Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Thơ tự do
Thời kỳ: Hiện đại
17 bài trả lời: 17 thảo luận
2 người thích

Đăng bởi Hoa Xuyên Tuyết vào 26/03/2009 01:20

(Tặng những người lính Binh đoàn 12 - Tổng CTXD Trường Sơn)

               
Trường Sơn
Ai lại về đây
Lặng nhìn hôm nay
Hỏi mây
Hỏi gió
Hỏi cây
Hỏi rừng
Hỏi suối sâu đèo cao
Con đường dang dở hôm nao
Em tôi gồng gánh biết bao vui buồn
Bài ca mưa nắng xanh tuôn
Máu xương đồng đội mạch nguồn núi sông
Niềm tin phấp phới cờ hồng
Tháng năm dầu dãi tấm lòng sắt son.

*

Nước chảy đá mòn (*)
Bàn chân ta đạp dấu chân voi
Tiếng ong bay lấp lánh xanh non màu lá
Rì rầm mạch đất
Mơn man mái tóc làn da
Gió hát gió ca
Khúc ca day dứt
Bài ca làm người.

*

Khành khạch đười ươi
Lá vàng xanh che số phận
Vạch lá, vén mây thấy bao điều lạ
Niềm vui nào bổ chững giữa trời xanh
Đẫm nỗi buồn ngẫng cao đầu đứng dậy
Những bước đi thập thững trong sương
Đại ngàn núi bủa
Thông thống gió trời
Vạm vỡ ngực trần Đam San (**)
Dịu dàng ánh mắt Hơ Nhí (***)
Mái nhà rông ngân nga tiếng chiêng
Uốn lượn dốc đồi mái núi
Thác chảy rì rào, ưu tư
Đôi trai gái tuổi trăng tròn tình tự
Rượu cần vít cong niềm vui
Lời khan ủ men thấp thỏm
Lửa bập bùng tối sáng
Bập bùng tâm tư
Sông - suối - núi - khe ơi.


(*) Tục ngữ Việt Nam.

(**) Đam San là một người anh hùng trong sử thi của người Ê Đê ở Tây nguyên. Là nhân vật chính trong trường ca, sử thi Bài ca về chàng Đam San. Bộ sử thi dài Đăm San (2077 câu), thể hiện nét lịch sử văn hóa của người đồng bào Tây Nguyên.

(***) Hơ Nhí và Hơ Bhí: Theo tục nối dây, chàng Đam San phải lấy hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ, vì không chịu làm theo, chàng đã bị giàng lấy ống điếu gõ vào đầu 7 lần làm cho chết lịm. Sau khi được giàng làm cho sống lại, Đam San đã phải làm theo phong tục và trở thành một vị tù trưởng giàu mạnh, danh tiếng trong vùng. Vì đánh thắng được nhiều tù trưởng khác và bắt được nhiều nô lệ, với bản tính ngang tàng, coi thường thần linh; Đam San đi chặt cây thần sơ-múc, cây đổ đè làm chết cả hai người vợ. Đam San lại vác rìu đi lên trời, cầu xin Trời cứu sống hai người vợ yêu và sau đó lãng mạn hơn nữa là hành trình đi bắt Nữ thần Mặt Trời để làm vợ lẽ, nhưng cuối cùng chàng bị từ chối, tức giận trở về rồi chết trong khu rừng Sáp Đen nhão như bùn nước. Hồn Đam San hóa thành con ruồi đậu vào miệng chi gái là Hơ Âng khiến nàng có mang sinh ra Đam San cháu. Lớn lên, Đam San cháu lại tiếp bước người cậu anh hùng.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (17 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Trần Thị Nương: Lại nói về trái tim người lính

QĐND
- Thượng tá, nhà thơ Nguyễn Anh Nông quê Quảng Xương-Thanh Hóa hiện nay công tác tại Điện ảnh Quân đội nhân dân, hội viên Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Anh đã tốt nghiệp Trường Sĩ quan Lục quân I , Học viện Chính trị, từng công tác ở vùng biên giới phía Bắc, Tây Nguyên và nhiều địa bàn trong cả nước. Gần 30 năm gắn bó với quân đội, Nguyễn Anh Nông đã xuất bản 6 tập sách, trong đó có 5 tập thơ và 1 trường ca viết về Trường Sơn.


Nhà thơ Nguyễn Anh Nông

Nguyễn Anh Nông tâm sự:

- Tôi nhập ngũ vào giữa những ngày chiến tranh biên giới khá khốc liệt. Sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ quan Lục quân 1, tôi tình nguyện ra mặt trận, chiến đấu trong đội hình Binh đoàn 26, Quân khu 1. Hơn 7 năm đóng quân tại biên giới Cao Bằng, giữa khó khăn, gian khổ, giữa cái giá lạnh, cái căng thẳng của một người lính trực tiếp cầm súng bảo vệ Tổ quốc nơi đầu sóng ngọn gió… tôi đã viết hàng trăm bài thơ thấm đẫm tình yêu, khát vọng của người lính đối với quê hương...

- Bạn đọc và đồng nghiệp của anh cho rằng: Thơ của Nguyễn Anh Nông tiềm ẩn nhiều suy nghĩ, trăn trở thẳm sâu của cõi người?

- Tôi thường viết về những gì sâu lắng, trầm tư, trăn trở… của con người, dù trong chiến tranh hay ở giữa thời bình. Giữa cái có, cái không, cái còn, cái mất, cái thiện và cái ác... cũng đã làm tôi xúc động: Này chim bồ câu trắng/ Em sinh ra thế giới đã hỗn tạp/ Bao âm sắc/ Buồn vui thiện ác giằng xé mỗi tế bào/ Dưới nét bút danh họa/ Một lần ta nhìn thấy bóng em/ Chim câu trong nanh vuốt dữ dằn của con mèo mặt hổ/ Thế giới sục sôi vạc dầu chiến tranh... Chỉ cần một tác động nhỏ chạm tới Miền Người, tôi cũng rung động: Suốt ngày bạn gõ kẻng/ Âm ỉ quả bom câm/ Bom câm còn có tiếng /Mà bạn tôi âm thầm... (Bên quả bom câm) trong bài “Nhát chổi trong chiều”, tôi đã khắc họa hình ảnh một người vợ lính chờ chồng trong chiến tranh: Bao năm dượng ấy đi xa/ Chiều chiều o quét lá vàng trước ngõ/ Từ nhát chổi lia ngang tới tấp gió/ Những nhát chổi trong chiều nào có bớt cô liêu...

- Nghĩa là phía sau gian khổ, trái tim người lính vẫn ăm ắp tình yêu, thưa anh?

- Dù đã đi qua mọi miền của đất nước, tình cảm đối với con người, đối với quê hương luôn da diết, thức gọi trong lòng: Ở quê nhà bão lụt/ Mẹ cha già cả rồi/ Vợ con mong đỏ mắt/ Mình xa tít mù khơi/ Dẫu yến tiệc quê người/ Vẫn không sao ngon miệng/ Ngửa mặt lên nhìn trời/ Ngẩn ngơ chòm mây liệng... Thấu hiểu sự hy sinh lớn lao của người vợ cũng chính là hiểu thấu nỗi quê: Vợ ta vốn cô thôn nữ/ Thương chồng con ít ai bằng/ Lam làm sớm hôm tất bật/ Quên hết mặt trời mặt trăng... (Nhà ta).

- Anh vừa là nhà thơ, lại là nhà báo, biên kịch phim… điều đó có mâu thuẫn gì không?

- Là nhà báo, được đi nhiều, nghe nhiều, biết nhiều, điều đó đã bổ sung vốn sống của người cầm bút. Chính trong sự ngổn ngang, xô bồ của cuộc sống đã giúp tôi lựa chọn những chất liệu để tạo cảm hứng, tạo hình tượng cho thơ và lựa chọn các giải pháp, các chi tiết thể hiện trong kịch bản phim. Hiện nay ngoài các kịch bản dựng thành các phim tài liệu, như: “Sao vuông mắt lưới”; “Điểm tựa Ka Lăng”; “Đông Bắc - Nỗi niềm người lính” v.v… tôi đã cùng nữ đạo diễn trẻ Đặng Thái Huyền dựng kịch bản “Mười ba bến nước” (dựa theo truyện ngắn cùng tên của Sương Nguyệt Minh). Tác phẩm đã giành được 5 giải thưởng quan trọng nhất của thể loại phim truyện vi-đê-ô tại Liên hoan phim Việt Nam năm 2009.

- Có thể nói “Trường ca Trường Sơn” cũng là một tác phẩm anh đã dành nhiều tâm huyết nhất?

- Đây là trường ca mà tôi không chỉ nói về chiến tranh một thời đã qua mà còn viết về một Trường Sơn tiềm ẩn quá khứ, hiện tại và tương lai. Nơi đây, con người đã và đang phát huy sức mạnh tổng hợp cả về mũi nhọn kinh tế và bề dày văn hóa... Thông qua hình tượng thơ: “Người cha dặn con” chính là lời của thế hệ ông, cha nhắn gửi thế hệ trẻ. Con người cần phải biết nhìn thẳng vào sự thật: Kìa/ Các con/ đàn chim ríu ran/ Đang ngời ngợi bay qua mắt cha/ Tới miền kiêu hãnh/ Nơi các con đón đợi/ Những Trường Sơn kỳ vĩ tươi non/ Vượt đau buồn/ Vượt tỵ hiềm đố kỵ/ Vượt nhỏ nhen, ích kỷ...

- Trường ca “Gửi Bin Ghết và Trời xanh” sắp xuất bản của anh nghe nói có nhiều thông điệp mới?

- Bằng nhạy cảm của người cầm bút, với giọng thơ trào lộng, tôi đã viết trường ca này bằng cả gan ruột của mình. Đó chính là cuộc đối thoại văn hóa của người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam với một người Mỹ, một nền văn hóa Mỹ. Cuộc đối thoại chính luận này đã để lại những dấu ấn, những nét khắc về văn hóa và nền văn minh của các tộc người...

- Sắp tới, anh có dự định gì trong sáng tác?

- Tôi sẽ tiếp tục hoàn thành tập thơ mới với một phong cách thể nghiệm mới, trong đó có hơn 60 bài đã được nhiều dịch giả dịch ra 3 thứ tiếng Anh, Pháp và Trung Quốc.

- Xin chia vui cùng anh và chúc anh có nhiều thành công mới trong sáng tác về tình yêu và người lính!

Trần Thị Nương (thực hiện)
Nguồn: Bài này đã đăng báo Quân đội nhân dân cuối tuần

http://www.qdnd.vn/qdndsi...75/75/130610/Default.aspx

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Phạm Thanh Khương: Gửi tác giả trường ca Trường Sơn

Thân gửi anh Nguyễn Anh Nông.

Tôi đã dành trọn vẹn những ngày nghỉ để đọc hết Trường ca Trường Sơn của anh. Tôi có ý định viết hẳn một bài giới thiệu về "Trường Sơn" này của anh. Song biết anh mong tin nên tôi thư cho anh để anh hết nóng ruột.

Trước hết phải nói rằng tôi có cái may mắn được đọc nhiều thơ của bạn bè và trong đó có cả các trường ca. Nếu nói về thể loại thì đây là một trong những thách thức của nghiệp viết đối với ai làm thơ. Về thể loại đã như thế nhưng lại dính đến chiến tranh cách mạng quả là trái núi mà người viết phải vượt qua. Bởi đã có quá nhiều người viết về nó, có quá nhiều đòi hỏi khi viết về nó và có quá nhiều điều mà người ta sẽ bàn đến nó. Chiến tranh đã qua, chúng ta đã có cả một độ lùi để nhìn nhận về những năm tháng chiến tranh. Những bi, những tráng, những khúc khải hoàn, những lời ai điếu. Cái đau, cái buồn, cái vui, cái phúc. Trong chiến tranh, giữa chiến tranh có tất cả nụ cười và nước mắt. Viết như một khúc tráng ca, khúc khải hoàn như các trường ca đã viết hay viết như lời thương xót, nỗi mất mát hy sinh, chỉ nhìn thấy cái bi mà không thấy cái hùng. Chắc khi đặt bút viết những câu đầu tiên, anh cũng có những suy nghĩ như thế. Và khi bắt đầu đọc Trường Sơn của anh tôi cũng đã đặt ra rất nhiều điều như thế.

Trường ca Trường Sơn của anh đã có được những điều mà bạn đọc trông chờ. Có bi, có hùng, có vui, có buồn. Những điều mà những người viết trước phải tránh thì ở anh đã có những cái nhìn, cái cảm, sự suy tưởng. Khi đọc trường ca Trường Sơn người đọc nhận được về mình đầy đủ những gì đã xảy ra, đã ghi dấu ấn, đã để lại trong chiến tranh dẫu đó là nỗi đau, sự hy sinh, mất mát. Những "hỉ nộ ái ố" anh đã có cả trong thân phận của mỗi con người, mỗi nhân vật.

Trường ca của anh cũng đã có sự chuyển trong cấu tứ, ngôn ngữ, cách nói, cách cảm, cách nhìn nhận mới về chiến tranh. Mỗi chương, mỗi khúc đã có sự "tỉnh táo" của người viết khi đề cập đến vấn đề chiến tranh. Và có lẽ vì thế, người đọc có cái nhìn tương đối đầy đủ, tương đối toàn diện về chiến tranh, không thấy chỉ có một màu mà có cái nhìn đa sắc. Có những chương tôi rất thích như chương Nhà thơ chẳng hạn. Qua hình tượng của nhà thơ, bạn đọc không chỉ nhìn thấy một nhà thơ, một nghệ sĩ mà thấy cả một dân tộc với nền văn hoá 4000 năm vào trận. Cái này tôi lại nhớ đến một học thuyết của một nhà nghiên cứu lịch sử đã có quan điểm, chiến tranh không chỉ là kinh tế, chính trị mà còn có cả văn hoá mà ông ấy cho rằng "chiến tranh đó là sự xâm lăng văn hoá".

Tất nhiên, bên cái được rất nhiều ấy, tôi vẫn thấy còn cái lăn tăn. Tôi chỉ lăn tăn thôi. Ấy là khi đọc về Tây Nguyên, tôi chưa thấy hết cái âm vực của Tây Nguyên, tiếng cồng, tiếng chiêng, câu khan trong cái cảm của anh nhiều lắm. Trong trường ca của anh, có một chương "mê" là tôi e rằng bạn đọc sẽ khó nhận ra được những gì trong cơn mê ấy mà người lính đã trải qua bởi ngôn ngữ, cách suy tưởng của ngôn ngữ trong chương này. Tất nhiên đó chỉ là cảm nhận ban đầu của tôi thôi. Và tôi đang đọc lại kỹ hơn trường ca của anh. Chắc là phải đọc lại mới góp ý và viết kỹ được. Tôi tin Trường Sơn sẽ đậu trong lòng bạn đọc.

Đôi dòng tâm sự cùng anh trên góc độ của người bạn và của bạn đọc. Xin chúc mừng anh đã có một trường ca về người lính, về chiến tranh. Tôi cũng đang chờ ý kiến từ bạn đọc khác đánh giá về trường ca này.

Chúc anh khoẻ, bình an.

Thân.


PHẠM THANH KHƯƠNG
( NHẬN CHIỀU, 11/5/2009)
Nguồn:
http://ngoctanns.vnweblogs.com/post/4314/154621

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Nguyễn Tiến Hải:“Trường ca Trường Sơn”-Lớp lớp nhân vật về hội tụ

“Trường ca Trường Sơn”-Lớp lớp nhân vật về hội tụ



                                                                  Nguyễn Tiến Hải



         (Đọc “Trường ca Trường Sơn”của Nguyễn Anh Nông-NXB Văn học-2009)

         Trường Sơn oai hùng,ngút ngàn đã,đang và chắc chắn sẽ mãi là đề tài thu hút sự sáng tạo không ngưng nghỉ của mọi loại hình nghệ thuật.Chỉ tính riêng đợt kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống của bộ đội Trường Sơn (1959-2009) đã có hàng vạn trang văn,thơ viết về đề tài này với tấm lòng trân trọng cùng cảm xúc thẳm sâu.Trong đó,thể loại trường ca đã tô đậm thêm dấu ấn của mình,tiếp nối bền bỉ những trường ca đã từng ra mắt bạn đọc.Đó là các trường ca “Vạn lý Trường Sơn”của Nguyễn Hữu Quý, “Âm vang Cự Nẫm”của Trần Hải Sâm, “Ký ức Trường Sơn”của Phạm Minh Tâm, “Trường ca Trường Sơn”của Nguyễn Anh Nông…Mỗi trường ca mỗi vẻ,bởi cách tiếp cận,khai thác,phản ánh khác nhau,song có thể khẳng định rằng:Tất cả những trường ca viết về Trường Sơn đều là kết quả của cảm xúc bão giông,sự khám phá miệt mài,quá trình tích lũy trải nghiệm lâu dài và tấm lòng tri ân nặng sâu,khắc khoải…Nếu nét nổi bật ở “Vạn lý Trường Sơn”là sự hòa quyện giữa khái quát và cụ thể,giàu tính triết lý;ở “Ký ức Trường Sơn”là sự đan xen xoắn xuýt quá khứ với hiện tại,nồng cháy trong liên tưởng,hồi tưởng;ở “Âm vang Cự Nẫm”là một câu chuyện sinh động bằng thơ về một làng nhỏ-điểm khởi đầu của con đường Trường Sơn huyền thoại…thì,nét nổi bật trong “Trường ca Trường Sơn”là sự tụ hội của lớp lớp nhân vật đã góp phần nâng cao vóc dáng Trường Sơn,hóa Trường Sơn thành tượng đài bất tử!

         Mở đầu trường ca,nhà thơ Nguyễn Anh Nông đã phác thảo Trường Sơn bằng cách của riêng mình- “nén”đại ngàn vào những điểm nhấn đặc trưng: “Rượu cần vít cong niềm vui/Lời khan ủ men thấp thỏm…”; “Tiếng trâu đi hoang hoải rừng già/Tiếng mõ lắc nghiêng chiều ai tìm lại…”; “Con đường chồng lên con đường/Như ta chồng lên nhau những ước mơ khát vọng”…Tiếp đó,các nhân vật lần lượt hiện ra sắc nét,vừa khiêm nhường vừa cao vời cùng dáng núi.Giữa hoàn cảnh khắc nghiệt “Sống chết trong gang tấc/Bom đạn rơi đâu có hẹn người nào”người chiến sĩ lái xe vẫn một lòng hướng ra tiền tuyến: “Ánh mắt căng nhức chọc vào đêm đen/Tìm đường tránh bom nổ chậm”.Anh đâu có cô đơn,sát cánh cùng anh là núi rừng,đồng đội,là những người con gái thanh niên xung phong kiên trung: “Dáng hiên ngang em đứng đếm bom thù/Từng chớp rạch mịt mù lửa khói”.Đau đớn thay,những chuyến hàng nối  tiếp những chuyến hàng về đích,nhưng em đã anh dũng ngã xuống bên con đường chông chênh lửa đạn. “Anh trở lại,gom nỗi buồn vương vãi/Đắp mộ em bông huệ trắng mơn man/Thắp ngọn nến niềm tin em gửi lại/Nỗi buồn anh thăm thẳm đại ngàn”…

          Ngọn nến niềm tin em gửi lại…là sự khái quát về niềm lạc quan phơi phới,là tài sản chung vô giá tạo nên sức mạnh thần kỳ cho lớp lớp người ra trận.Qua ngòi bút của nhà thơ,chân dung vị Tư lệnh hiện lên càng khắc đậm niềm lạc quan phơi phới ấy: “Vị tư lệnh đại ngàn Trường Sơn/Khoát vòng tay ôm trọn câu hát/Kẻ vào đêm ánh mắt dịu dàng/Vạch vào nắng câu thề sắt thép…”.Và đây là hình ảnh nhà thơ-chiến sĩ: “Bên hông anh đeo cái đài/Anh và nó,thi nhau vừa đi vừa nói và hát/…Trái tim nhà thơ không lầm lạc/Bánh xe lăn rát bỏng con đường…”.Dẫu thi nhau nói và hát với chiếc đài,nhưng bánh xe vẫn rát bỏng trên đường thì quả là say mà vẫn tỉnh.Câu thơ hóm hỉnh làm người đọc càng thêm yêu,thêm tin nhà thơ chiến sĩ biết mấy!

         Tuy huyền bí,linh thiêng,nhưng Trường Sơn đâu chỉ toàn những cánh rừng hoang rã.Trong trường ca,Trường Sơn hiện lên kiêu hãnh bởi truyền thống văn hóa độc đáo,đậm dầy với những Đam San,Xinh Nhã,Nữ Thần Mặt Trời,Hơbnhi…với vầng trăng thẹn thùng,mặt trời đỏ ứa,mà trung tâm là hình ảnh Già làng.Nhà thơ thật khéo khi mượn lời Già làng để tự khắc họa chân dung: “Những già làng như ta-da đồng hun,tóc cước,râu bạc,kể Khan như lên đồng-ong bay,bướm lượn/Vắt vẻo rượu cần/Cồng chiêng say ánh mắt/Bàn chân bàn tay vụng dại/Múa lên trời hoa văn…”.Đọc những câu thơ này,tôi ngỡ như được chiêm ngưỡng một bức tranh đặc tả vừa chân thực vừa sinh động về Già làng giữa Trường Sơn hùng vĩ.

         Trong “Trường ca Trường Sơn”,nhà thơ Nguyễn Anh Nông dành hẳn một chương để nói về người cha-chiến sĩ Trường Sơn một thuở.Trở về sau chiến tranh,người cha mang theo vóc dáng Trường Sơn về quê hương,làng xóm,nhờ vậy,Trường Sơn chẳng còn xa xôi nữa,mà gần gũi thân thương trong trái tim nhân hậu của mỗi người.Với người cha, “Trường Sơn dằng dặc niềm khắc khoải/Ngày tháng găm dầy những vết thương…”,bởi thế nên “Trắng đêm vò võ/Bạc ngày hư hao”.Cuối cùng “Cha,bay bay về miền cực lạc”để lại cho mỗi người một Trường Sơn của niềm tự hào,của khí phách vươn lên, cùng lời dặn về mẹ “Vạn lời ca chưa đủ để tặng người”,bởi nhờ mẹ, cha đã vượt Trường Sơn rồi “mang”Trường Sơn cùng về ngày tụ hội…

         Có một loạt nhân vật đặc biệt trong “Trường ca Trường Sơn”,đó là “Căn hầm dã chiến”, “Cây cầu tạm”, “Con đường”, “Mây”, “Cánh bướm”…Nói là nhân vật,bởi tất cả đã được nhà thơ nhân hóa để lưu giữ những kỷ niệm sâu sắc,những nỗi buồn vui tận cùng của thời Trường Sơn khói lửa.Hãy nghe lời Căn hầm dã chiến: “Tôi chứa vào lòng bao số phận/Núi non lá chắn vững vàng chưa?/…Tôi đau nỗi đau người cha/Tôi buồn nỗi buồn người mẹ/Nỗi đau buồn bầm tím ruột gan”.Sự tàn khốc của chiến tranh buộc căn hầm cũng phải thốt lên những lời buốt xé.Thêm nữa,căn hầm như một biểu trưng thu nhỏ của Trường Sơn để chở che,ôm ấp con người.Cũng như Căn hầm dã chiến,sự hy sinh cùng niềm vui lặng thầm của Cây cầu tạm như một nét khắc đậm sâu về vóc dáng Trường Sơn: “Nơi nào có suối có sông/Ai người ngóng đợi,chờ mong,tôi về/Xoạc chân đứng đỡ đoàn xe/Tấm thân lấm láp ,xù xì, đã sao?/Cõng bao xe pháo sang cầu/Tôi vui,đồng đội mau mau an toàn…”.Đã từng nhiều năm là người lính Trường Sơn,đã từng được hàng trăm cây cầu “Xoạc chân đứng đỡ…”,đọc những câu thơ này tôi càng thêm nhớ Trường Sơn,nhớ những cây cầu biết mấy.Vẫn là những lời bày tỏ,vẫn là cái “tôi”nhân hóa như Căn hầm dã chiến,Cây cầu tạm,nhưng Con đường còn thổ lộ giấc mơ riêng: “Tôi mơ giấc mơ đẹp đẽ/Bao người nằm xuống hôm qua/Bỗng dưng đội đất sống dậy/Rưng rưng niềm vui chói lòa.”.Vẫn biết giấc mơ chẳng thể thành hiện thực,song sự thủy chung của Con đường với những người đã khuất làm Trường Sơn thêm linh thiêng,làm người đọc thêm nghẹn ngào khi nhớ về quá khứ.

         Ai đã từng đặt chân lên đỉnh Trường Sơn hẳn rằng không thể quên mây.Mây giăng trên đầu,mây bay trước mặt,mây nâng bước chân người…Bốn bề mây,bâng khuâng dâng dâng bao suy tưởng.Tôi gặp lại mây trong “Trường ca Trường Sơn”như gặp lại bạn mình,gần gũi,thân thương quá!Khác chăng,mây trong “Trường ca Trường Sơn”tuy vẫn là “Trường Sơn dằng dặc xôn xao nắng/Mây trắng ngàn năm cứ phập phồng”nhưng lại “đang bận”tâm sự với nhà thơ.Và,tôi lặng nghe: “Lòng dạ sáng trong không chật hẹp/Tâm hồn đau đáu nỗi yêu em/Mây nhé cùng ta bay tới đích/Xóa sạch bùn nhơ xóa hết buồn…”, “Ngàn vạn năm mây trắng vẫn còn bay/Ta yêu nhau từ độ nào ấy nhỉ?/Khát vọng.Đê mê.Vầng trăng tri kỷ/Dắt ta đi.Gió nắng đượm duyên tình…”.Thì ra,nhà thơ và mây đang tâm sự với nhau về tình yêu-tình yêu của người lính trên dải Trường Sơn  một thời ra trận.Cảm ơn nhà thơ đã một phần nói hộ lòng tôi!...Khác với những “nhân vật”đã kể trên,cánh bướm trong “Trường ca Trường Sơn”hiện lên cùng hồn trinh nữ.Nhà thơ mượn cánh bướm để bày tỏ nỗi thương nhớ,xót xa khi đi tìm và gặp “Người con gái hồn nhiên bình dị”đã yên nghỉ giữa rừng xanh: “Mộ em trên đồi hoa sim tím/Gặp cánh bướm chập chờn ảo ảnh/…Hãy đậu trên tay anh,linh hồn em trinh trắng/Đỏ mắt ,anh nhìn,lệ chảy vòng quanh.”.

         Tiếp nối Trường Sơn xưa,Trường Sơn nay hiện lên qua lời em bé,lời người con,lời người thợ xây dựng…Mỗi chân dung mang một nỗi niềm riêng,nhưng tất cả đều chung khát vọng: “Đục vách núi tạo hình hài tổ ấm/Khoan nghìn năm hóa thạch sưởi hơi người/Dựng giàn giáo phất lên trời khát vọng…”để Trường Sơn ngút ngàn,linh thiêng và đẹp giầu mãi mãi.

          Thông qua lớp lớp nhân vật về tụ hội,Trường Sơn đã được nhà thơ Nguyễn Anh Nông không chỉ khắc họa rõ nét theo cách của riêng mình,mà còn “gọi”được rất nhiều người cùng về tụ hội,và tôi là một trong những người về tụ hội đầu tiên./.

                                                       12/8/2011



                                                    NGUYỄN TIẾN HẢI

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Đỗ Trọng Khơi: VỚI NGUYỄN ANH NÔNG VÀ THƠ

VỚI NGUYỄN ANH NÔNG VÀ THƠ



Tùy bút:    

ĐỖ TRỌNG KHƠI



        Vào buổi tối một ngày hè thì phải, cô cháu gái, tên là Len đưa Nguyễn Anh Nông tới nhà tôi chơi. Cô cháu gái làm giáo viên dạy văn học tại một trường cấp II bên bệnh xá xã, nơi vợ nhà thơ làm y sỹ ở đó, do vậy mà họ quen nhau. Mấy hôm trước cô cháu đã ngỏ ý sẽ “Đưa một nhà thơ trẻ tới thăm chú...”. Nguyễn Anh Nông là sỹ quan quân đội, ngày đó còn đang đồn trú tại Cao Bằng, năm đôi ba lần đáo về quê Thái Bình thăm vợ con. Tới nay, có nhẽ cũng ngót một phần tư thế kỷ rồi. Thời gian đã đầy cao đã xa xôi dường ấy, tôi giờ trí nhớ đã có phần suy giảm, nhưng buổi tối đó thì còn nhớ như in. Nông đến cùng với một cậu em nhỏ tuổi nữa, cuộc chuyện diễn ra hơi nhạt. Nghĩ lại mà thấy thương trách cho mình quá. Mới lần đầu gặp, tôi thì cà tẩm nhà quê, Nông thì vẻ e dè. Nhưng có nhẽ, điểm chính là do cả hai đứa đều mới là những anh lính tò te của nghiệp bút nghiên, chưa hiểu gì mấy về nghề, cũng chưa biết nhiều chuyện làng văn, nên cả hai đều ít có điều để nói. Lại sực nhớ, cậu em nhỏ đi cùng Nông tối đó nay đã thành ra người xưa. Nghe đâu cậu ấy mất bởi bệnh ung thư. Chao ôi, một nhân chứng trẻ trung dường ấy của buổi gặp bạn bè đó đã kịp đi qua một lần sống. Văn chương quả là câu chuyện di mệnh xương máu vô cùng thương mến của kiếp người, sự đời.


        Thơ Nguyễn Anh Nông những ngày đầu không gây ấn tượng gì đáng kể với tôi. Chơi với nhau đôi chục năm nay, phải nói thực, khoảng vài ba năm nay Nông mới khiến tôi giật mình để ý tới hành trạng thơ ông. Thật kinh ngạc về sức bút ông những ngày này. Chỉ trong một năm ông viết liền tù tỳ trên ngàn khúc thơ ngắn, sau lựa in tập Lững thững xanh trên 300 bài. Và cũng chỉ trong ba năm ông viết xong 3 tập trường ca, tập Trò chuyện với bố con cu Lập Sơn dài 5 chương, với ... câu thơ mà ông viết chỉ trong có ... nửa tháng. Ôi, khủng!

        Trong quan niệm của tôi, nghệ thuật thơ có 3 ngưỡng cần đạt tới, là: Mới, Lạ, Hay, cũng gần quan niệm về Tinh – Khí - Thần, cái ngôi Tam bảo của cõi sống thơ ca. Để đạt được đầy đủ 3 yếu tố nghệ thuật trên là vô cùng khó khăn. Ấy là con đường của những bậc đại tác gia, con đường của loài gió chuyển mùa, vô hình tướng mà đi tới đâu để lại khí sắc mùa màng riêng biệt tới đó. Thơ Nguyễn Anh Nông không “Lạ”, nhưng “Mới” và đã có những câu, bài, trường đoạn khá hay - đôi cái ngưỡng quan trọng thơ ông đã bước tới. Thiết nghĩ, về nghệ thuật đạt vậy cũng đã là một thành tựu rất quý giá rồi. Với tư cách một người bạn thơ của ông, thành thực thơ tôi chưa có được thành tựu vậy. Bởi vậy tôi mừng cho bạn lắm. Còn hơn một lần mừng vui, tự hào, tác phẩm Trò chuyện với cha con cu Lập Sơn là ông dành “trò chuyện” với cha con tôi. Gia đình tôi xem đây là một tín hiệu vui, dự báo trước về hành trình tốt lành trên đường đời cháu Lập Sơn với nhiều yêu thương, trân trọng.



        *****

        Trường ca Trò chuyện với cha con cu Lập Sơn được tập thành bởi 5 chương, với tổng cộng 1... câu thơ. Cấu trúc, lập tứ của câu chuyện trường ca này được xây dựng qua hành trạng thời gian một số phận con người cụ thể. Cu Lập Sơn được ghi nhận của tác giả thơ, là sinh vào: “Mùng 1 tháng 7 năm 2010 lao ra như tên bắn một sinh linh bé bỏng đã thành người rồi sẽ thành nhân loại khác...”. Nghĩa là tính đến thời điểm trường ca hoàn thành, tháng 4 – 2011 thì nhân vật thơ Lập Sơn mới được 10 tháng tuổi; và để rồi từ đó, nhà thơ khắc hoạ nên một quá trình, một đời sống, một số phận con người với bao những va đập, tiếp nhận, hoá thân, chuyển hoá, biến cải, tái tạo, hợp thành trong tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội với những quy luật vận động của nó. Qủa thực, trường ca này đã làm nên một hợp thành khá đầy đủ, bề thế về một phần sống thế gian khái quát, tinh vi, giầu thi vị.





TỪ EMAIL ĐỖ TRỌNG KHƠI



Ngày Thứ 4, 15/06/11, Khoi Do Trong < dotrongkhoi1@gmail.com  > đã viết:


Từ: Khoi Do Trong < dotrongkhoi1@gmail.com  >
Chủ đề: thái bình - thơ
Đến: "Nong Nguyen" < nguyenanhnong@yahoo.com.vn >
Ngày: Thứ Tư, 15 tháng 6, 2011, 15:04

Gửi ông đọc mấy dòng chơi. Tôi đang tắc tị, cõi thơ ông mông lung, siêu cảm quá lắm! quá lắm!

http://www.tamtay.vn/home/tambangtb

http://nguyenbao.vnweblogs.com/post/5298/342207

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Nguyễn Văn Lai: Đọc 3 trường ca, giật mình ... đọc tiếp

ĐỌC TRƯỜNG CA THỨ BA, GIẬT MÌNH...ĐỌC TIẾP



Chẳng phải với trời xanh, chẳng phải với Bin Gết -nhà tỷ phú người Mỹ giầu nhất nhì thế giới và chẳng phải với một vĩ nhân nào khác mà là với cha con cu Lập Sơn- người bạn thơ sức khoẻ yếu và cậu con trai chưa đầy 3 tháng tuổi. Tức là Nguyễn Anh Nông muốn trò chuyện với những con người bình thường nhất, thậm chí là với những sinh linh bé nhỏ mới cất tiếng khóc chào đời, đó như là một lời nhắn gửi, một thông điệp của cuộc sống về sự tồn tại và phát triển.



"Trẻ em như búp trên cành", rồi nay mai đứa trẻ sẽ thành người lớn, sẽ hiểu được lẽ phải của cuộc sống, hiểu được nhân tình thế thái, hiểu được đâu là sướng, khổ, vui, buồn; giầu sang phú quý hay là nghèo rớt mồng tơi. Trường ca "Trò chuyện với cha con cụ Lập Sơn" ra đời trong hoàn cảnh khi nhà thơ Nguyễn Anh Nông đến thăm bạn của mình là nhà thơ Đỗ Trọng Khơi. Bằng sự cảm nhận sâu sắc, sự liên tưởng và niềm đam mê, nhà thơ Nguyễn Anh nông vẽ nên một bức tranh tươi sáng và hy vọng với hàng ngàn con chữ lấp lánh về tương lai cuộc sống của một tổ ấm gia đình nhiều khát vọng vươn lên vượt qua khó khăn vất vả và sự nghiệt ngã của tạo hoá để đến một chân trời mới tươi sáng hơn.

Ý thơ giản dị mà sâu xa, lời thơ mộc mạc, chân thành, gần gủi mà chuyển tải được nhiều vấn đề cần nói. Cả trường ca "Trò chuyện với cha con cụ Lập Sơn" là trải nghiệm một cách nhìn sáng tạo, mạnh mẽ và đột phá. Mọi sự trên thế gian này ra đời, tồn tại và phát triển đều có quy luật của nó; có thể thay thế, hoán đổi, ăn cắp, cướp giật, xin cho, ban phát nhưng cái đích thực thì vẫn còn mãi mãi. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên không làm cho những mầm non bị héo mòn mà đôi khi lại tạo cho nó cứng cáp hơn. Sự nghiệt ngã của cuộc sống không làm cho những con người có ý chí và khát vọng bị lụi tàn mà đôi khi lại làm cho họ có sức sống mãnh liệt hơn, trang đời lại thăng hoa, toả sáng nhiều hơn. Mỗi chương, mỗi phần của trường ca Nguyễn Anh nông lại làm cho chúng ta giật mình ngẫm lại thế sự nhân tình và cuộc sống hiện tại. Niềm vui cũng nhiều, thành công cũng có, nhưng cay đắng vẫn còn, những trải nghiệm xã hội sẽ đưa con người luôn ở trạng thái hiện thực của cuộc sống để nhìn về quá khứ, ước nguyện tương lai, vượt lên mọi số phận, dám vạch sáng quãng đường dẫn dắt bước chân đi. Đó là hy vọng, đó là tương lai "Vạch đường cày- trên trang sách mới/ những đường cong, vạch thẳng cứ nôn nao/ Khoai lúa mọc không hàng, không lối cứ xanh um, mơn mởn, rì rào". Chao ơi ! đọc trường ca mà như thấy nhân tình thế thái, cuồn cuộn nỗi đau, cồn cào số kiếp, thân phận con người do trời đất, mẹ cha ban tặng, nhưng đau đáu nỗi niềm của dâu bể khuôn nguôi. Cái quý nhất của thiên nhiên là thể hiện quy luật ngàn đời không thay đổi, cứ mỗi mùa đông lạnh lẽo qua đi thì mùa xuân ấm áp lại về, lá rụng về cội thì tức khắc có những hoa trái nảy mầm. Một cu Lập Sơn ra đời và lớn lên là tương lai hy vọng của nhà thơ, để "Cu Sơn là biểu tượng của thi ca, con cháu cu Sơn xây dựng đền đài nguy nga tráng lệ/ cây lúa cây khoai được dát bạc, dát vàng/ hoa súng hoa sen nhảy múa hân hoan". Rồi cu Sơn có những cuộc "hành trình vượt đại dương...tới những hành tinh mới/ nhiều người nhìn cu Sơn mà ao mà ước" Để cu Sơn "gánh quá khứ tương lai nặng nhẹ, vạch hướng tương lai, xếp đạt quân cờ hoạch định".
Tôi đọc được ở nhà thơ Nguyễn Anh Nông trường ca này là trường ca thứ ba, thấy anh thể hiện mạnh mẽ quá, vạch đường khám phá cuộc sống, vạch ra hướng nhìn một góc trời mới. Dám nói đến những gì người đời chưa nói, dám nghĩ đến nhừng gì mà sau hàng trăm năm chưa dám nghĩ; dám bứt phá, mở ra một không gian thoáng đãng cho những trường ca tiếp sau của anh tung cánh. Con người ai cũng có những ước mơ, khát vọng, ai cũng muốn được thể hiện bản ngã của mình, muốn được trò chuyện với thiên nhiên, con người và bè bạn. Nếu như "Trường ca Trường Sơn" của Nguyễn Anh Nông trò chuyện với quá khứ hùng tráng của dân tộc, trò chuyện với đại ngàn Trường Sơn, trò chuyện và vinh danh những con người của quá khứ và hiện tại đã làm nên huyền thoại Trường Sơn anh hùng, trò chuyện với cả một không gian và thời gian lịch sử để rồi được chiêm ngưỡng, tôn vinh và hưởng thụ thành quả lớn lao đó. Với trường ca "Gửi Bin Gết và trời xanh" Nguyễn Anh Nông trò chuyện và đối thoại với con người nổi tiếng và giầu có trên thế giới, trò chuyện với vũ trụ bao la, trời xanh mây trắng, với những đấng tối cao, ở họ có đủ sức mạnh diệu kỳ của vật chất và tinh thần, họ vừa là bạn, vừa là đối tác, vừa có thừa sức cạnh tranh chúng ta trên mọi phương diện. Nhưng thơ ta là đối thoại để khẳng định mình, khẳng định vị thế dân tộc mình, nền văn hoá của đất nước mình trước nhân loại. Đến trường ca "Trò chuyện với cha con cụ Lập Sơn" hoàn toàn là mới lạ, đó là cuộc trò chuyện với thế hệ mai sau, với lớp con cháu, với những người chủ tương lai của đất nước; ở họ không có gì là ghe gớm, không có gì là cao siêu, họ chưa có sức mạnh của thể lực, chưa có sức mạnh của đồng tiền và sức mạnh của trí tuệ. Họ mới có những gì bình thường nhất của con người đó là biết ăn, biết chơi, biết cười, biết nói nhưng họ là niềm tin, là tương lai, là khát vọng, là những mầm xanh và chủ nhân của đất nước. Những con người bình thường nhất sẽ là những con người làm nên tất cả, nhà thơ đã nhận biết và tìm thấy những gì vĩ đại nhất là những cái bình thường nhất. Đó là một cách nhìn!
Đọc bộ ba trường ca "Trường ca Trường Sơn", Gửi Bin Gêt và trời xanh", "Trò chuyện với cha con cu Lập Sơn" của Nguyễn Anh Nông, tôi lại nhớ đến bộ ba vở chèo nổi tiếng "Bài ca giữ nước" của cố nghệ sĩ Tào Mạt năm xưa./.

24/5/2011


Nguyễn văn Lai


Phòng Khoa học- Công nghệ- Môi trường
Trường Đại học Trần Quốc Tuấn
ĐT:01699361856
lai.nguyn@yahoo.com.vn

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Lê Khánh Mai: chia sẻ về bài viết của Nguyễn Văn Lai

BẠN ĐỌC CHIA SẺ:
Viết 3 trường ca về 3 vấn đề hoàn toàn khác nhau nhưng liên kết lại trở thành một chỉnh thể. Đây là ý tưởng nghệ thuật độc đáo của nhà thơ Nguyễn Anh Nông. Cám ơn nhà văn Nguyễn Tiến Hải đã giới thiệu
Viết bởi Lê Khánh Mai 30 Jul 2011, 07:31

http://nguyentienhai.vnwe...logs.com/post/1988/313722

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Trường ca “Trường Sơn”- Một cách nhìn nhận mới về chiến tranh

Trường ca “Trường Sơn”- Một cách nhìn nhận mới về chiến tranh
22-01-2013 | 15:38
Đường Trường Sơn phải trở thành đề tài thiêng liêng và bất tận đối với văn học nghệ thuật. Từ những ngày máu lửa trong chiến tranh với bao tấm gương hy sinh anh dũng, bao nhiêu chiến công thần kỳ, bao nhiêu anh hùng dũng sĩ với bao nhiêu câu chuyện kể mãi không bao giờ hết, cho đến hôm nay con đường Hồ Chí Minh được xây dựng rộng lớn, thênh thang thảm nhựa phẳng phiu vắt qua đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, tất cả lẽ nào không thể tạo ra cảm hứng sáng tạo của văn nghệ sĩ? Sáng tác về đường Trường Sơn chính là thể hiện sự tri ân và tinh thần trách nhiệm với những người đã khuất. (Đỗ Hoài)
Từ xúc cảm với Trường Sơn và những chiến tích hùng thiêng của nó, nhà thơ Nguyễn Anh Nông đã cho ra mắt tập trường ca đầu tiên của mình với tên gọi Trường Sơn.
Trong trường ca, ta thấy ở đây hai mươi đoản khúc và một vĩ thanh. Với những bè cao, bè trầm, với những nhân vật đại diện cho nhiều thế hệ, với những chứng tích lịch sử như cây cầu tạm, căn hầm dã chiến, với cả những cánh bướm tượng trưng cho những liệt sĩ- trinh nữ…tất cả góp phần tạo nên sự hoành tráng, bề bộn, quyết liệt… của hiện thực Trường Sơn.
Cái khốc liệt của chiến tranh cùng với niềm quyết tâm của người Trường Sơn đã được tác giả tô đậm bằng những hình tượng khá sinh động, đủ sức khơi gợi cảm xúc cho người đọc, lôi cuốn người đọc hòa vào bản trường ca của Nguyễn Anh Nông.
Và khi đọc trường ca “Trường sơn” của Nguyễn Anh Nông, mỗi độc giả, nhà văn lại có những suy nghĩ, cảm nhận riêng:


Nhà văn Nguyễn Bao: Với Trường ca này, Nguyễn Anh Nông đã góp một khúc ca có âm điệu, phong cách riêng của mình vào bản đại hợp xướng Trường Sơn hùng tráng.
Nhà văn Chu Văn Sơn: Đọc “Trường Sơn”, thấy vốn sống (tức vốn xúc cảm và chất liệu) của anh rất dồi dào, không dồi dào thế chắc không viết nổi tới hơn ba mươi trang. Tôi mừng và thầm cảm phục vốn trải nghiệm mà anh đã có được, mà chắc là cũng phải trả giá nhiều cho mỗi trải nghiệm đó. Cách cảm của anh qua các thi ảnh, các thi khúc cũng có nhiều nét đã thoát được lối viết của các trường ca giai đoạn trước. Nhưng, giá như thoát được nhiều hơn nữa, thì sẽ còn có ấn tượng đậm hơn.
Nhà văn Nguyễn Đức Thiện: Cái mà Nguyễn Anh Nông bám vào để thế hiện được trường ca Trường Sơn, chính là Con Người. Đấy là hướng đi khiến trường ca của Nguyễn Anh Nông có sự khác biệt với những trường ca mà chúng ta đã thấy. Mỗi chương trong Trường Sơn là một lớp người hoặc một người. Những người ấy tách biệt ra, riêng biệt thành từng mảng nhưng cuối cùng họ lại kết dính lại với nhau để thành Trường Sơn. Giống như tầng tầng lớp lớp đá, tầng tầng lớp cây, rồi vạn ngàn muông thú mới làm nên một dãy Trường Sơn trùng trùng, điệp điệp vậy. Nhờ đa dạng phong phú Người mà trường ca Trường Sơn của Nguyễn Anh Nông lúc nào cũng sôi động. Trường Sơn ấy có: Vạm vỡ ngục trần Đam San, dịu dàng ánh mắt Hơ Nhí.  Có người con gái đêm đêm mơ bóng trằng rằm bên chàng trai vạm vỡ. Những con người ấy hiện ra như trong chuyện tình cổ tích. Không thiếu những con người đáng kính trọng của Trường Sơn, đó là những già làng như ta- da đồng hun, tóc cước, râu bạc- kể Khan như lên đồng - ong bay bướm lượn, để mãi sau này, bây giờ và mai sau nữa biết đến Đam San, Xing Nhã, Hơ Nhí, BNhí, nữ thần mặt trời… vừa là thần linh vừa là con người bằng xương, bằng thịt của Trường Sơn. Những thần linh của Trường Sơn hiện ra trong trường ca của Nguyễn Anh Nông cũng gần gũi như đang sống với chúng ta hằng ngày. Nguyễn Anh Nông không phải bắt đầu từ đó, nhưng từ thần bí của rừng mà cho người đọc hình dung được một Trường Sơn lung linh, huyền diệu.
Nhà văn Hoài Dương: §©y lµ mét tr¬êng ca gîi nghÜ tuy nã vÉn cßn vông vÒ ë c¸ch dïng ch÷, ®Æt c©u th«ng th¬êng. Cã c¸i gîi nghÜ cña nã lµ nhê ®Ò tµi, nhí c¸i t×nh cña ng¬êi viÕt vµ nhÊt lµ nhê c¸ch biÕt t¹o ra mét hîp ©m cña lêi väng vµo ng¬êi ®äc.
Nhà văn Đoàn Minh Tâm: Nguyễn Anh Nông một mặt kế thừa những giá trị cốt lõi mà các thế hệ đi trước đã khai thác như tình đồng đội thiêng liêng, khát vọng hòa bình, nỗi đau chiến tranh… một mặt anh chú ý dụng công tạo cho mình một hướng tiếp cận đề tài riêng. Hướng tiếp cận riêng ấy nằm ở khía cạnh thời gian. Khi sử dụng thời gian trong trường ca viết về chiến tranh nói chung và viết về Trường Sơn nói riêng, đa phần các tác giả đều sử dụng thủ pháp đồng hiện xen kẽ quá khứ với hiện tại, từ hiện tại nghĩ tới tương lai.
Nhà văn Phạm Thuận Thành: Một điều đáng ngạc nhiên hơn, dù là lính nhưng Nguyễn Anh Nông không được trải qua thực tế chiến tranh để được hành quân trên đường Trường Sơn. Vậy mà cảm xúc của thơ lại chân thật và cảm động thế. Đó chính là công việc của nhà thơ mới làm được. Tôi càng tin hơn cả tác giả lẫn thi phẩm này.
Nhà văn Phạm Thanh Khương: Trường ca Trường Sơn của anh đã có được những điều mà bạn đọc trông chờ. Có bi, có hùng, có vui, có buồn. Những điều mà những người viết trước phải tránh thì ở anh đã có những cái nhìn, cái cảm, sự suy tưởng. Khi đọc trường ca Trường Sơn người đọc nhận được về mình đầy đủ những gì đã xảy ra, đã ghi dấu ấn, đã để lại trong chiến tranh dẫu đó là nỗi đau, sự hy sinh, mất mát.
Trường ca của anh cũng đã có sự chuyển trong cấu tứ, ngôn ngữ, cách nói, cách cảm, cách nhìn nhận mới về chiến tranh. Mỗi chương, mỗi khúc đã có sự “tỉnh táo” của người viết khi đề cập đến vấn đề chiến tranh. Và có lẽ vì thế, người đọc có cái nhìn tương đối đầy đủ, tương đối toàn diện về chiến tranh
TÁC GIẢ: NGHUYỄN ANH NÔNG

BÚT DANH:
 * Kim Diệu Hương
 * Thanh Bình Thi...
Quê quán: Chín Cảnh, Quảng Yên,  Quảng   Xương, Thanh Hoá
 - Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
        Hội Nhà báo VN
 - Hội Văn học Nghệ thuật C.D.T.T.S.VN
 - Hội Nghệ sĩ Điện ảnh VN
 - Chi hội Nhà văn Quân đội
CÁC TẬP SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN
 1- Bàn tay lá cỏ (tập 1) - NXB Văn học 1993
 2- Bàn tay lá cỏ (Tập 2) - NXB Văn học 1995
 3- Kỵ sĩ ngựa gỗ (thơ viết cho thiếu nhi) 1998
 4- Mây bay - 2000
 5- Những tháng năm ở rừng - NXB QĐND     2005
 6- Trường ca: Gửi Bin Ghết (BILL    GATES)&        trời     xanh   

Hiền Anh
Nguồn: Tạp chí Tri thức thời đại, số đặc biệt tháng 12/2012:
http://trithucthoidai.vn/...e-chien-tranh-a70916.html

Chưa có đánh giá nào
Trả lời

Trang trong tổng số 2 trang (17 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]