Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Văn tế Trường Lưu nhị nữ
Như mọi người đều biết, cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII ở vùng Nghệ An có hai làng khá nổi tiếng là làng Tiên Điền (nay thuộc huyện Nghi Xuân, Nghệ Tĩnh) và làng Trường Lưu (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh) với các nhà văn, nhà thơ của hai họ Nguyễn. Ở làng Tiên Điền có Tiến sĩ Nguyễn Huệ (1705-1733), Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1775), Tiến sĩ Nguyễn Khản (1734-1786), các nhà thơ Nguyễn Du (1765-1820), Nguyễn Thiện (1763-1786) v.v… Ở làng Trường Lưu có Thám hoa Nguyễn Huy Oánh (1713-1789), Tiến sĩ Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785), các nhà thơ Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) v.v… Các nhà văn, nhà thơ của hai làng này đã sớm có quan hệ về gia đình và văn học với nhau, Nguyễn Huy Tự là con trai Nguyễn Huy Oánh và là con rể Nguyễn Khản. Hai bà vợ của Nguyễn Khản là hai chị em ruột, chị là Nguyễn Thị Bành (1750-1773); em là Nguyễn Thị Đài (1752-1819). Đặc biệt sự giao du về văn học đã có sớm, được thể hiện khá rõ ở ba bài Thác lời gái phường vải của Nguyễn Huy Quýnh [3, 4], Thác lời trai phường nón và Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu của Nguyễn Du. Về thời gian sáng tác của hai bài sau có nhiều ý kiến không thống nhất [1, 2, 3, 4]. Sau một thời gian sưu tầm, khảo cứu, chúng tôi xin mạnh dạn trình bày một số ý kiến về ba bài trên.
Trước hết về ba bài này - trong các tài liệu đã dẫn đều khẳng định là của Nguyễn Du và Nguyễn Huy Quýnh, và các anh Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Lộc [2], ông Hoàng Xuân Hãn [1], đều cho là được Nguyễn Du sáng tác trước lúc Nguyễn Du 19-25 tuổi. Theo ông Trương Chính [3], các bài đó được Nguyễn Du sáng tác vào lúc Nguyễn Du đã ngoài ba mươi (1796-1804). Cả hai ý kiến trên đều chưa được xác đáng. Muốn hiểu rõ thêm về thời gian sáng tác của hai bài của Nguyễn Du, ta hãy xem Nguyễn Huy Quýnh đã tặng Nguyễn Du bài Thác lời gái phường vải vào lúc nào.
Nguyễn Huy Quýnh sinh năm 1734 niên hiệu Long Đức thứ 3 đời vua Lê Thuần Tông (1732-1735) tại làng Trường Lưu, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An, nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh.
Viễn tổ của Nguyễn Huy Quýnh là Nguyễn Uyên Hậu đậu khoa Ngũ kinh bác sĩ đời Lê Hồng Đức (1470-1497). Ông tổ chín đời là Nguyễn Hàm Hằng đậu Hương cống (Cử nhân) năm 15 tuổi, các đời sau đời nào cũng có người đỗ đạt.
Ông tổ bốn đời là Nguyễn Công Ban đậu khoa Hoành từ đời Lê Chính Hoà (1680-1705) làm tới Giám sát ngự sử, lúc mất được thờ ở đình làng. Cha là Nguyễn Huy Tựu đậu Hương giải (đỗ đầu kỳ thi Hương) làm tới chức Tham chính Thái Nguyên lúc chết được phong hàm Công bộ Thượng thư. Anh là Nguyễn Huy Oánh đậu Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn (1748) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786) làm tới chức Hộ bộ Thượng thư, từng đi sứ Trung Quốc và có trứ tác nhiều sách Hán văn (Quốc sử toát yếu, Phụng sứ Yên đài tổng ca, Tiêu Tương bách vịnh, Thạc Đình di cảo v.v…). Nhà thơ Nguyễn Huy Tự tác giả Truyện Hoa tiên gọi Nguyễn Huy Quýnh là chú, Nguyễn Huy Quýnh cũng là ông chú của nhà thơ Nguyễn Huy Hổ tác giả Mai đình mộng ký. Như vậy về mặt quan hệ gia đình Nguyễn Huy Quýnh và Nguyễn Du đều là bậc chú của Nguyễn Huy Tự, tức là Nguyễn Huy Quýnh ngang hàng với Nguyễn Du, mặc dù ông hơn Nguyễn Du 31 tuổi.
Về cuộc đời riêng của ông, qua một ít tài liệu như sách Nguyễn thị gia tàng, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt sử thông giám cương mục ta biết: lúc còn nhỏ, ông nổi tiếng văn hay chữ tốt, 13 tuổi đầu Tú tài (hiệu sinh), 16 tuổi đậu Hương cống, sau đó thi Hội sáu lần, lần thứ sáu mới đậu Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1772) năm Cảnh Hưng thứ 33 (cùng khoa với Hội nguyên, Đình nguyên Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống người xã Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu). Sau đó ông lĩnh chức Hàn lâm thị giảng. Năm Giáp Ngọ (1774) - Ất Mùi (1775) ông cùng anh là Nguyễn Huy Oánh đều dự việc bình Nam theo chúa Trịnh Sâm (1739-1782). Sách Cương mục chép lúc đóng quân ở Hà Trung, Trịnh Sâm sai ông đem thơ, 100 lạng vàng, 5000 lạng bạc vào cho Hoàng Ngũ Phúc ở Thuận Hoá [5]. Sau đó ông chuyển sang ngạch võ, làm Đốc thị Thuận Hoá.
Ngày 15 tháng 5 năm Canh Tý (1780), trước hôm xảy ra vụ án Canh Tý, Trịnh Sâm sai ông làm Tả tư giảng cho Thế tử Trịnh Tông (1763-1786). Hôm sau, Tông bị giam lỏng ở kinh đô, còn phe đảng của Tông mỗi người lẩn trốn mỗi nơi [6]. Ông cũng như Nguyễn Điều (1748-1786) Trấn thủ Sơn Tây. Nguyễn Khản sau này đều về quê, chỉ có điều là ông về quê ngay sau khi xảy ra vụ án Canh Tý, còn Nguyễn Khản và Nguyễn Điều mãi đến bốn năm sau (1784) mới về quê.
Ông mất năm 1785, thọ 52 tuổi. Tác phẩm ông còn lại Quảng Thuận đạo sử tập (có ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm [10], ký hiệu VHv.1375) gồm 88 trang có bản đồ, về lịch sử, địa lý của hai tỉnh Thuận Hoá và Quảng Ngãi, gồm phủ huyện, kho tàng v.v… Ngoài ra còn một số như: 4 tập Dân phong thi ca, 3 tập Văn phong thi ca, 1 tập Nam phương dư địa chí, 1 tập Lục thứ đình vi, bài ca Hi Tổ Nhân vương (Trịnh Cương, 1709-1729) v.v…
Năm 1924, cụ Phó bảng Ba Sĩ và cụ Giải nguyên Lê Thước đã giới thiệu bài thơ Thác lời gái Phường Vải của ông gởi tặng Nguyễn Du. Vậy ông viết vào lúc nào, chắc chắn là sau vụ án Canh Tý ông đã về quê, và đi lại với Nguyễn Du chính là ở giai đoạn này.
Vả lại Trường Lưu bấy giờ rất nổi tiếng với nghề chăn tằm dệt lụa, và do đó văn nhân tụ tập hát ví, hát phường vải. Vào thời gian ấy, từ Giáp Ngọ (1774), trấn Nghệ An dưới quyền cai trị của Hoàng Đăng Bảo rất thịnh vượng (Cương mục trang 18, tập 1,6). Tại làng Trường Lưu, Nguyễn Huy Oánh đã cáo quan về quê năm 1777 (Đinh Dậu) dựng thư viện chứa sách tới vạn quyển, trước sau dạy học trò mấy nghìn người [7, 8]. Học trò của Nguyễn Huy Oánh đỗ đại khoa hơn ba mươi vị, làm quan tại triều hơn 50 vị, còn Cử nhân, Tú tài, Tri phủ, Tri huyện không kể xiết [8]. Lúc đó Trường Lưu thật là thịnh vượng, ở đây có chợ, có thư viện, là nơi tụ tập qua lại của nhiều văn nhân.
Vả lại ai cũng rõ theo tiểu sử Nguyễn Du, sinh năm 1765, năm 11 tuổi cha mất (1775), năm 13 tuổi mẹ mất (1777) và năm Quí Mão (1783) Nguyễn Du đã ra thi ở trường Sơn Nam và đậu Tam trường lúc 19 tuổi. Chỉ từ sau năm 1784, sau vụ kiêu binh nổi lên phá nhà của Nguyễn Khản, Khản với em là Nguyễn Điều mưu tính trừ kiêu binh không được, mới rút về quê. Năm sau Tây Sơn kéo quân ra Bắc, Nguyễn Khản tự mình đem người nhà vượt biển ra Bắc để cứu viện. Đến tháng 9 Nguyễn Khản cảm bệnh ốm chết ở kinh đô. Còn Nguyễn Điều ở nhà xem xét tình thế trong hạt, rồi mất ở huyện Thanh Chương, Nghệ An vào tháng 7 năm 1786. Chắc lúc này Nguyễn Du không ở Nghệ An. Còn như từ 1786 đền 1789, Nguyễn Du đã kế chân cha nuôi giữ chức quan võ và cuối cùng chạy về quê vợ ở Sơn Nam. Mãi đến năm 1796, Nguyễn Du mới dời về Hồng Lĩnh và ở đây sáu năm, đến năm 1802 thì ra làm quan với nhà Nguyễn. Và Nguyễn Huy Quýnh cũng đã mất trước đó lâu rồi.
Mà thời gian lui tới Trường Lưu của Nguyễn Du lại không phải là ít, đến những gần hai năm:
Ba sinh dành một kiếp hẹn hò,Vả lại, theo bài thơ của Nguyễn Huy Quýnh tặng Nguyễn Du:
Hai năm được mấy lần chung chạ.
Tảng mai Hầu trở về nhà,“Hầu” đây là Nguyễn Du, lúc nhỏ tập tước của cha là Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, thường gọi là Du Đức Hầu. Vậy thì rõ ràng Nguyễn Du đã lên chơi và hát ví ở Trường Lưu lúc còn niên thiếu và được Nguyễn Huy Quýnh tặng bài thơ trên thông qua cô gái hát phường vải - hoặc cô phường vải đã tặng Nguyễn Du bài thơ trên dựa theo lời kể chuyện của Nguyễn Huy Quýnh, trước lúc Nguyễn Du ra Sơn Nam. Vậy thì ở đây ta thấy rõ Nguyễn Huy Quýnh làm bài thơ tặng Nguyễn Du chỉ có thể trước năm 1783, chính xác hơn là vào khoảng từ 1780-1783 trước lúc Nguyễn Du đậu tam trường và tập tước quan võ của cha nuôi.
Hồn tương tư hãy còn mê giấc nồng.
Khi lên để rối cho nhau,Sau đó, Nguyễn Du đã đáp lại, cùng là một bài thơ lục bát, bài Thác lời trai phường nón, tức là trai làng Tiên Điền, làng này vốn có nghề làm nón, trả lời bài Thác lời gái phường vải là gái Trường Lưu. Đó cũng là bức thư tình và chan chứa tình cảm. Những câu:
Khi về trút một gánh sầu về ngay.
Xua buồn từ nớ lại hay
Nào ai mó đến xa quay xin thề.
Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,đều là xuất phát tự đáy lòng của những người đang yêu, đang đợi chờ, đang mong nhớ.
Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu.
Làm chi cắc cớ lắm điều,
Mới đêm hôm trước lại chiều hôm nay.
Khi xa xa hỡi thế này,
Tiếng xa nghe vẫn rù rì bên tai.
Quây ngoài sân thì trong làng chín mười ả, ả ví, ả hát, ả kéo sợi, ả đưa thoi, lại có ả bưng trầu tận miệng, mỹ nữ như hoa.“Quan họ” ở đây là con em họ Nguyễn Huy bạn bè của Nguyễn Du, “Đội thế thần quan họ trong làng, cũng mang tới cân trà quá đá” và những cảnh:
Léo trên giường thì, quan họ năm bảy ông, ông nói, ông cười, ông ngâm thơ, ông đọc truyện, lại có ông lấy áo trùm đầu, cao bằng mãn toạ.
Đêm đêm thường hát ví xôn xao,Sau những đêm hát ví Nguyễn Du ra về, O Uy, O Sạ đã gởi gắm tình cảm của mình qua bài của Nguyễn Huy Quýnh và Nguyễn Du cũng đáp lại bằng tình cảm chân thành:
Ai ai cũng trầu cau đãi đoạ
Kéo dài những hai năm:
Ba sinh dành một kiếp hẹn hò,
Hai năm được mấy lần chung chạ
Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,Ấy thế mà rồi, trai trong làng phá đám, cũng là trâu buộc ghét trâu ăn, cho nên tối đến là:
Đò Cài mấy trượng thì tình bấy nhiêu.
Trai trong làng rình bốn mặt chan chan,Một hôm họ thổi tắt đèn, rồi đốt lói, một thứ pháo làm bằng ống tre, tộng thuốc súng vào và suýt nữa xảy ra ẩu đả:
Chó làng xóm sủa năm canh xa xả.
Phụt ngọn đèn trước mắt, đếch sự đời chẳng phải đứa tiểu tâm;Nếu không có sự phá đám của trai làng thì Nguyễn Du - cậu ấm con quan ở trong hoàn cảnh xã hội phong kiến thời bấy giờ cũng không thể lấy những cô gái hát ví được...
Đùng tiếng lói sau nhà, đù mẹ kiếp bỗng có thằng đại phá.
Ta đã đành mắc tiếng thày layvà sau đó, vào dịp tháng sáu, cả hai O Uy, O Sạ đều lấy chồng, cũng không có gì là lạ, nơi hỏi cũng xứng đáng, một người là nông dân, một người là lính và Nguyễn Du tất nhiên lại trở về với con đường công danh, học hành của mình. Trong mấy câu tiếp, Nguyễn Du có ý hờn dỗi, trách móc hai cô và không ít thì nhiều cũng có ý châm biếm hai người chồng của hai cô: “tiếc người ấy gieo mình vào đồng lúa, túc túc gà; gẫm thằng kia là tướng giữ nương dưa, đùng đùng quạ”.
Ả cũng hoá ra người đĩ thoã
Một đứa thì dắt mũi trâu từ thuở bé, tắc tắc hò rì,và Nguyễn Du về dùi mài kinh sử, đi thi và học ở phương Bắc cho một đến mười mấy năm sau:
Một đứa thì cắt cỏ ngựa đến tận già, tùng tùng dạ há.
Mười mấy năm sau, bên Tiên Điền:Ở đây Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Huệ, Nguyễn Khản, Nguyễn Điều đã mất cả, một số lưu lạc đi nơi khác, một số chống lại Tây Sơn và bị giết như Nguyễn Quýnh (1759-1791), một số theo Tây Sơn như Nguyễn Nễ (1751-1805) (anh cùng mẹ với Nguyễn Du).
Hồng Lĩnh vô gia, huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên (Ở Hồng Lĩnh không có nhà, anh em tan nát, đầu bạc thường bực vì ngày tháng trôi mau).
Ở nhà lâu nghĩ cũng bần thần,Nhưng còn đâu là cái cảnh tình đẹp đẽ hồi xưa nữa, mà cũng con đường đó, lúc trước hăm hở bước đi bao nhiêu thì nay:
Viếng cảnh cũ muốn làm khuây khoả.
Đường cửa Trẹm mỗi ngày một ngái, bóng câu tiếng suối, núi giăng giăng, con mắt đã mòn;Nhưng Nguyễn Du vẫn lên thăm, vì dẫu sao cũng còn ít nhiều bạn bè cũ:
Điếm trên làng càng ngắm càng buồn, ngọn khói hạt mưa, trời thăm thẳm mặt người đã nhoá.
Hắt hiu gió trúc mưa mai,
Quạnh quẽ bóng chim tăm cá.
Vì quan họ nên chúng ta mộ đứa, bạn hữu quen còn đến rủ bao nhiêu.Và Nguyễn Du đã bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người, tìm đến thăm người cũ thì:
Nói đến tên thì đã gọi mụ nọ mụ kia, may mắn bấy trồng sung ra vả.Gần 20 năm rồi còn gì nữa (1780-1783 đến 1896-1802); O Uy, O Sạ nay đã thành mụ nọ, mụ kia (ở đây cần lưu ý bạn đọc là ở vùng Trường Lưu, Can Lộc tiếng “mụ” dùng để chỉ người đàn bà có con lớn gần thành vợ thành chồng chứ chưa lên đến chức bà). Và tiếng tăm “thày lay” của Nguyễn Du cũng chẳng còn vương lại bao nhiêu, nhà cửa của các O đã:
Cửa nhà mình đã bưng kín như buồng,Phong cảnh ở đây chả khác gì phong cảnh cũ, nhưng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, người xưa còn đâu:
Tiếng tăm ta cũng rửa sạch như đá.
Nhân duyên xưa, bẻ ngó lìa cành,và Nguyễn Du nhớ lại:
Phong cảnh cũ, vàng cây héo lá.
Tưởng những lúc tắt đèn dạy chuyện, dứt câu này nối câu khác, trăng ngoài hiên khi tỏ khi mờ;Nguyễn Du nhớ lại, hồi tưởng lại, Nguyễn Du làm bài văn này để nhớ lại O Uy, O Sạ kể chuyện tình cảm xảy ra gần hai mươi năm về trước lúc Nguyễn Du chưa tới hai mươi tuổi, và qua đó gửi gắm ít tâm sự. Đó là nội dung bài Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu.
Nhớ đến khi thắp đuốc chơi đêm, ở nhà ngoài vào nhà trong, giọt bên chái như tầm như tã.
Trai trong làng rình bốn mặt chan chan;“Trai trong làng” đối với “chó hàng xóm” Nguyễn Du đã làm cho trai làng Trường Lưu (ngoài “quan họ”) tức giận và hò hẹn nhau nếu Nguyễn Du còn lên chơi sẽ đón đánh. Vậy bài văn này được sáng tác vào quãng 1796-1902, sau hai bài trước gần 20 năm.
Chó hàng xóm sủa năm canh xa xả.
Về thiời gian | Về câu chuyện | Về tác giả | |||||
Trương Chính | 1796-1802 (cả 3 bài) | Hư cấu | Nguyễn Du và Nguyễn Huy Quýnh | ||||
Hoàng Xuân Hãn | Trước 1789 (cả 3 bài) | Có thực | |||||
Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Lộc | Trước 1783 (cả 3 bài) | Có thực | |||||
Chúng tôi | Bài 1,2: 1780-1783; Bài 3:1796-1802 | Có thực |
Họ Nguyễn Tiên Điền | Họ Nguyễn Huy Trường Lưu | ||
Nguyễn Huệ (1705-1733) Tiến sĩ (dạy học) | Nguyễn Nghiễm (1708-1775) Tiến sĩ, Quận công, Tả tướng | Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) Thám hoa, Thượng thư (Phúc Giang thư viện, dạy học) | Nguyễn Huy Quýnh (1734-1785) Tiến sĩ, Đốc thị |
Nguyễn Du (1765-1820) (Truyện Kiều) | Nguyễn Khản (1734-1786) Tiến sĩ, Quận công | Nguyễn Huy Tự (1743-1791) (Hoa tiên) | |
Nguyễn Thị Đài (1752-1819) | Nguyễn Thị Bành (1750-1773) | ||
Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) (Mai đình mộng ký) | Nguyễn Huy Vịnh (1786-1838) (Nguyễn thị gia tàng) |