Ca dao là tiếng hát trữ tình, là tiếng lòng của quần chúng nhân dân lao động. Người bình dân đã thể hiện và gửi gắm vẻ đẹp tâm hồn vô cùng phong phú của mình vào những câu hát giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc. Trong số những câu thơ trữ tình được lưu truyền rộng rãi trong cả nước, có lẽ ai ai cũng đã từng thuộc câu thơ sau đây của thi sĩ Bàng Bá Lân:
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Ở trên là hai câu thơ cuối trong bài Tiếng hát trong trăng, trích trong tập Tiếng thông reo của ông in năm 1934. Sau đó nhiều người đã thuộc và truyền miệng rộng rãi nên được nhầm tưởng là ca dao.

Dù là người học rộng biết nhiều hay người ít học, không ai không cảm thấy tính chất ca dao của hai câu thơ này. Giản dị và dễ hiểu, như đặc điểm chung của mọi câu ca dao. Không có từ nào khó, từ nào bóng bẩy, hoa mỹ, được gọt giũa, trau chuốt; nhưng câu thơ vẫn hàm chứa một vẻ đẹp trầm lắng như một cô gái không phải là sắc nước hương trời, nhưng lại có một nét duyên ngầm quyến rũ làm đắm say lòng người.

Câu thơ không vận dụng một biện pháp tu từ nào như vẫn thường thấy trong kho tàng ca dao nói chung, như dùng điệp từ, điệp ngữ, các biện pháp so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ... Cũng không hề có bóng dáng một từ láy tượng thanh hay tượng hình nào, nhưng sức gợi tả gợi cảm thì vô cùng. Vậy cái hay và vẻ đẹp của câu thơ được tiềm ẩn ở đâu?

Thể thơ lục bát thuần tuý dân tộc là hình thức quen thuộc mà ca dao vẫn thường sử dụng (đại đa số ca dao trữ tình được sáng tác theo thể lục bát). Một chỉnh thể nghệ thuật trọn vẹn chỉ gồm một đơn vị lục bát, vỏn vẹn 14 chữ. Về cấu trúc ngữ pháp, cả tác phẩm tương đương với một câu trong văn xuôi. Dòng sáu là một hô ngữ bao gồm “hỡi” là từ để gọi, kết hợp với đối tượng gọi là “cô tát nước bên đàng”. Dòng tám là cụm chủ - vị chính bắt đầu bằng từ dùng để hỏi: “sao”, nội dung hỏi là “cô” (chủ ngữ), “múc ánh trăng vàng đổ đi” (vị ngữ).

Chủ thể trữ tình của câu thơ chắc chắn là một chàng trai. Đối tượng trữ tình là một cô gái đang làm công việc đồng áng. Chàng trai đã gọi chính cô gái để hỏi. Cảm hứng trữ tình đã gợi hứng cho chàng trai thốt lên lời ca duyên dáng, đậm đà, giàu sức biểu cảm nói trên chính là cái đẹp. Ở đây có thể là vẻ đẹp của trăng của nước; có thể là vẻ đẹp của cảnh tượng tát nước, cũng có thể là vẻ đẹp của cô gái đang tát nước. Nhưng cũng có thể là tất cả các vẻ đẹp đó hoà quyện lại đã gợi nên nguồn cảm hứng đầy thi vị cho chàng trai.

Không gian nghệ thuật là một cánh đồng ven đường làng mà nông thôn Việt Nam đâu đâu cũng có. Do đó mà câu thơ này không bị giới hạn ở một địa phương nào mà phạm vi lưu truyền, phổ biến của nó là cả nước; và nếu chỉ độc nội dung thì khó mà xác định được xuất xứ của tác phẩm này.

Thời gian nghệ thuật là một đêm có trăng, không phải đêm tối trời như kiểu:
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Sự việc được phản ánh là lao động. Vâng, chính trong lao động mà người bình dân đã phát lộ hết vẻ đẹp hình thức cũng như nội tâm của mình:
Cô kia cắt cỏ bên sông,
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.
Cô kia cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Để anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Hỡi cô gánh nước quang mây,
Cho anh xin gáo tưới cây ngô đồng.
Cô kia đi đường này với ta,
Trồng đậu đậu tốt, trồng cà, cà sai.
Chính lao động là môi trường để tình cảm lứa đôi nảy nở và phát triển. Sự việc được miêu tả là đang diễn biến, không đứng yên. Cả không gian, thời gian và cảnh vật thơ mộng dường như được thức tỉnh, khua động bởi âm thanh của tiếng gàu chao vào mặt nước. Âm thanh đã không được nói đến một cách trực tiếp, cụ thể mà được gợi lên từ công việc được miêu tả.

Bản thân công việc thì giàu ý nghĩa tạo hình thẩm mỹ. Động tác kéo gàu múc nước đòi hỏi tính nhịp nhàng, uyển chuyển nên rất gần với động tác múa. Dáng vẻ, các đường cong mềm mại tuyệt mỹ trên cơ thể người thiếu nữ nhờ động tác chao mình múc nước mà được thể hiện đầy đủ.

Vậy vẻ đẹp của câu thơ này, trong tầng ý nghĩa thứ nhất, ở dòng thơ sáu chữ, có thể nói là vẻ đẹp mang ý nghĩa tạo hình gần với nghệ thuật vũ đạo. Công việc tát nước được diễn ra “bên đàng”. Ai đi qua đi lại trên “đàng” mà không thấy?

Cái đẹp ở đây không chết lặng ở câu chữ mà rất sống động. Không phải hoa ép trong vở, mà hoa đang nở trên cây trong vườn. Không phải cánh bướm đậu, mà là cánh bướm đang bay.

Cũng trong tầng ý nghĩa thứ nhất, ở dòng thơ tám chữ, là sự gặp gỡ giữa thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm. Vẻ đẹp của thiên nhiên cảnh vật đã tác động đến chàng trai, làm nảy sinh cái đẹp trong tâm hồn con người. Chỉ có một tâm hồn nhạy cảm, rộng mở trước thiên nhiên mới có thể rung động trước một vẻ đẹp như vậy. Vẻ đẹp của câu thơ chính là sự kết hợp hài hoà tuyệt vời giữa chất hiện thực và chất trữ tình. Múc nước, tát nước là hoàn toàn hiện thực. Trong nước có in hình bóng trăng. “Múc ánh trăng vàng đổ đi” là sự cất cánh của hiện thực, một chi tiết đầy thi vị và lãng mạn. Chất thơ, chất trữ tình ấy đã đi vào lòng người đọc khiến cho câu thơ trở thành một tác phẩm bất hủ của kho tàng văn học Việt Nam.

Nhưng dường như vẻ đẹp của câu thơ không chỉ dừng lại ở đó. Vì còn có điều gì đó vượt lên trên cái đẹp của trăng, của nước cũng như cái đẹp của chàng trai và cô gái. Phải chăng chính là một sợi dây liên hệ mơ hồ nào đó giữa chàng trai và cô gái ẩn nấp đàng sau vẻ đẹp của cảnh mà người đọc có thể cảm nhận được? “Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?” Rõ ràng đó là lời trách móc của chàng trai đối với cô gái. Sao cô hững hờ, vô tâm, vô tình đến như vậy? Bóng trăng đẹp thế sao cô hững hờ? Không chiêm ngưỡng cái đẹp, cố ý làm ngơ, bỏ qua hay thực tình không nhận ra cái đẹp? Tấm lòng của một người, cảm xúc của một người dành cho cô, sao cô dửng dưng tựa như không hề hay biết?

Cái đẹp, cái hay của câu thơ qua đó còn chính là vẻ đẹp trầm lắng, chìm sâu ở nghĩa hàm ẩn.

Trong một khung cảnh trữ tình, thơ mộng, chàng trai đã có cảm hứng nói lên nỗi lòng của mình. Lời của chàng trai chưa phải là lời tỏ tình. Cô gái chưa có bằng chứng xác đáng nào để khẳng định tình cảm riêng tư ấy. Chỉ mới là khởi đầu làm quen, bắt chuyện. Biết đâu đó chẳng phải là nhịp cầu đầu tiên dẫn dắt họ, người nói và người nghe, đến tình yêu đôi lứa nên duyên nợ vơí nhau?

Mở đầu câu ca là từ “hỡi” cho ta thấy chàng trai không đứng gần cô gái, mà từ xa gọi tới. Đại từ “cô” (chứ không phải “em”) phản ánh sự chưa gần gũi thân quen giữa hai người. Dường như họ chưa quen nhau trước đó. Chàng trai gọi cô gái bằng phương thức hoán du: dùng công việc cô đang làm để gọi cô, như kiểu nhà thơ Nguyễn Bính vẫn gọi trong thơ là “cô lái đò”, “cô hái mơ”..., chứ không gọi bằng tên. Có thể họ chưa biết về nhau nhiều lắm. Có thể hiểu đó là câu hỏi đầu tiên của chàng trai đối với cô gái. Câu hỏi của chàng trai đẹp quá, hay quá, tinh tế và giàu ý tứ quá. Nhưng không rõ việc chàng trai chứng kiến cảnh tát nước đêm trăng của cô gái là tình cờ bắt gặp hay đã có chủ định đợi chờ để gặp từ trước? Có thể tình cờ trông thấy mà cảm xúc, trước đó chưa hề biết nhau. Cũng có thể có sự chờ đợi, trông mong để có được một cơ hội thuận tiện làm quen tuyệt vời như đêm trăng ấy!

Cả câu thơ mười bốn chữ không có từ nào hoa mỹ, trau chuốt, nhưng rất đẹp, rất hay. Đó là cái hay, cái đẹp của cảnh và tình hoà quyện, gắn bó với nhau. Tả cảnh nhưng ngụ biết bao nhiêu tình. Cảm xúc thẩm mỹ mang tính trữ tình và thơ mộng.

Qua câu thơ, ta thấy được tâm hồn của người bình dân rất phóng khoáng, nhạy cảm và tinh tế. Biết rung cảm trước cái đẹp, và biết cách thể hiện sự cảm nhận đó thành lời, thành câu, thành chữ, thành vần điệu để đóng góp cho kho tàng văn học dân gian một tác phẩm hay. Hiện nay, có ý kiến cho rằng hai câu lục bát này do Bàng Bá Lân sáng tác. Dù cho ai làm ra thì cũng đã làm theo phong cách ca dao truyền thống và vì thế mà từ lâu nó đã nhập vào kho tàng ca dao và được lưu truyền rộng rãi trong cả nước. Một câu ca dao trữ tình, tả cảnh ngụ tình rất hay và rất đẹp!

Dựa theo Ngô Thị Bích Tuyên (Đà Nẵng, 1995)