23.00
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
1 người thích

Một số bài cùng tác giả

Đăng bởi Vanachi vào 24/10/2005 13:37

235. Dạy rằng: “Đình, tạ, hồ, ao,
“Giặc, bình hai vẻ thanh tao một làn”.
Chơi vơi, Nguyệt cũng đua đàn:
“Cảnh thanh đã vậy, người càn mới dơ!
“Lấy cờ hôm nọ vâng ra,
240. “Vẩn vơ còn thấy nghỉ qua bên lầu.
“Lưng trời nói những đâu đâu,
“Những tơ nào thắm những cầu nào xanh.
“Những lăm chắp cánh liền cành,
“Đã mềm tóc uốn, lại quanh tơ vò.
245. “Cậy quanh mãi mãi buồn no,
“Khéo dơ thay những chuyện trò khúc nôi,
“Luống còn mỏi mệt đòi thôi,
“Khéo đâu nước chảy hoa trôi hững hờ”.
Lặng tai những tiếng đong đưa,
250. Nhủ rằng: “Người thế săm sưa đã đầy,
“Tự ta đóng nguyệt cài mây,
“Buồng thơm chớ lọt mảy may gió tà.
“Buông rèm ngăn cách bóng hoa,
“Tường đông bướm lại ong qua mặc lòng”.

255. Mấy lời để tạc năm trong,
Hương khuê nào biết văn phòng khát khao.
Từ nghe khách lại cung sao,
Bụi hồng dứt nẻo chiêm bao đi về.
Thẩn thơ mây sớm đèn khuya,
260. Trà gây giọng khát, hương khê mùi sầu.
Dò la Dương tướng dinh đâu,
Tụ hiên phường ấy cửa hầu thâm nghiêm.
Lầu canh chiêng lặng, điêu chìm,
Tịt mù tăm cá, bóng chim mấy trùng.
265. Liền tường bỗng thấy một thung,
Rêu sân lấm tấm, then song lỏng cài.
Sai đồng đến hỏi vườn ai,
Mới hay viễn khách nhà ngoài để không.
Nhởn nhơ hoa nở khói lồng,
270. Non Vu đành có nẻo thông từ rày.
Dương đài đành sẵn mưa mây,
Mà xem chúa Sở vui vầy giấc tiên.
Số thu ngân lạng kể nghìn,
Dốc trang chuốc lấy danh viên cho gần.
275. Sửa làm một chốn phòng văn,
Viện hoa bắc mở, đình xuân nam bày.
Thái hà lấp lánh đông tây,
Sớm đình hương, tối đình mây sẵn sàng.
Hàng khúc hạm, dãy hồi lan,
280. Cài hiên toả lá, rợp đường tản cây.
Một tay nhìn đặt ngoắm xoay,
Nơi chồng cặp sách, nơi bày cuốn thơ.
Nơi cầm, nơi rượu, nơi cờ,
Sẵn đình tả nhớ, khuây chờ đủ nơi.

285. Đào mềm lần đổi dương tươi,
Cư hoàn chưa vẹn, oanh dời đã sang.
Dập dìu mới rủ Diêu lang,
Cậy bề cậu cháu, định đường thông lân.
Rước mừng tự lễ chủ tân,
290. Đầu đuôi sinh đã vân vân rén chiềng;
“Chút trong buổi mới láng giềng,
“Gần soi may được nhờ riêng bóng thừa”
Dương công rằng: “Sự tình cờ,
“Cùng trong thanh khí, những ngờ là ai;
295. “Nguyên xưa chú với tôn đài,
“một rèm một án, dồi mài mấy thu,
“Từ khoa tân mão phân đồ,
“Kẻ mừng gặp bước, người lo trở nghề.
“Cửa Ngô cung kiếm giữ lề,
300. “Trạng đầu may cũng cắm về cửa viên.
“Bể quan khơi vượt cánh thuyền,
“Thổi đưa ra cũng sức trên trao dùng.
“Được rày công tử biết cùng,
“Đã trong khế nhị lại trong lân tình”.
305. Bôi bàn rộn rịp trù dinh,
Tiệc vầy rước tận sau đình Vọng ba.
Dạo theo quanh quất mấy toà,
Dủ dòng tơ liễu thướt tha phất đầu,
Ông vừa liếc lại đến sau rỉ lời:
315. “Trẻ nhà võ vẽ đề chơi,
“Vụng về chả bõ dạy cười làng thơ.
“Giai chương ước được mảnh tờ.
“Hoa tươi thêm vẻ là nhờ bút tươi”.
Dối quanh sinh hãy chọn lời,
320. Thị tỳ ông đã dục đòi truyền qua:
“Nẻo quanh viện sách còn xa,
“Buồng riêng sẵn giấy lấy và trương đây”.
Trên đình nghiên bút đủ bày,
Hầu đề sinh lại dừng tay nghĩ thầm:
325. “Nổi nênh chút nỗi tình thâm,
“Lá ngô man mác doành nhâm dập dềnh.
“Bạch, Tô sẵn mối duyên lành,
“Mượn câu cảnh, ngụ câu tình hoạ may”.
Ngón dao gió táp mưa bay,
330. Tựa thơ vịnh liễu lại bày một thiên.
Đệ trình ông những ban khen:
“Giá này lầu hạc đình liên cũng nhường.
“Phong tình hết tấc yêu đương,
“Lại truyền đem dán ngang tường một bên”.
335. Còn thừa hai mảnh hoa tiên,
Chắt chiu Sinh đã giấu liền biết đâu.
Hầu vui chén hãy kèo mau,
Tạ từ thôi mới giã nhau về nhà.
Đầy thềm vằng vặc gương nga,
340. Bóng cành vẽ vách, mùi hoa đan rèm.

Câu lam từ tỏ lối tìm,
Nhẫn nay chừng đã đầu thềm nửa sương.
Rằng: “Chừng một đoạn sông Tương,
“Người xa luống những mơ màng lòng xa.
345. “Bấy lâu đeo đẳng vì hoa,
“Nào hiên lãm thuý ắt là đâu đây.
“Thơ kia có thấu mà hay,
“Lại trăng kia với khách này tỏ nhau.
“Tiên huê còn đó chớ đâu,
350. “Phấn bình nhường thấu, hương lầu nhường bay.
“Mở phong chẳng nỡ rời tay,
“Người xa gần chút báu này cũng duyên.
“Người tiên tên đã đáng Tiên,
“Gặp tiên bỗng khuất vân thiên mấy trùng”.
355. Trước hiên nương bóng tà song,
Cảo thơ biếng giở, túi đồng để suông.
Giấc hồ nửa gối mơ màng,
Chiền đâu đã lọt tiếng chuông mái tường.
Trời mai gợn trắng, tuôn vàng,
360. Gió đâu sớm đã quấn nhang trước đình.
Tiên thơ trên vách rành rành,
Nhìn chơi nàng đã ghi tình bốn câu.
Vân Hương trình hỏi thơ đâu?
Dạy rằng: “Buổi trước con hầu nói qua:
365. “Khách đâu bên giậu chơi nhà,
“Mệnh đề truyền lấy tiên hoa vội vàng.
“Này xem dòng khoản ghi tường,
“Ngỡ là ai, lại là chàng Lương sinh.
“Trong thơ buộc bện lời tình,
370. “Mượn cây quyến quả mượn cành rủ huê.
“Tưởng đâu ngày một đê mê,
“Biết bao mưu chước đi về đây chi?”
Sổng mồm chiều Nguyệt mới kỳ,
Bước lên trình: “Ngẫm duyên gì chẳng sai.
375. “Song song một vách đôi bài,
“Giai nhân tài tử sánh vai khéo là”.

Quở rằng: “Ai nhủ ngươi mà?
“Đặt bày phong nguyệt, dèm pha cương thường,
“Mây quang leo lẻo lòng gương,
380. “Dễ soi đỉnh giáp doành tương sau này.
“Người đà hoa nguyệt chi đây,
“Ngán thay cho khách những say sưa tình”!
Rước Diêu lại đến thư phòng,
Lễ thường hồi bái mừng ông sang nhà.
385. Khiến xui thực đã ưa là,
Vườn vừa dọn chỉnh, khách đà sang chơi.
Đình Hương dìu dặt chén mời,
Những say vì nghĩa, những vui vì tình.
Chề chà ông mới hỏi sinh:
390. “Bấy lâu tên đã lọt bình đâu chưa?”
Dứt lời khúm núm trình thưa:
“Nợ thường chưa trả, duyên tơ còn dành”.
Khéo thay lời nói hữu tình,
Sàng đông rày mới là đành có nơi.
395. “Rằng: “Ta buổi trẻ theo đòi,
“Mênh mông bể thánh nào vơi phần nào.
“Sông Thù luống những khát khao,
“Rắp đem hàn mặc buộc vào biền mâu.
“May thay giải cấu duyên đâu!
400. Mượn tay vườn hãn mở lầu rừng nho.
“Đi về giảng sớm bàn trưa,
“Quyển vàng hoạ được giải cho ít nhiều”.
Thưa rằng: “Chút phận bọt bèo,
“Hậu sinh đã dám chơi trèo sao nên!
405. “Gẫm mình võ vẽ bút nghiên,
“Biết đâu kinh thánh truyện hiền là đâu?
“Vả nơi rốn bể cửa hầu,
“Ra vào vì chút thẳm sâu ngại ngùng”.
Thuận lời vui chén thung dung,
410. Rằng: “Trong khế nghị là trong một nhà.
“Đã gần chi có điều xa,
“Nhà ta coi vậy, lòng ta lệ gì?
“Tiện đây giáp vách liền vi,
“Cửa lầu mở khép dầu khi đi về.
415. “Rồi ra đôi khoá đôi bề,
“Đành ngăn khép đó, lọ nề nập chi”.
Vội mừng sợ lại sinh nghi,
Mặt nam sẵn thợ, tức thì mở ngay.
Thiên thai đành tỏ lối này,
420. Tiện đường Dương tướng dở say lại nhà.