp viên ngoại hạng từ Sài Gòn gởi ra: Phạm Xuân Ẩn…
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 11:
Phạm Xuân Ẩn với những “kẻ thù anh em“

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhFQwVc36HZTTk1-bOCTg78buT4b2j42IqcsjywQnymaDTmMpjyUaVYJWLbwNQfHbdJDFZjSrqpqb1me-SEjBXg5Wlr00zA24oxuK-ZiN6aTbaKv5KCXcZmmhei3LygzWc-erQnwHV8-Z5r_2IstZZt2xk1Ec_AHeJ39VZCrA8-o_55chnGqFpJxnWffSsU/w500-h640/0-1.PNG


Phạm Xuân Ẩn là một trong những điệp viên hoàn hảo và có tư chất “bình đẳng giác” cao đẹp - vì ông không xem đối thủ của mình mãi mãi là những “kẻ thù không đội trời chung” mà là những “kẻ thù anh em” có thể ngồi đối ẩm trò chuyện bên nhau sau cuộc cờ tàn...

Dẫn chứng trường hợp Cao Giao ở Đài Phát thanh Catinat:
Cao Giao (sau 30.4.1975) bị ghép tội “gián điệp CIA” và bắt biệt giam 4 tháng (từ 6.1978), tiếp đó chuyển đến khám Chí Hoà chung phòng với 72 tù nhân khác. Ở ngoài, Phạm Xuân Ẩn vẫn thường xuyên đến thăm gia đình Cao Giao, mang theo thực phẩm thuốc men để trợ giúp. Ẩn nói: “tôi cố gắng hết sức mình để chăm sóc gia đình Cao Giao trong khi ông ấy đang ở trong tù”. Mãn hạn, Cao Giao nói gì? Nói rằng:
- “Phạm Xuân Ẩn là một kẻ lý tưởng hoá bị vỡ mộng và (bị) lừa dối”!
Đáp lại, Phạm Xuân Ẩn ôn tồn bảo đại khái chủ nghĩa Cộng sản tuy không thành, nhưng vẫn là “giấc mộng đẹp”. Khi biết Phạm Xuân Ẩn hoạt động tình báo cho Cộng sản Việt Nam “Cao Giao cũng bỏ qua cho Phạm Xuân Ẩn, bởi vì (như Cao nói): “chúng tôi là người Việt Nam” anh em. (Larry Berman - Điệp viên hoàn hảo - NXB Thông Tấn 2007, tr.401).

Trường hợp khác: Theo Larry Berman (sđd tr.398), Nguyễn Xuân Phong (bạn Phạm Xuân Ẩn) từng nằm trong nội các chính quyền Sài Gòn “giữ chức Bộ trưởng phụ trách đàm phán ở Paris” - đã quyết định về lại Sài Gòn vào giai đoạn hấp hối của chính quyền VNCH (25.4). Ông Phong chấp nhận mọi rủi ro đang chờ đợi, chỉ vì ông không thể bỏ cha mẹ già yếu của mình chưa được di tản. Cũng chính vì chữ hiếu mà ông Phong cám ơn và từ chối lời mời của đại sứ Mỹ Graham Martin để không phải ra đi một mình (bỏ lại song thân).

Khi Quân giải phóng tiến chiếm Sài Gòn, Nguyễn Xuân Phong đã ra trình diện chính quyền cách mạng theo mệnh lệnh của tướng Trần Văn Trà rằng: “tất cả các quan chức của chế độ cũ từ cấp đứng đầu ngành, các sĩ quan thuộc các lực lượng vũ trang từ cấp trung tá trở lên phải ra trình diện để đi học tập cải tạo tập trung 30 ngày, từ tháng 5 đến hết tháng 6 (1975). Các viên chức và sĩ quan quân đội còn lại sẽ học tập cải tạo thời gian 7 ngày tại địa phương nơi họ cư trú”. Và: “cứ mỗi ngày trôi qua, bạn bè của Phạm Xuân Ẩn lại biến mất dần để đi học tập”.

Rồi “sau khi đã kết thúc 30 ngày, Nguyễn Xuân Phong và bao người khác vẫn chưa được trở về nhà, mặc dù lệnh của tướng Trần Văn Trà là chỉ tập trung học tập thời gian 30 ngày. Sở dĩ có thay đổi này vì một số cán bộ từ Hà Nội mới vào miền Nam đã xem xét lại mệnh lệnh của tướng Trần Văn Trà, cho dù ông Trà không tán thành. Nguyễn Xuân Phong nhớ lại: “Chúng tôi được giảng giải rằng, chúng tôi có lỗi lầm là chống lại Tổ quốc (người ta không dùng cụm từ “những kẻ phản bội tổ quốc”) - nhưng chúng tôi được giải thích cho hiểu một cách rõ ràng rằng chúng tôi đã có tội tiếp tay cho Mỹ - đế quốc xâm lược kiểu mới, dẫn đến sự chết chóc và huỷ hoại đối với người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chúng tôi không được biết liệu có bị đưa ra xử trước toà án hay không, hay là nếu xử án thì xử trên cơ sở nào, hoặc tội như vậy thì bị tù trong bao lâu, hay là thời gian giam giữ chúng tôi được xác định như thế nào, theo từng cá nhân hay tập thể”. Không biết!

“Cuộc hành trình đi vào thế giới “không biết” của Nguyễn Xuân Phong bắt đầu từ nhà tù Thủ Đức tháng 6.1975. Tại đây, Phong phải chung phòng giam với 20 người khác. Sau vài tuần, các tù nhân được lệnh ra tập trung ngoài sân, bị xích từng đôi một rồi đưa lên một chiếc xe tải quân sự để ra phi trường. Sau đó, họ được chở đến sân bay Gia Lâm, rồi chuyển tiếp đến Trại A15 vẫn được coi là cơ sở phụ của “Hilton Hà Nội”. Trại này cách Hà Nội 50 km và trước kia từng là nơi giam giữ nhiều tù binh Mỹ. Nguyễn Xuân Phong và 1.200 bạn tù phải ở trong trại đó cho đến khi nào được phép trở về. Đối với trường hợp của Nguyễn Xuân Phong, ngày được trở về là tháng 12.1979; còn nhiều người khác, ngày trở về là 10 hoặc thậm chí 15 năm sau”. (Larry Berman, sđd. tr.398)

Từ ngày ra tù (1979) đến suốt 20 năm sau (Nguyễn Xuân Phong kể): “Phạm Xuân Ẩn và tôi thường gặp nhau mỗi tuần vài lần. Hầu hết những lần gặp nhau đó, chúng tôi ngồi uống cà phê bên đường phố Đồng Khởi (đường Tự Do cũ) để thư giãn và cũng để quên đi quá khứ. Thậm chí, các nhân viên an ninh (chế độ mới) chụp ảnh chúng tôi, họ cố gắng tìm hiểu xem chúng tôi đang trao đổi gì!” (Larry Berman, sđd. tr.411).

Với mối tương giao rộng rãi, Phạm Xuân Ẩn làm bạn với các nhân vật như Cao Giao và Nguyễn Xuân Phong kể trên và nhiều tướng lĩnh VNCH khác, cùng các nhà báo nổi danh đương thời như David Halberstam hoặc Sheehan, kể cả người đứng đầu của cơ quan tình báo Mỹ CIA như William Colby (sau 1975, Colby đã hai lần sang Việt Nam và cả hai lần đều đề nghị được gặp Phạm Xuân Ẩn). Nhờ mối giao tiếp đặc biệt trên, Phạm Xuân Ẩn đã nắm được những “tin tức đầu nguồn” từ Toà đại sứ Mỹ, Phủ Tổng thống, Phủ Thủ tướng, Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH, Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, Phủ Đặc uỷ trung ương tình báo của chính quyền Sài Gòn, nắm cả bản báo cáo bí mật của Viện Nghiên cứu Chiến lược quân đội (VNCH) do tướng Nguyễn Xuân Triển làm giám đốc Viện (chỉ đạo biên soạn và đúc kết) với xác định có tầm sinh tử rằng: “Ban Mê Thuột là điểm yếu của Tây Nguyên trong hệ thống phòng thủ chiến thuật của quân đội Sài Gòn nên rất dễ bị tấn công và chọc thủng”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá rất cao các báo cáo đại thể như trên (của Phạm Xuân Ẩn). Nhưng đến 30.4, Phạm Xuân Ẩn vẫn “chưa nói được” về thân phận mình, để - như lời ông - vẫn phải “sống trong cô đơn và ngờ vực”. Mãi vài tuần sau, một đặc vụ của cách mạng phái đến gặp ông để nói một câu gọn lỏn:

- “Phạm Xuân Ẩn, ông thì OK!” (?)
Giao Hưởng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 11:
Phạm Xuân Ẩn với những “kẻ thù anh em“

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhFQwVc36HZTTk1-bOCTg78buT4b2j42IqcsjywQnymaDTmMpjyUaVYJWLbwNQfHbdJDFZjSrqpqb1me-SEjBXg5Wlr00zA24oxuK-ZiN6aTbaKv5KCXcZmmhei3LygzWc-erQnwHV8-Z5r_2IstZZt2xk1Ec_AHeJ39VZCrA8-o_55chnGqFpJxnWffSsU/w500-h640/0-1.PNG


Phạm Xuân Ẩn là một trong những điệp viên hoàn hảo và có tư chất “bình đẳng giác” cao đẹp - vì ông không xem đối thủ của mình mãi mãi là những “kẻ thù không đội trời chung” mà là những “kẻ thù anh em” có thể ngồi đối ẩm trò chuyện bên nhau sau cuộc cờ tàn...
Dẫn chứng trường hợp Cao Giao ở Đài Phát thanh Catinat:
Cao Giao (sau 30.4.1975) bị ghép tội “gián điệp CIA” và bắt biệt giam 4 tháng (từ 6.1978), tiếp đó chuyển đến khám Chí Hoà chung phòng với 72 tù nhân khác. Ở ngoài, Phạm Xuân Ẩn vẫn thường xuyên đến thăm gia đình Cao Giao, mang theo thực phẩm thuốc men để trợ giúp. Ẩn nói: “tôi cố gắng hết sức mình để chăm sóc gia đình Cao Giao trong khi ông ấy đang ở trong tù”. Mãn hạn, Cao Giao nói gì? Nói rằng:
- “Phạm Xuân Ẩn là một kẻ lý tưởng hoá bị vỡ mộng và (bị) lừa dối”!
Đáp lại, Phạm Xuân Ẩn ôn tồn bảo đại khái chủ nghĩa Cộng sản tuy không thành, nhưng vẫn là “giấc mộng đẹp”. Khi biết Phạm Xuân Ẩn hoạt động tình báo cho Cộng sản Việt Nam “Cao Giao cũng bỏ qua cho Phạm Xuân Ẩn, bởi vì (như Cao nói): “chúng tôi là người Việt Nam” anh em. (Larry Berman - Điệp viên hoàn hảo - NXB Thông Tấn 2007, tr.401).
Trường hợp khác: Theo Larry Berman (sđd tr.398), Nguyễn Xuân Phong (bạn Phạm Xuân Ẩn) từng nằm trong nội các chính quyền Sài Gòn “giữ chức Bộ trưởng phụ trách đàm phán ở Paris” - đã quyết định về lại Sài Gòn vào giai đoạn hấp hối của chính quyền VNCH (25.4). Ông Phong chấp nhận mọi rủi ro đang chờ đợi, chỉ vì ông không thể bỏ cha mẹ già yếu của mình chưa được di tản. Cũng chính vì chữ hiếu mà ông Phong cám ơn và từ chối lời mời của đại sứ Mỹ Graham Martin để không phải ra đi một mình (bỏ lại song thân).
Khi Quân giải phóng tiến chiếm Sài Gòn, Nguyễn Xuân Phong đã ra trình diện chính quyền cách mạng theo mệnh lệnh của tướng Trần Văn Trà rằng: “tất cả các quan chức của chế độ cũ từ cấp đứng đầu ngành, các sĩ quan thuộc các lực lượng vũ trang từ cấp trung tá trở lên phải ra trình diện để đi học tập cải tạo tập trung 30 ngày, từ tháng 5 đến hết tháng 6 (1975). Các viên chức và sĩ quan quân đội còn lại sẽ học tập cải tạo thời gian 7 ngày tại địa phương nơi họ cư trú”. Và: “cứ mỗi ngày trôi qua, bạn bè của Phạm Xuân Ẩn lại biến mất dần để đi học tập”.
Rồi “sau khi đã kết thúc 30 ngày, Nguyễn Xuân Phong và bao người khác vẫn chưa được trở về nhà, mặc dù lệnh của tướng Trần Văn Trà là chỉ tập trung học tập thời gian 30 ngày. Sở dĩ có thay đổi này vì một số cán bộ từ Hà Nội mới vào miền Nam đã xem xét lại mệnh lệnh của tướng Trần Văn Trà, cho dù ông Trà không tán thành. Nguyễn Xuân Phong nhớ lại: “Chúng tôi được giảng giải rằng, chúng tôi có lỗi lầm là chống lại Tổ quốc (người ta không dùng cụm từ “những kẻ phản bội tổ quốc”) - nhưng chúng tôi được giải thích cho hiểu một cách rõ ràng rằng chúng tôi đã có tội tiếp tay cho Mỹ - đế quốc xâm lược kiểu mới, dẫn đến sự chết chóc và huỷ hoại đối với người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chúng tôi không được biết liệu có bị đưa ra xử trước toà án hay không, hay là nếu xử án thì xử trên cơ sở nào, hoặc tội như vậy thì bị tù trong bao lâu, hay là thời gian giam giữ chúng tôi được xác định như thế nào, theo từng cá nhân hay tập thể”. Không biết!
“Cuộc hành trình đi vào thế giới “không biết” của Nguyễn Xuân Phong bắt đầu từ nhà tù Thủ Đức tháng 6.1975. Tại đây, Phong phải chung phòng giam với 20 người khác. Sau vài tuần, các tù nhân được lệnh ra tập trung ngoài sân, bị xích từng đôi một rồi đưa lên một chiếc xe tải quân sự để ra phi trường. Sau đó, họ được chở đến sân bay Gia Lâm, rồi chuyển tiếp đến Trại A15 vẫn được coi là cơ sở phụ của “Hilton Hà Nội”. Trại này cách Hà Nội 50 km và trước kia từng là nơi giam giữ nhiều tù binh Mỹ. Nguyễn Xuân Phong và 1.200 bạn tù phải ở trong trại đó cho đến khi nào được phép trở về. Đối với trường hợp của Nguyễn Xuân Phong, ngày được trở về là tháng 12.1979; còn nhiều người khác, ngày trở về là 10 hoặc thậm chí 15 năm sau”. (Larry Berman, sđd. tr.398)
Từ ngày ra tù (1979) đến suốt 20 năm sau (Nguyễn Xuân Phong kể): “Phạm Xuân Ẩn và tôi thường gặp nhau mỗi tuần vài lần. Hầu hết những lần gặp nhau đó, chúng tôi ngồi uống cà phê bên đường phố Đồng Khởi (đường Tự Do cũ) để thư giãn và cũng để quên đi quá khứ. Thậm chí, các nhân viên an ninh (chế độ mới) chụp ảnh chúng tôi, họ cố gắng tìm hiểu xem chúng tôi đang trao đổi gì!” (Larry Berman, sđd. tr.411).
Với mối tương giao rộng rãi, Phạm Xuân Ẩn làm bạn với các nhân vật như Cao Giao và Nguyễn Xuân Phong kể trên và nhiều tướng lĩnh VNCH khác, cùng các nhà báo nổi danh đương thời như David Halberstam hoặc Sheehan, kể cả người đứng đầu của cơ quan tình báo Mỹ CIA như William Colby (sau 1975, Colby đã hai lần sang Việt Nam và cả hai lần đều đề nghị được gặp Phạm Xuân Ẩn). Nhờ mối giao tiếp đặc biệt trên, Phạm Xuân Ẩn đã nắm được những “tin tức đầu nguồn” từ Toà đại sứ Mỹ, Phủ Tổng thống, Phủ Thủ tướng, Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH, Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia, Phủ Đặc uỷ trung ương tình báo của chính quyền Sài Gòn, nắm cả bản báo cáo bí mật của Viện Nghiên cứu Chiến lược quân đội (VNCH) do tướng Nguyễn Xuân Triển làm giám đốc Viện (chỉ đạo biên soạn và đúc kết) với xác định có tầm sinh tử rằng: “Ban Mê Thuột là điểm yếu của Tây Nguyên trong hệ thống phòng thủ chiến thuật của quân đội Sài Gòn nên rất dễ bị tấn công và chọc thủng”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá rất cao các báo cáo đại thể như trên (của Phạm Xuân Ẩn). Nhưng đến 30.4, Phạm Xuân Ẩn vẫn “chưa nói được” về thân phận mình, để - như lời ông - vẫn phải “sống trong cô đơn và ngờ vực”. Mãi vài tuần sau, một đặc vụ của cách mạng phái đến gặp ông để nói một câu gọn lỏn:
- “Phạm Xuân Ẩn, ông thì OK!” (?)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 12:
Trần Kim Tuyến: thoát hiểm trong gang tấc!

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhE72S_Stkta4xqsrU_bK1nYtOG-BnHIY6UAwquuDIAqy95eyaH9A_BUmwFZEl0_l5pKjyH9oPw6ybtZMfTI5andfovnbj5bffBYL6jwBoqLVQ4rZYg_tLLeKUtG_hJ-Iol71DNakswSu1v3N7iJdKV5pbGZYBPa-CMYUiwkmqcoXBgP0ALmXXC-duXyn1u/w640-h586/0-1.PNG


Phạm Xuân Ẩn đã đưa “trùm mật vụ” (?) Trần Kim Tuyến lên chuyến trực thăng cuối cùng của CIA để thoát khỏi Sài Gòn trong đường tơ kẻ tóc...
Trần Kim Tuyến (theo tài liệu của Cục tình báo trung ương Mỹ CIA) nắm trọng trách: “Trưởng Phòng Nghiên cứu chính trị và xã hội (S.E.P.E.S), tức Phòng tình báo và an ninh của dinh Tổng thống (Ngô Đình Diệm)… Tuyến có vóc người nhỏ thó, cao chưa đến 1,50m và nặng chắc dưới 50 kg. Ông giữ một thái độ ung dung của nhà nho xưa, móng tay út để rất dài một cách trau chuốt… Ẩn mình trong bóng tối, quyền hành Tuyến nắm giữ đã gây nên nhiều lời đồn đại, xoi mói (nhưng) trong khi thực tế ông ta chỉ là một trong những người “Tuyếc trẻ” - Jeunes Tures: nhóm trí thức và sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ có xu hướng tự do và cải cách” (William Colby - sđd Kỳ 3, tr. 60).
Từ xu hướng đó, Trần Kim Tuyến đứng chân trên chính trường Sài Gòn theo hai ngả. Một mặt, ông tuân thủ các mệnh lệnh xuất phát từ chính sách “gia đình trị” của Ngô Đình Diệm (tổng thống) và Ngô Đình Nhu (cố vấn tổng thống) cùng bà Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu). Mặt khác, Trần Kim Tuyến lại “tìm cách mở tiến trình chính trị rộng hơn” (dân chủ hoá) nên bị hai ông Diệm - Nhu cách ly, đưa đi công cán ở Ai Cập vào cuối nền Đệ nhất Cộng hoà (1954 - 1963).

Sang cuối thời Đệ nhị Cộng hoà (tổng thống: Nguyễn Văn Thiệu), Trần Kim Tuyến bị kẹt lại Sài Gòn (29.4.1975). Nếu Phạm Xuân Ẩn muốn bắt giữ Trần Kim Tuyến vào thời điểm đó hẳn nhiên sẽ dễ hơn trở bàn tay. Nhưng ông đã ứng xử ngược lại: cứu Tuyến! Điều đó gây phiền hà không ít cho Phạm Xuân Ẩn về sau. Vì, cơ quan an ninh phản gián Hà Nội nhiều lần thắc mắc tại sao Phạm Xuân Ẩn giúp một “con cá lớn” như Tuyến vọt thoát khỏi “lưới” nhà?

Ông giải thích (cũng nhiều lần) với họ:

Bởi, Trần Kim Tuyến bạn ông, nên ông giúp chỉ thuần vì “mệnh lệnh của trái tim” chứ không vì gì khác. Song mối ngờ vực vẫn chưa hết. Nên có lần Phạm Xuân Ẩn nói “trung ương” (chỉ Hà Nội) nghi bất cứ ai (ở Sài Gòn) từng tiếp xúc với Mỹ “đều có thể là CIA - kể cả tôi”. Riêng việc đưa Trần Kim Tuyến ra đi, lược kể:

Chiều 29.4.1975, Trần Kim Tuyến nhiều lần liên lạc với các sứ quán Mỹ, Anh, Pháp bất thành - đã khẩn khoản nhờ đến Phạm Xuân Ẩn. Nhận lời, ông Ẩn lái chiếc xe hơi Renault màu xanh lá cây của mình đưa ông Tuyến vòng đến sứ quán Mỹ, nhưng không vào được. Cả hai quay về văn phòng Tạp chí Time (nơi Phạm Xuân Ẩn cộng tác) đóng tại Khách sạn Continental và được Tom Polgar (Trưởng trung tâm CIA ở Sài Gòn) nhắn tin (qua nhà báo Dan Southerland) bằng điện thoại là bất cứ giá nào Trần Kim Tuyến cũng phải đến ngay toà nhà 22 đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng - nơi CIA đặt các phòng ban trực thuộc trên ngót 8 tầng lầu). Và sân thượng tầng thứ 9 hiện đang trở thành bãi đáp để trực thăng bốc đi, với khoảng 20 - 30 người đứng chờ (di tản) trong đó có trung tướng Trần Văn Đôn (xem thêm Kỳ 9):

“Khi Trần Văn Đôn lên được tầng thượng của toà nhà, thì Phạm Xuân Ẩn và Trần Kim Tuyến đi xe hơi cũng vừa đến. Trần Kim Tuyến đã không gặp may như Trần Văn Đôn (bởi) những người lính gác đã đóng cổng và khoá lại. Phạm Xuân Ẩn liền phanh gấp cho xe hơi dừng lại, nhảy ra quát: “Theo lệnh của đại sứ (Graham Martin), người này (Trần Kim Tuyến) phải được cho vào!” (Larry Berman, sđd Kỳ 11, tr. 377).

Dầu vậy những người lính gác vẫn khăng khăng từ chối, đẩy ra, nhất định không để một ai, kể cả Trần Kim Tuyến (người có danh sách do đại sứ Martin trao đến), được lọt vào toà nhà CIA vào lúc chiếc trực thăng cuối cùng vừa đáp xuống nóc nhà và chuẩn bị cất cánh. Phạm Xuân Ẩn với Trần Kim Tuyến vẫn còn đứng dưới đất, ngoài cổng.

Rõ là “tình thế có vẻ vô vọng”, nhất là khi cánh cổng bằng thép đang từ từ khép lại. Đột nhiên, dường như theo phản ứng khởi lên từ một năng lực tiềm ẩn, Phạm Xuân Ẩn đã “chạy lại dùng tay trái chặn cổng, rồi lấy tay phải đẩy mạnh Trần Kim Tuyến với dáng người bé nhỏ chui qua cổng - khe hở lúc đó chỉ còn khoảng chưa đầy 46cm - không có thời gian cho hai người ngỏ lời tạm biệt và cảm ơn. Phạm Xuân Ẩn nói “Chạy!”- cùng lúc đó, hai hàng nước mắt bỗng lăn xuống gò má của ông - Trần Kim Tuyến cũng khóc và chẳng thể nói được điều gì ngoài câu: “tôi sẽ không bao giờ quên!”.

Larry Berman thuật tiếp: “Thang máy trong toà nhà không hoạt động khiến Trần Kim Tuyến phải chạy bộ 8 tầng mới lên đến sân thượng. Mệt muốn đứt hơi. Những người di tản cuối cùng đang bước lên trực thăng. Đứng bên ngoài, Phạm Xuân Ẩn lòng dạ rối bời, lo cho Trần Kim Tuyến không kịp lên máy bay. Mãi đến khi ông (Phạm Xuân Ẩn) nhìn thấy cánh tay của Trần Văn Đôn thò ra ngoài cửa (trực thăng) đang mở” để nhấc dáng người thấp bé của Trần Kim Tuyến lên theo, bấy giờ ông mới an tâm, quay về... (Larry Berman, sđd tr. 379).

Thoát ra nước ngoài, Trần Kim Tuyến viết một lá thư nhờ Henry Kamm bí mật trao Phạm Xuân Ẩn bày tỏ lòng tri ân đã cứu mình qua cơn hoạn nạn. Đáp lại, Phạm Xuân Ẩn cũng bí mật hồi âm, rằng ông giúp ông Tuyến ra đi vì ông biết ông Tuyến rất yêu vợ - mà vợ ông Tuyến cũng rất yêu chồng - lúc ấy bà lại đang mang thai. Nên, theo lời Phạm Xuân Ẩn, ông không muốn một cháu bé mới ra đời phải “bị mồ côi”.

Sâu xa hơn, Phạm Xuân Ẩn ghi nhận qua mối quan hệ bằng hữu với Trần Kim Tuyến trong nhiều năm, thì họ Trần (vô tình) đã là một trong những chính khách Sài Gòn tạm gọi nắm “điều kiện ắt có và đủ” để góp một tay hữu hiệu giúp Phạm Xuân Ẩn hoạt động “tình báo chiến lược” giữa lòng chế độ.

Về phần Trần Kim Tuyến, ở nước ngoài, khi nghe giới truyền thông quốc tế đưa tin Phạm Xuân Ần là “tướng tình báo của Cộng sản Hà Nội”, ông Tuyến đã không xem đó là điều “quan trọng” nữa. Bởi, tình bạn của hai người (Phạm Xuân Ẩn - Trần Kim Tuyến) đã vượt qua “ngăn cách chính trị” để vẫn còn nói được với nhau những lời dịu ngọt - như chưa bao giờ có cuộc tương tàn - như vĩnh viễn đẹp (tạm ví) với “tình không biên giới” của Văn Lương: “Lòng còn yêu mãi - dù ở chân mây nhờ cánh chim đem hành lý yêu em…”
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Kỳ 13:
Phạm Xuân Ẩn: Triệu phú thời gian?

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEieYO0O6vywht1_2AC-qE8VdME-eEVcMdOyLeLN14CMCgHUoorWTD9eJ4jE61wXOL9BA8811e-su0wqnQl1291Yv78-i9iwTDGBNAwr_fZTEIq75T2lRGmoasSYjkBgw0I4c5k_EKzz6yJHC4K53PkBNepuv503FExIt2MZGImOHIMlHFQ2FJ0jcyy8eOfE/w640-h450/0-1.PNG


Phong Anh hùng xong, Phạm Xuân Ần được đưa đi học một khoá “bồi dưỡng chính trị” vì nhiều lý do, trong đó một phần bởi “ông đã sống quá lâu với… người Mỹ”!

Ông vẫn còn “khâm phục người Mỹ” dầu Mỹ đã “thua cuộc”. Ông nói với Larry Berman - giáo sư khoa học chính trị trường Đại học California - Davis, được ông chọn để chính thức viết về những hồi ức do chính ông kể, rằng:

- “Tôi đã sống và làm việc với người Mỹ trong thời gian rất dài. Tôi biết họ là những người tốt (…) tôi chẳng có lý do gì để ghét người Mỹ, cũng giống như những người Mỹ biết tôi chẳng có lý do gì để ghét tôi” (Điệp viên hoàn hảo, Larry Berman, Nguyễn Đại Phượng dịch, sđd Kỳ 11, tr. 466).

Những phát biểu đại khái như trên khiến Hà Nội thấy cần phải “giúp” Phạm Xuân Ẩn “lập trình lại tư duy”. Nên, họ đã đưa ông vào Học viện chính trị cao cấp ở Hải Dương (gần Hà Nội) trong 10 tháng (từ 8.1978 đến 6.1979) để có dịp “học hỏi” về chủ nghĩa Mác Lênin. Ông cũng vui vẻ, nói thẳng:

- Tôi cần phải đến đó (…) Tôi hiểu nhiều về hệ thống Mỹ hơn là hệ thống này (xã hội chủ nghĩa) do vậy tôi cần phải đọc tất cả các sách kinh điển về lối tư duy kinh tế Nga...

Dầu hết sức chân thành và cố gắng, nhưng sau khoá học ông vẫn tồn đọng nhiều “khó khăn trong quá trình hoà nhập với chế độ mới”. Vì:

“Chế độ mới” vẫn đang còn “những vấn đề” nghi vấn (về tướng tình báo của mình), thể hiện rõ trong mỗi lần có người bạn cũ nào ở Mỹ đến TP. Hồ Chí Minh muốn thăm ông, các quan chức (nội vụ và ngoại vụ) đều viện lẽ ông “không muốn gặp”. Hoặc “không có mặt trong thành phố”. Như trường hợp của Dan Southerland (1982) và Stanley Karnow (1981)… Thực ra, ông rất muốn gặp và chẳng đi đâu xa - mà đang nằm “đọc sách” ở Sài Gòn...

Khoảng thời gian ấy, Phạm Xuân Ẩn không có sự lựa chọn nào khác, ngoài đảm nhận vai trò “ẩm thực” - tự nhận mình là “một ông chồng nội trợ”! Ông cũng “tự trào” ví mình là một “triệu phú”, nhưng là “triệu phú thời gian” (bởi ông rất rảnh). Không phải nhà nước không giao việc, nhưng gồm những lĩnh vực không phù hợp với “tâm” ông. Ví như mời tham gia cơ quan kiểm duyệt, hoặc đào tạo các nhà báo Cộng sản trẻ, ông đều từ chối để “suốt ngày đọc sách, nghe đài BBC và làm những việc lặt vặt cho vợ” - dư thời giờ ra thì… nuôi gà chọi! (Larry Berman - sđd tr.410).

Mãi đến năm 1988, khi ngọn gió đổi mới đã thổi tan đi ít nhiều những đám mây mù trong quan hệ Việt Nam với Mỹ, lần đầu tiên cơ quan an ninh cho phép Phạm Xuân Ẩn gặp Bob Shaplen (bạn cũ) với điều kiện “có một thành viên của Bộ Ngoại giao cùng dự”. Sau cuộc gặp, ông “kiến nghị” để mình với Bob Shaplen “đi ăn tối riêng” tại khách sạn Majestic và được Bộ Ngoại giao đồng ý. Ông nói:

- Đó là lần đầu tiên tôi được phép nói chuyện một mình với một người bạn cũ kể từ khi chiến tranh kết thúc (13 năm sau ngày 30.4 - GH). Tôi không muốn buổi tối hôm đó tan sớm. (sđd tr. 417).

Tin Phạm Xuân Ẩn được “nới lỏng tiếp xúc”, một số bạn cũ của ông liền tìm đến thăm, như Nei Sheehan, Stanley Karnow, Robert Sam Anson… Trong số đó, Safer đã đặt câu hỏi “khá nhạy cảm” về nguyên do nào đã dẫn đến tình trạng trầm kha của cuộc “cách mạng kinh tế” đương thời. Phạm Xuân Ẩn đáp đại ý: không phải những nhà lãnh đạo (của Đảng CSVN) là những người độc ác, nhưng tác động của chủ nghĩa gia trưởng và lý thuyết kinh tế lỗi thời mà họ vẫn đeo bám, đã dẫn đến hậu quả đau lòng…

Nghe vậy, Safer mạnh dạn hỏi:

- Ông có sợ về việc đã nói thẳng thắn như vậy không? Có nguy hiểm gì cho ông không? - Tôi công khai nói điều đó. Tôi đã già quá đến mức không thể thay đổi được nữa. Tôi đã quá già đến mức không thể im lặng được nữa (Larry Berman, sđd tr. 426).

Cuối cùng, Safer hỏi Phạm Xuân Ẩn có hối tiếc điều gì về “quá khứ” không?

Phạm Xuân Ẩn khẳng khái:

- Tôi ghét câu hỏi đó. Tôi đã tự hỏi mình câu hỏi đó cả ngàn lần. Nhưng câu trả lời còn làm cho tôi ghét hơn. Không! Tôi không có gì phải hối tiếc. Tôi phải làm điều ấy. Tôi yêu nước Mỹ, nhưng Mỹ chẳng có quyền gì ở đây…

Cuộc trò chuyện trên được Safer công bố trong một tài liệu xuất bản tại Mỹ. Để sau đó, nhà nước Việt Nam bắn tin với Phạm Xuân Ẩn: (sđd, tr. 427).

- “Cám ơn. (Hãy) về nhà, đọc sách và giữ im lặng!

Song ông vẫn “không im lặng”. Vẫn tiếp tục nói tốt về người Mỹ, khi cần:

- Đảng dạy tôi những điều về hệ tư tưởng. Từ người Mỹ, tôi học được những điều quan trọng khác về nghề báo và phương pháp tư duy. Đó là điều tôi muốn con mình cũng học được như vậy. Tôi muốn con trai tôi có bạn là những người Mỹ.

Và thêm:

- Suốt cuộc đời mình tôi chỉ có hai trách nhiệm. Một là nghĩa vụ của tôi đối với Tổ quốc. Hai là trách nhiệm của tôi đối với những người bạn Mỹ.

Sau những phát biểu ấy, điều bất ngờ gì đã xảy đến với ông?
Giao Hưởng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 18 trang (175 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [15] [16] [17] [18]