Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [78] [79] [80] [81] [82] [83] [84] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

8
TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG NHÌN QUA LĂNG KÍNH TRIẾT HỌC TRUYỀN THỐNG PHƯƠNG ĐÔNG


Huỳnh Ngọc Chiến
T ại phương Đông, triết học hoàn toàn không phải là những khái niệm xa lạ với cuộc sống, nó không tự đóng khung trong những tháp ngà để mọi người phải “kính nhi viễn chi”[1] mà trái lại nó hoà nhập vào tận từng hơi thở của cuộc sống thường ngày.
Người phương Tây thường nói: Ăn trước rồi mới triết lí sau, người phương Đông cho rằng trong công việc ăn uống, sinh hoạt đời thường tự nó đã mang tính triết lí rồi. Trong lịch sử phát triển văn hoá phương Đông, đã có nhiều giai đoạn người ta khó lòng chứng kiến được sự nở rộ đến kì diệu của các trào lưu Trà đạo, Hoa đạo, Kiếm đạo, hội hoạ thi ca ... nếu như chúng không được gợi hứng trực tiếp ít nhiều từ Lão giáo và Phật giáo Thiền tông. Thế nhưng hoa đạo, trà đạo hay hội hoạ ... dẫu cao diệu đến đâu chăng nữa cũng chỉ là sự biểu

hiện của tâm dưới ánh sáng của các tâm hồn giác ngộ; chỉ trong Kiếm đạo, sinh mệnh mới thực sự treo lơ lưng trên đường tơ kẻ tóc. Vấn đề sinh tử không còn được nêu lên để trầm tư suy tưởng như một công án nữa, mà biên giới giữa tư và sinh giờ đây có khi chỉ cách nhau trong một sát na[2]. Từ đó triết học cũng hoá thân vào các kiếm pháp thượng thừa.

Kim Dung là một trong những người đầu tiên bước ra khỏi con đường sáo mòn của tiểu thuyết kiếm hiệp cổ điển vốn mang nặng phong cách của loại tiểu thuyết chương hồi về hình thức lẫn mô-típ sáng tạo, trong đó các nhân vật chính diện lẫn phản diện thường na ná theo một khuôn khổ ước lệ như nhau. Kim Dung là người tiền phong trong việc soi sáng các tư tưởng triết học truyền thống phương Đông dưới một khía cạnh hoàn toàn mới lạ: võ thuật. Ngay từ các tác phẩm đầu tiên như Thư kiếm ân cừu lục cho đến Ỷ thiên Đồ long kí, Hiệp khách hành, Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung đã không ngừng nổ lực triển khai tư tưởng này. Thế nhưng trong các tác phẩm đó, nhất là trong Thư kiếm ân cừu lục, ông đã quá chú trọng đến lí luận nên tư tưởng được triển khai hơi nặng nề. Ngòi bút nhà tư tưởng truyền thống đã lấn át phong cách hào hoa của nhà nghệ sĩ, người đọc có cảm tưởng đang nghe giảng đạo. Chỉ đến Tiếu ngạo giang hồ, thì tư tưởng đó mới thực sự được khai mở một cách phiêu bồng bằng đường kiếm vô chiêu của gã tưu đồ Lệnh Hồ Xung. Kim Dung đã triển khai những nếp gấp ẩn mật trong tư tưởng phương Đông qua phong cách riêng biệt của tiểu thuyết võ hiệp.

Theo truyền thống phương Đông, phàm những gì có thành thì phải có hoại [3] bởi vì vạn vật đều được cấu tạo từ chổ bất toàn của nó [4] Do đó, mọi chiêu kiếm dù cao thâm đén đâu, hễ đã thành chiêu thức thì ắt phải có chổ sơ hở để địch nhân phản kích. “Nếu ta đánh không theo chiêu thức nào cả thì địch nhân phá vào đâu ? ". Câu hỏi đơn giản của Phong Thanh Dương như một tiếng hét của Lâm Tế, như cây gậy của Đức Sơn [5 ]khai ngộ ngay cho anh chàng lãng tư Lệnh Hồ Xung. Từ bước ngoặt đó, y đã đánh bại ngay Điền Bá Quang, người mà chỉ vài giờ trước đó đã đánh cho y thua liểng xiểng.

Từ chổ được khai tâm điểm nhã n, đường kiếm vô chiêu tuyệt diệu của Độc Cô Cầu Bại [6] cứ theo gã tửu đồ Lệnh Hồ Xung phiêu bồng khắp giang hồ, mà không hề bại trận. Ngay dưới núi Võ Đương, khi vô tình so gươm với tay đệ nhất kiếm thuât đương thời là Xung Hư đạo trưởng -chưởng môn phái Võ Đương-, lúc bị khốn trong những vòng kiếm quang liên miên bất tận, Lệnh Hồ Xung vẫn nhớ đến nguyên lí có thành phải có hoại, nên đã đánh ngay vào làn kiếm quang dày đặc và đã thủ thắng bằng một chiêu tối hậu. Một lần nữa tư tưởng Vô thắng Hữu lại được khẳng định qua đường kiếm thượng thừa. °ở đây ta thấy thấp thoáng tư tưởng “Vô danh thiên địa chi thuỷ” [7] của Đạo đức kinh.

Kiếm pháp vô chiêu của Độc Cô Cầu Bại vốn không có khuôn khổ nhất định, nó cứ linh động tuỳ cảm mà ứng nên nó có thể thâu hoá tất cả kíếm pháp trong thiên hạ vào một mối để biến thành kiếm pháp của chính nó, thế thì thử hỏi có kiếm pháp nào trong đời địch lại nỗi ? Ngày xưa khi Độc Cô Cầu Bại hành hiệp, ông chỉ ước được bại trận một lần mà không được ! Kiếm pháp đó sẽ cực kì phức tạp, khó hiểu đối với những kẻ uyên bác đầy ắp kiến thức, nhưng lại dễ dàng tiếp cận với những trái tim thuần phác hồn nhiên, không câu nệ cố chấp, những đầu óc không mang sẵn những định kiến cứng nhắc, những tâm hồn đã đạt mức “hư kì tâm” (giữ lòng trống rỗng) của Lã o Tử. Kiếm pháp vô chiêu cũng là một bức tranh minh hoạ sinh động về tư tưởng “Nhất dĩ quán chi” của Khổng Tử.

Một số người không quen nếp suy tư phương Đông sẽ cho rằng nếu như thế thì hoá ra kẻ không biết gì về võ công, đánh không theo một chiêu thức qui củ nào lại hơn cả những tay cao thủ ! Đây là một kiểu ngộ nhận khá phổ biến. Vô ở đây không phải là không biết gì theo suy tư thông thường mà là cái Vô đã vượt trên cái Hữu. Vô đươc ví như cái hangrỗng chứa được tất cả nhưng vẫn trống không. Trong truyền thống Phật giáo tiểu thừa, người đạt quả vị tối cao là A la hán còn được gọi là bậc Vô học. Từ “Vô” trong vô chiêu nên được hiểu theo nghiã đó hoặc hiểu theo nghĩa tính Không (sunyata) trong hệ thống tư tưởng Bát Nhã Phật giáo. Triết học Đông phương, đặc biệt là Phật giáo, vẫn thường tỏ ra dè dặt với sự lãnh hội của lí trí. Người ta không tin rằng lí trí có thể thấu hiểu được mọi vấn đề bằng khả năng, phân tich tổng hợp của nó. Chưa bao giờ, trong tác phẩm Kim Dung, kẻ uyên bác khổ luyện lại là người đạt đến trình độ tối cao trong võ học. Hình ảnh những đại cao thủ như Tô Tinh Hà, Cưu Ma Trí, Tiêu Viễn Sơn, Mộ Dung Bác [9]... là những biểu tượng thất bại của tham vọng bách khoa, của lí trí trước thềm võ học. Bởi vì sự tích luỹ không thâu hoá sáng tạo chỉ đưa đến tổng số thay vì tổng hoà. Họ chỉ đăng đường chứ không thể nào nhập thất. [10] Chỗ tận diệu của võ thuật vẫn như một huyền án lơ lững thách đố trí thông minh của con người. Càng thông minh, càng tích chứa kiến thức mà không có được một đầu mối nhất dĩ qúan thấu suốt tất cả để dung hoà thành một mối thì dễ dàng rơi vào trạng thái tẩu hoả nhập ma [11] tinh thần. Trái lại những tâm hồn thuần phác và tĩnh lặng như vị sư vô danh quét rác trong Tàng kinh các chùa Thiếu Lâm [12] mới đạt đến chổ tận diệu đó. Đó là những triết gia phương Đông chân chính và vô danh đang hiển thị chữ đạo trong võ thuật

giữa các công việc bình nhật thường ngày. Trong Hiệp khách hành [13], tất cả đại cao thủ đệ nhất đương thời đều điên đầu không thể lĩnh hội nổi võ công đề trên bức vách tại Long Mộc đảo, kể cả Long Mộc đảo chủ, hai nhân vật mà võ công đã đi vào huyền thoại, ấy thế mà gã ăn xin đôn hậu Thạch Phá Thiên vốn dốt đặc cán mai lại thấu trịệt hoàn toàn. Ở đây, dường như Kim Dung muốn nhắc ta nhớ lại hình ảnh thiền sư Huệ Năng, Tổ thứ sáu của lịch sư Thiền tông Trung Quốc, người đốn củi không học hành lại được sư phụ truyền y bát để kế tiếp tông phái thay vì truyền cho Thần Tú, là một vị cao tăng uyên bác [14]. Cái diệu lí của võ thuật, của đạo đã vuợt quá ngôn ngữ văn tự mà đi thẳng vào tâm hồn những ngưòi đồng điệu theo lẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu (Kinh Dịch, quẻ Kiền)

Theo kinh Dịch, tất cả thiên sai vạn biệt trong vũ trụ này đều phát sinh từ cái một đơn nhất : đó là Thái cực[15]. Cho nên đỉnh cao của võ thuật cũng tiến dần đến chỗ đơn nhất. Trên con đường trở về nguồn cội, tức là quay về cái lẽ đơn nhất đó, trong truyền thống phương Đông, tự thân võ học mất đi những cái rườm rà, Những chi tiết tan biến đi và chỉ còn lại nguyên lí “Vạn vật qui ư nhất” [16]. Tất cả vạn sự đều quay về cái một. Rồi chính cái một đó tự nó cũng tiêu dung lặng lẽ, hoà nhập với Tâm. Trong Ỷ thiên Đồ long kí, khi Trương Tam Phong dạy Thái cực kiếm pháp cho Trương Vô Kị, mỗi lần tập luyện là Vô Kị quên đi một nữa, đến lúc quên cả mới thực sự tựu thành. Kiếm pháp lúc đó đã hợp nhất với thân tâm, kiếm chiêu thu hay phát đều theo tâm niệm như nước chảy mây bay, không bị ngăn ngại. Từ cái Một đó mà biến hoá ra thiên sai vạn biệt. Cái Một là cái nền cho mọi thay đổi, nó trở thành cái trục giúp cho mọi biến dịch xoay quay đó theo đủ thể cách mà vẫn không bị rơi vào sự hỗn độn (Chaos). Lão Tử bảo :

Thiên đắc nhất dĩ thanh
Địa đắc nhất dĩ ninh
Thần đắc nhất dĩ linh
...............................
Thiên vô dĩ thanh tương khủng liệt
Địa vô dĩ ninh tương khủng phế
Thần vô dĩ linh tương khủng hiệt [17]

Triết học cổ đại phương Đông vốn từ lâu đã bị vây khổn trong màng lưới lí luận của triết học phương Tây, nên những thiên tài như Kim Dung phải khai phá một thông lộ khác để đưa người đọc tiếp cận với nguồn suối uyên nguyên đó. Đọc tiểu thuyết Kim Dung qua lăng kính triết học phương Đông, ta sẽ còn khám phá ra nhiều điều thú vị khác. Không chỉ có võ thuật, rải rác trong tác phẩm ông, ta còn gặp nhiều trang tuyệt bút bàn về trà, về hoa, về hội hoạ, về thơ ca, về cờ .... tái hiện các tư tưởng trong triết học phương Đông một cách cực kì sinh động. Không lí luận nhiều, chỉ cảm nhận mà thôi. Những câu nói của các bậc hiền triết xưa vốn đã bị ngộ giải qua các cuốn sách khảo cứu, giờ đây nhiều khi tái hiện lại chân dung nguyên thuỷ dưới một làn ánh sáng lung linh khác.

Nếu như Lã o Tư học kiếm, ngài sẽ viết lại Đạo đức kinh, thay vì nói :
Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn
Tổn nhi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi [18]
mà sẽ nói rằng :
Vi học nhật ích, vi kiếm nhật tổn
Tổn nhi hựu tổn, dĩ chí ư vô chiêu[/b]

__________________________________________________ ______________________
Chú giải
[1] Kính sợ mà xa lánh ( Luận ngữ- Ung giả VI)
[2] Một khái niêm thời gian cực ngắn theo triết học Phật giáo
[3] Nam hoa kinh, Tề Vật luận
[4] Thơ Lí Hạ " Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ, Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ” (Nơi bà Nữ Oa luyện đá vá trời, đá vỡ trời rung, mùa thu ngưng đọng)
[5] Hai thiền sư đời Đường chuyên khai ngộ đệ tử bằng cách hét và đánh gậy thay cho những bài thuyết pháp
[6] Phong Thanh Dương, Lệnh Hồ Xung, Điền Bá Quang, Độc cô Cầu Bại, Xung Hư đạo trưởng : tên các nhân vật trong “Tiếu ngạo giang hồ khúc”
[7] Vô là tên gọi khởi thuỷ của trời đất ( Đạo đức kinh, chương I) (Cách dịch của tôi có khác với một vài sách dịch khác, thuờng dịch câu này là : Vô danh là gốc của trời đất)
[ 8] Dùng lẽ một để thấu suốt tất cả
[9 ]Các đại cao thủ trong tác phẩm “Thiên Long bát bôĩ - Lục mạch thần kiếm”
[10] Khổng tư chia môn đồ của mình thành hai hạng : hạng đăng đường chỉ hiểu được lớp bên ngoài của đạo, còn hạng nhập thất mới hiếu thấu được phần tinh hoa cốt tuỷ bên trong
[11] Thuật ngữ dùng để chỉ những người luyện võ công sai lầm đưa đến trạng thái tê liệt toàn thân. Thật ra khái niệm này trong võthuật Trung Quốc cũng lấy từ Hatha - Yoga ấn Đô
[12] Một nhân vật trong Thiên Long bát bộ
[13] Thư kiếm ân cừu lục, ỷ thiên Đồ long kí. Hiệp khách hành, Tiếưu ngạo giang hồ khúc là bốn trong số các tác phẩm nổi tiếng của Kim Dung
[14] Theo Pháp Bảo Đàn Kinh
[15] Kinh Dịch : Dịch hữu Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái
(Dịch có Thái cực, Thái cực sinh ra hai nghi ( hai nguyên lí Âm dương), hai nghi sinh tứ tượng,, tứ tượng sinh tám quẻ ( Hệ từ thượng)
[16] Van vật đều quay về lẽ một
[17] Trời dùng Thanh (trong) để được lẽ Một, Đất dùng Ninh (Yên ổn) để được lẽ Một, Thần dùng Linh (linh thiêng) để được lẽ Một.... Trời không trong sẽ bị vỡ. Đất không yên sẽ bị lỡ, Thần không linh sẽ bị tán (Đạo đức kinh, chương XXXIX)
[18 ] Theo học thì ngày càng được thêm, theo đạo thì ngày càng bớt, bớt rồi lại bớt, cho đến mức vô vi (Đạo đức kinh, chương XLXIII)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

9
Tôi và Kim Dung


Tiền Giang
Ngày ấy,tôi rất mê đọc sách.Vì không được ai định hướng nên gặp sách gì tôi đọc sách đó.Từ truuyện Tàu đến tiểu thuyết diễm tình,từ dã sử võ hiệp cho đến các truyện ma quái,gần như tôi không bỏ qua một thứ nào!Sách mua thì ít,sách thuê thì nhiều.Những đồng tiền ít ỏi của ba mẹ cho để ra thành phố học tôi đem ném hết vào các quầy cho thuê sách.Thế nhưng sự thiếu thốn về vật chất không làm cho tôi từ bỏ niềm đam mê đó,trái lại,mỗi ngày tôi lại nghiện nặng hơn.Ban đầu là một học sinh giỏi của trường Kỹ Thuật Quy Nhơn(tôi thi đậu thứ hạng cao được nhận học bỗng) tôi chuyển dần sang dạng đội sổ.Mà không sa sút sao được khi ngay trong giờ học, tôi vẫn lén mở sách để dưới gầm bàn để đọc, trong khi thầy giáo đang giảng bài.Trong đầu tôi chứa đầy các nhân vật nhưng các công thức toán học và những kiến thức khác cần thiết cho một học sinh trung học thì lại bay đi đâu mất.Còn chăng là môn văn với kiểu viết của người lớn vì bắt chước theo sách ,cộng với môn lịch sử , vì tôi vốn dĩ rất mê các nhân vật và những diễn biến.Cuối cùng thì trong các thứ bùa mê thuốc lú đó,truyện kiếm hiệp đã trở thành nỗi ám ảnh sâu sắc đối vói tôi mãi cho đến sau này.Trong hàng chục tác giả viết về những chuyện không có thật trong cuộc sống ấy,Kim Dung nổi lên như một cây đại thụ.Nên tuy tuổi đời còn bé xíu, tôi vẫn có thể cảm nhận ông viết hay hơn những người khác,mặc dù không thể phân tích là hay ở chỗ nào.

Nói thì không ai tin,nhưng đầu óc non nớt của tôi ngày ấy có cách đọc sách và vận dụng thật kỳ quái.Học lịch sử,tôi mê mẩn câu chuyện Lý Thường Kiệt đem binh đánh Tống nhưng khi đọc Ngũ Hổ Bình Nam(1) tôi lại hết sức lo lắng cho ông ta.Nếu nhỡ quân Đại Việt đụng phải Địch Thanh(2) thì sao?Ai cũng biết họ Địch có “Nhân diện thú”,mỗi khi che lên mặt thì kẻ địch hộc máu mà chết.Trong các tướng của ta từ Tôn Đãn đến Vi Thủ An hay Hoàng Kim Mãn không thấy nói có ai biết phép thuật.Đọc Anh hùng xạ điêu và Thần điêu đại hiệp của Kim Dung tôi lại càng lo thêm.Nhà Tống tuy thất bại trước quân Nguyên,lui về giữ thành Tương Dương, nhưng trong đám tàn quân đó lại đầy dẫy những cao thủ đầy thân tuyệt kỹ có thể giết người trong chớp mắt.Một Hoàng Dược Sư với “Đàn chỉ thần công”,một Quách Tĩnh tinh thông “Giáng long thập bát chưởng”lại thêm cô vợ Hoàng Dung đầy mưu mẹo chưa kể Dương Quá chỉ bằng một cú ném đá có thể giết chết vua Mông.Nếu bọn họ quay mặt về Nam đối đầu với quân Lý thì biết làm thế nào?Cũng may,lịch sử đã không cho họ gặp mặt nhau.Để bẻ gãy ý đồ xâm lược của nhà Tống(thua đâu bắt trâu mà gỡ),Lý Thường Kiệt đã tiến quân như vũ bão,nhanh chóng chiếm hai châu Khâm và Liêm,bức tử Tô Giám tại Ung châu,chém đầu Trương Thủ Tiết tại ải Côn Lôn.Không hề thấy bóng dáng một cao thủ nào của Kim Dung lão sư,kể cả ba anh em kết nghĩa thần công cái thế là Tiêu Phong,Hư Trúc và Đoàn Dự(3).Họ đều sống vào thời Tống mạt,khi mà con cháu họ Triệu(4)liên tiếp bị các nước nhỏ bắt nạt.Kỵ binh và tượng binh của quân Việt tung hoành khắp chốn.Có lẽ quân ta không đọc “Thiên long bát bộ”nên không hề sợ “Lục mạch thần kiếm”(5)cũng như “Bắc minh thần công”(6).Có người vì thấy quân Tống chết quá nhiều nên nói “tếu”là Lý Thường Kiệt luyện được Tịch Tà Kiếm phổ(7).Chắc hẳn anh chàng đã bị ám ảnh bỡi trận huyết chiến trên Hắc Mộc Nhai(8),mặc dù chỉ có một mình,nhân vật “xăng pha nhớt”Đông Phương Bất Bại đã dùng “Quỳ Hoa Bảo Điển”đánh cho cha con Nhậm Ngã Hành xơ bơ xất bất.Tuy là một hoạn quan nhưng tôi đoan chắc đại tướng thiên tài họ Lý chưa hề một lần xem qua Tịch Tà kiếm phổ hay Quỳ Hoa Bảo Điển gì đó,loại võ công âm độc và không ai ưa này.

Đã xem truyện kiếm hiệp người nào lại không mê “Cô gái đồ long”.Riêng tôi thích thì có thích, nhưng lại không muốn trong đoàn quân viễn chinh Mông Cổ xâm lăng Đại Việt có mặt Huyền Minh nhị lão (9)tàn độc với môn công phu “Huyền Minh thần chưởng”đã làm khổ sở Trương Vô Kỵ một thời gian dài.Với Triệu Minh,cô quận chúa khả ái quá đổi si tình có làm tôi mềm lòng thật,nhưng nếu ả đem cái món “Thập hương nhuyễn cân tán”hết sức lợi hại đó mà đối phó với vua tôi nhà Trần thì tôi cực lực phản đối.Bằng giáo dài cung cứng,quân Nguyên Mông đã không ít hơn ba lần làm khốn khó nước ta.Bọn chúng là những kỵ binh thiện chiến nên vó ngựa xâm lăng đã in dấu từ Á sang Âu.Không biết bao nhiêu thành trì đã bị khuất phục!Vô số làng mạc bị tàn phá.Kinh thành Thăng Long bị giày xéo hết lần này đến lần khác(10).Đội quân bé nhỏ của Đại Việt trong cả ba lần xuất phát đều bị đánh tan.Thế nhưng,may mắn thay,dân tộc ta luôn luôn sản sinh những anh hùng mà Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một vì sao sáng chói.Bằng quan điểm “Dụng đoản binh thắng trường trận”,quân ta cố tình tránh né mũi nhọn của địch và khắc chế chúng bằng những trận tập kích chết người.Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để thoát thân.Ô Mã Nhi đành chịu nộp mình tại sông Bạch Đằng.Những cao thủ từng đánh bại Hoàng Dung,Quách Tình để tràn ngập thành Tương Dương giờ không thấy nữa.Có chăng là một đoàn quân đói khát vì thiếu lương thực và đau ốm vì không họp thuỷ thổ.

Khi Chu Nguyên Chương khởi nghĩa thành công và lập ra nhà Minh,ta thấy đám anh hùng hào kiệt của Quang Minh Đỉnh(11) theo về rất đông,ngoại trừ giáo chủ Trương Vô Kỵ lo vẽ mày cho Triệu Minh nên không còn để ý đến chuyện giang hồ.Trong bọn họ,người nào cũng sở hữu những môn công phu kỳ quái.Thanh Dực Bức vương Vi Nhất Tiếu có môn khinh công kinh người lại chuyên hút máu để bổ sung công lực.Kim Mao Sư Vương tuy mù nhưng có “Thất thương quyền” khá lợi hại.Tía Sam Long Vương thì rất giỏi việc đánh dưới nước.Bọn “Ngũ hành kỳ”rất am hiểu về phục kích và bày binh bố trận.Phải chăng vì vậy mà khi quân Minh sang cướp nước ta,cha con Hồ Quý Ly nhanh chóng bị đánh bại dẫn đến cảnh nhà tan nước mất,khiến hơn mấy mươi năm dân ta bị tàn hại dã man đến nỗi Nguyễn Trãi phải dùng “trúc Nam sơn cũng không ghi hết tội”(12)của bọn chúng.Một lần nữa địa linh sinh nhân kiệt.Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Bình Định Vương Lê Lợi khởi xướng đã tập họp nhiều nhân tài yêu nước cùng lòng đánh đuổi giặc ngoại xâm.Sao Khuê Nguyễn Trãi lại rực sáng trên bầu trời Đại Việt.Với tài thao lược của bao năm đèn sách,minh quân lương tướng nhà Lê càng ngày càng dồn giặc Minh vào thế bị động trên khắp các mặt trận.Bằng vũ khí thô sơ và trang bị thiếu thốn,những nông dân tay lấm chân bùn của ta liên tiếp đánh bại đoàn quân thiện chiến nhà Minh cũng như các cao thủ của lão sư Kim Dung.Liễu Thăng,một đại tướng chinh Nam phạt Bắc,sở hữu cây đại đao chẳng khác Quan Công thời Tam Quốc rất xem thường quân ta.Dưới mắt hắn,quân Nam là một bọn ô họp,chỉ biết dăm thế võ mèo quào,chưa từng quen thế nào là trận mạc.Chính sự chủ quan đó đã làm họ Liễu mất đầu ở ải Chi Lăng.Vương Thông,một mãnh tướng khác đầy thân tuyệt học,phải mở của thành xin hàng để giữ mạng sống.

Đến đời nhà Thanh,chỉ với một đệ nhất dũng sĩ Ngao Bái đủ làm người ta ớn lạnh.Cao thủ thì vẫn còn dày đặc như mây.Chỉ là một tiểu yêu làm người hầu trong kỹ viện,Vi Tiểu Bảo khi đi đánh Thần Long Đảo(13) đã sở hữu một đám thuộc hạ đầy quái dị,võ công kinh người.Đó là chưa kể cánh Thiên Điạ Hội toàn những hảo thủ, về sau cũng chịu quy phục nhà Thanh.Sống trong môi trường đó,Tôn Sĩ Nghị chả lẽ không học được chút công phu nào.Thế nên khi được lệnh mượn danh giúp đỡ Lê Chiêu Thống đem binh đánh chiếm nước ta,họ Tôn đã không giấu nổi vẻ dương dương tự đắc.Hắn tuyên bố việc thu phục An Nam cũng dễ như lấy đồ trong túi.Quả thật,quân Thanh vượt sông Hồng tiến vào Thăng Long như chỗ không người.Thế nhưng,một lần nữa ngọc trong đá lại xuất hiện.Hồ Thơm (14)Nguyễn Huệ xuất thân là một nông phu áo vải đã tập họp những thanh niên cường tráng thành đội quân tinh nhuệ,xoá sổ cảnh Nam bắc phân tranh của hai chúa Trịnh Nguyễn,lần đầu tiên thống nhất đất nước.Với cuộc hành binh thần tốc nhiều chất huyền thoại,quân Tây Sơn giáng những đòn chí tử tại Ngọc Hồi ,Đống Đa,đập tan hai mươi vạn quân Thanh chỉ trong thời gian cực ngắn.Tôn Sĩ Nghị phải cắt cầu phao để đào thoát một mình.Tuyệt kỹ “Thần hành bách biến”của Cửu nạn sư Thái(15) được hắn thi triển thật xuất sắc.Nhưng còn đám thuộc hạ dù có học qua Hồng sa chưởng hay vô ảnh kiếm cũng không chịu nổi mấy bài quyền Tứ trụ hay Lão mai đơn giản của nghĩa quân gốc Bình Định.Thây giặc làm sông Hồng muốn tắc giòng chảy.Đất “Rồng bay”đón mùa Xuân rực rỡ,huy hoàng.

Giờ đây,ngồi nhìn lại,thấy cái kiểu đối chiếu như trên hết sức trẻ con nhưng ngẫm ra không phải hoàn toàn vô lý.Cái đích nhắm cuối cùng của Kim Dung tựu trung là đề cao chính nghĩa.Dù anh có tài giỏi đến đâu,luyện được thứ võ công quái quỷ gì,rồi cũng phải chịu thất bại trước những con người nhân hậu,chơn chất.Thành công của Kim Dung đã được rất nhiều người ca ngợi và phân tích.Nhưng theo kiến thức thiển cận của tôi,tác phẩm của ông ta nổi lên mấy vấn đề lớn sau đây:

Kim Dung là một nhà văn có kiến thức vô cùng uyên bác và hết sức nghiêm túc trong khi sáng tác.Ngày ấy,nào đã có các công cụ tìm kiếm như bây giờ (google,facebook,yahoo...), thế mà khi viết về khía cạnh nào,ông đều cố gắng đạt sự chính xác cao.Nói về y học,các Y Tiên hay Dược Vương đều biết đọc vanh vách tên các loại thuốc (có thật) cũng như cách pha chế.”Thất trùng thất hoa cao “mà Triệu Minh dùng đánh lừa Vô Kỵ là một điển hình.Luận về võ công,Kim lão sư gần như thuộc hết vị trí các huyệt đạo trên cơ thể con người cũng như chiêu thức của các môn phái.Thỉnh thoảng ông ta cũng bịa ra cái mới nhưng được lý giải cẩn thận khiến người đọc khó phân biệt thật hư.Về mặt lịch sử và địa lý,Kim Dung cố bám vào cái có thật để khuyếch đại những điều hư cấu.Đưa ra Chu Nguyên Chương,Từ Đạt để thấy Vô Kỵ,Triệu Minh là có thật.Đã có Khang Hy thì thêm tên Tiểu Quế Tử hầu cận không có gì là phi lý.Nước Đại Lý và họ Đoàn là có thật,vậy thì Đoàn Dự tại sao không?

Một điểm mười khác cho Kim Dung là văn phong và cách xây dựng nhân vật.Viết truyện kiếm hiệp mà khi nói về tình yêu còn hay hơn các tiểu thuyết diễm tình.Không tác phẩm nào mà không có những mối tình làm lay động trái tim.Thánh cô Nhậm Doanh Doanh yêu Lệnh Hồ Xung,Hoàng Dung và Quách Tĩnh,mối tình trong cổ mộ giữa Tiểu Long Nữ và Dương Quá(15),Triệu Minh cầm đao kề vào cổ đòi tự sát buộc cha là Nhữ Dương Vương phải buông tha Vô Kỵ...yêu như thế mới gọi là yêu!

Nhân vật của Kim lão thật phong phú và đa dạng.Ông ta chính là một hoạ sĩ truyền thần xuất sắc nên miêu tả người nào cũng hết sức rõ nét và để lại dấu ấn.Đọc Phi Hồ ngoại truyện xong ta cứ như thấy gương mặt với hàm râu quai nón đầy khí phách của Hồ Nhất Đao đang lẩn quất đâu đây!Nguyên lý của xây dựng nhân vật là tốt cực tốt mà đã xấu thì phải cực xấu.Kim Dung vẫn tuân thủ điều ấy nhưng thỉnh thoảng đem pha chế như rượu koctail để tạo sự bất ngờ.Một Nhạc Bất Quần (16)ban đầu đạo mạo,chính trực là thế(được giang hồ gọi Quân Tử Kiếm),nhưng càng về sau càng để lộ bản chất xấu xa của một tên nguỵ quân tử.Điều ác nào hắn cũng làm miễn sao đạt được mục đích làm minh chủ võ lâm.Vân Trung Hạc(17) ,lão tứ trong tứ ác với biệt danh”Cùng hung cực ác”đủ biết hắn là người thế nào.Vậy mà có lúc anh chàng nổi lòng từ bi ra tay cứu Vương Ngọc Yến đến nỗi sém vong mạng.Thế thì ác chưa chắc đã ác,mà thiện thì cũng cần phải xem lại.Xuyên suốt các tác phẩm Kim Dung là những nhân vật chính được xây dựng theo câu”Thánh nhân đãi kẻ khù khờ”.Đòn bánh tét Thạch Phá Thiên trong Hiệp Khách hành,Hư Trúc và Đoàn Dự trong Thiên Long bát Bộ,lại còn Quách Tĩnh,Lệnh Hồ Xung,Trương Vô Kỵ.v.v...toàn là những chàng ngốc nhưng lại được người đẹp để ý và cuối cùng học được những thần công tuyệt thế.Ta có thể bảo tư tưởng nhân bản đã thống trị trong tác phẩm của Kim Dung.

Ngày nay, muốn đọc Kim Dung cứ vào mạng là có đủ.Đó là chưa kể các nhà sách đang bày bán lại các tác phẩm của ông không thiếu một cuốn nào.Có điều đọc như thế nào để không ảnh hưởng đến công việc và sự học hành vì mỗi truyện đều kéo rất dài theo kiểu dây cà ra dây muống.Hơn nữa,nếu đọc mà có thêm một tí đối chiếu lịch sử thì lại càng hay!!

Tiền Giang
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

PHẦN VI
BÀN VỀ TƯ TƯỞNG PHẬT HỌC
TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP
KIM DUNG
***
Thích Chơn Thiện


http://media.thethaovanhoa.vn/2013/06/09/07/45/Kim-Dung-1.jpg

15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

1
Thích Chơn Thiện

Bàn về tư tưởng Phật Học
trong tiểu thuyết Võ Hiệp Kim Dung
Thay lời tựa


Tiểu sử Theo tài liệu :
1. " Kim Dung : Cuộc Đời và Tác Phẩm ", Bành Hoa-Triệu Kiến Lập, dịch giả Nguyễn thị Bích Hải, NXB Trẻ, TP. HCM, 2002.
2. " Kim Dung : Tác Phẩm và Dư Luận ", Nhiều tác giả, NXB Văn Học, TP. HCM, 2001.

Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh tháng 2, 1924 trong một gia đình gồm sáu anh chị em, Kim Dung là thứ hai, tại Viên Hoa Trấn, huyệïn Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, là nơi địa linh nhân kiệt của Trung Quốc.

Thân mẫu là người của thời " Ngũ Tứ " ( 4/5/1919 ), thời của phong trào đấu tranh dân chủ mở đầu thời kỳ hiện đại Trung Quốc, tri thủ đạt lễ, thích thơ văn, tư tưởng khai minh, dân chủ.

Thân phụ là Tra Xu Khanh không theo nghiệp văn chương, mà vào doanh thương, vừa là một đại địa chủ có đến 3.600 mẫu ruộng, với hơn 100 hộ tá điền.

Cụ cố nội là Tra Thận Hành là nhà thơ nổi tiếng bậc nhất đời Thanh. Ông nội là Tra Văn Thanh, đỗ Tiến sĩ, làm Tri huyện ở Giang Tô, bênh vực nhóm nhân dân đốt nhà thờ Thiên Chúa mà bị triều đình cách chức.

Họ Tra là dòng dõi thế gia vọng tộc, thanh danh hiển hách từ triều Nam Đường thời Ngũ Đại (907 - 960). Vua Thanh Cao Tông - Càn Long đã ngự đề một câu đối treo cao trước cổng từ đường rằng :

" Đường Tống dĩ lai cự tộc
Giang Nam hữu sổ nhân gia "
( Họ lớn từ thời Đường Tống
Danh gia bậc nhất Giang Nam )

Người đương đại thì khen :
" Một nhà bảy Tiến sĩ
Chú cháu năm Hàn lâm "

Thiếu thời, Kim Dung rất tuấn tú, thông minh, hoạt bát, tinh nghịch mà biết điều; mê cảnh đẹp và say nghe các chuyện kể hay và đẹp.

Từ năm 1930 đến 1940 : Theo học Tiểu học ở Hải Ninh, Triết Giang, học Trung học ở Hàng Châu.

Từ năm 1941 đến 1945 : Học luật pháp quốc tế khoa ngoại văn, trường đại học chính trị Trùng Khánh. Làm việc tại Thư viện Trung ương lúc chưa tốt nghiệp. Bấy giờ Kim Dung có dịp nghiền ngẫm nhiều sách, truyện.

Từ năm 1946 đến 1949 : Trở lại Hàng Châu làm phóng viên cho nhật báo Đông Nam, sau lại được Đại Công Báo tuyển trong số hơn 3.000 người dự tuyển; sang thường trú ở Hồng Kông, phiên dịch tin tức quốc tế cho báo nầy.

Từ năm 1950 đến 1955 : Chuyển sang biên tập phụ san cho báo Tân Vấn, phụ trách mục Chuyện trà chiều, kiêm dịch tin tức, dưới bút hiệu Diêu Phúc Lan.
Bấy giờ Kim Dung khởi sự viết tập tiểu thuyết võ hiệp đầu tay :
" Thư Kiếm Ân Cừu Lục " với bút hiệu Kim Dung.
Năm 1956 : Sáng tác và đăng báo " Bích Huyết Kiếm ".
Năm 1957 : Viết và đăng truyện " Xạ Điêu Anh Hùng "
Năm 1959 : Viết, đăng truyện " Tuyết Sơn Phi Hồ ", truyện dài rất ngắn của Kim Dung.
Giữa năm 1959, khởi viết " Thần Điêu Hiệp Lữ ", đến năm 1962 mới xong.
Năm 1960 - 1961 : Viết, đăng " Phi Hồ Ngoại Truyện "
Năm 1963 : Viết, đăng truyện " Liên Thành Quyết " ( hay " Tố Tâm Kiếm " ) trên Minh Báo (Hồng Kông ) và trên báo Đông Nam Á ở Singapore.

Cùng năm 1963, viết, đăng " Thiên Long Bát Bộ " (hay Lục Mạch Thần Kiếm ) trên hai báo vừa kể.
Năm 1965 : Viết, đăng " Lộc Đỉnh Ký " trên Minh Báo.
Năm 1975: Viết, đăng " Việt Nữ Kiếm ", truyện Võ hiệp ngắn nhất của Kim Dung.

Trong khoảng thời gian hai mươi năm từ 1950 đến 1970, ngoài các công việc của một phóng viên, biên tập viên, dịch các thông tin quốc tế, Kim Dung đã sáng tác 15 tập truyện Võ hiệp rất dài - trừ Tuyết Sơn Phi Hồ và Việt Nữø Kiếm - theo thứ tự thời gian như sau :
1. Thư Kiếm Ân Cừu.
2. Bích Huyết Kiếm.
3. Tuyết Sơn Phi Hồ.
4. Phi Hồ Ngoại truyện.
5. Xạ Điêu Anh Hùng truyện.
6. Thần Điêu Hiệp Lữ.
7. Ỷ Thiên Đồ Long Ký.
8. Bạch Mã Khiếu Tây Phong ( 1960 ).
9. Uyên Ương Đao.
10. Liên Thành Quyết ( 1963 ).
11. Thiên Long Bát Bộ ( 1964-1968 ).
12. Hiệp Khách Hành ( 1965 ).
13. Việt Nữ Kiếm.
14. Tiếu Ngạo Giang Hồ.
15. Lộc Đỉnh Ký .

Trong đó số hai truyện Thiên Long Bát Bộ và Hiệp Khách Hành nổi bật sắc thái Phật giáo, các tập truyện khác cũng bàng bạc đó đây triết lý Phật giáo với Thiếu Lâm tự xuất hiện như một Võ lâm Minh chủ.

Tại lễ đường của trường Đại học Bắc Kinh, ngày 27/10/1994, hơn 1000 sinh viên vui vẻ, hân hoan đón tiếp Kim Dung. Tại đây, một số câu hỏi đã được đặt ra :
Hỏi : " Thiên Long Bát Bộ phải chăng là biểu đạt quan niệm nhân sinh của ngài ? "
Đáp : " Trong Thiên Long Bát Bộ, có phần biểu đạt quan niệm nhân sinh của tôi. Lúc ấy trong tôi có tư tưởng triết học Phật giáo. Phật giáo khá bi quan đối với nhân sinh, cho rằng đời người là bể khổ. Vô luận nhân sinh tốt đẹp đến thế nào, cuối cùng rồi cũng chết

Nhưng Phật giáo còn có quan niệm khác, tuy con người không tránh được cái chết, nhưng vẫn còn có lúc tái sinh, sau nầy có thể đời sống tốt hơn, có thể cống hiến được sức mình, có thể giúp đỡ được người khác. Có thể nói rằng chân đế của Phật giáo về nhân sinh là sâu sắc nhưng giá trị thực dụng của triết học Phật giáo có thể hữu ích đối với cá nhân, còn đối với xã hội vị tất đã hữu ích ? "
(” Kim Dung : Cuộc Đời và Tác Phẩm,?tr.356 )

Hỏi : Phải chăng tiểu thuyết của ngài tuyên dương tư tưởng tôn giáo ?
Đáp : Đối với Phật giáo, tôi có phần tâm đắc, nhưng không có ý truyền giáo. Cách nhìn của tôi là, nếu anh gần với quan niệm tôn giáo nào đó thì cần tìm hiểu nó, nếu không gần gũi thì bất tất phải cố gắng truy cầu ... ( Ibid. tr.357 )

Bành Hoa và Triệu Kiến Lập thì giới thiệu về Kim Dung rằng :
" Kim Dung rất phong độ, ông ta không hề bực bội với lời lẽ của tôi ( Lý Ngao ). Ông ta khiêm tốn giải thích quan điểm của mình. Ông ta đặc biệt nhắc đến rằng từ sau khi con trai ông ta bất hạnh mất sớm, ông tập trung nghiên cứu Phật học, ông đã là một tín đồ trung thành của Phật giáo ... " ( Ibid. tr.326 )

Trong " Văn khố đại sư Văn học Trung Quốc, thế kỷ XX ,Tiểu thuyết quyển " đánh giá Kim Dung, xếp người vào vị trí thứ tư trong hàng chín bậc đại sư : Lỗ Tấn, Thẩm Tòng Văn, Ba Kim, Kim Dung, Lão Xá, Ức Đạt Phu, Vương Mông, Trương Ái Linh và Giả Bình Ao. ( Ibid. tr.345 )

Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đã gây ra một tiếng vang rất xa, vang khắp các vùng Đông Nam Á từ lâu đến nỗi đã phát sinh ra hiện tượng nghiên cứu về Tiểu thuyết Kim Dung qua nhiều khía cạnh gọi là Kim học hay Kim Dung học phát triển ở Hồng Kông, Đài Loan, và cả ở Bắc Kinh, đại để như :

- " Bách gia chư tử và Kim Dung ", Viễn Cảnh Xuất Bản Xã, Đài Bắc, 1984 ( của Thẩm Đăng Ân ).
- " Đọc Kim Dung tình cờ tâm đắc ", Thư Quốc Trị, Viễn Cảnh Xuất Bản Xã, Đài Bắc, 1982.
- " Thế giới dưới ngòi bút Kim Dung ", Dương Hưng An, Bách Ích Xuất Bản Xã, Đài Bắc, 1983.
- " Kim Dung và Nghê Khuông ", Thẩm Tây Thành, Lợi Văn Xuất Bản Xã, Hồng Kông, 1984.
- Ở Trung Quốc ( đại lục ), đã có nhiều chuyên gia, giáo sư đại học viết bài giới thiệu hay bình luận, nghiên cứu Tiểu thuyết Kim Dung.

Tháng 2, 1986, Phùng Kỳ Dung trong bài " Bàn về Tiểu Thuyết Kim Dung " đã viết về những ấn tượng khi ông đọc Tiểu thuyết Kim Dung rằng :
- " Thứ nhất : Lịch sử mà Tiểu thuyết Kim Dung bao hàm có nội dung xã hội sâu rộng rất nổi bật và rất hiếm thấy trong các tác gia tiểu thuyết võ hiệp đương đại.

Thứ hai : Tư tưởng mà Tiểu thuyết Kim Dung đề cập có thể nói là đủ chư tử bách gia, tam giáo cửu lưu, hầu như bao gồm tất cả; còn về phương diện văn học thì cả thơ, từ, ca, đối ngẫu, câu đối, khúc tử đều có đủ lại rất đắc địa, không hề gò ép khiên cưỡng, khiến cho người ta có cảm giác vốn liếng và khí lực của tác giả còn rất dồi dào sung mãn.

Thứ ba : Trên phương diện nghệ thuật, một số nhân vật do Kim Dung sáng tạo rất nhiều hình tượng sinh động, thành công như Tiêu Phong, Trần Gia Lạc, Văn Thái Thái, Hoắc Thành Đồng, Quách Tĩnh, Hoàng Dung v.v... Đó là những hình tượng khó quên, có sức hấp dẫn rất mãnh liệt. Có ai đọc những bộ Tiểu thuyết ấy mà không cảm động trước những hình tượng nghệ thuật như vậy.

Thứ tư : Ấn tượng đặc biệt sâu sắc của tôi ( tức Phùng Kỳ Dung ) là chất văn học trong Tiểu thuyết của Kim Dung: Nó khác hẳn tất cả tiểu thuyết võ hiệp cũ lẫn tiểu thuyết võ hiệp đương đại . Nó không những có ngôn ngữ trong sáng, tính văn học cao, hành văn lưu loát, uyển chuyển; mà cả thơ cả từ trong đó đều sử dụng rất khéo; điều quan trọng nữa là trong tác phẩm thường chan chứa ý thơ, đạt đến cảnh giới mỹ lệ. Theo cách nói quen thuộc, đó là một thế giới rất phong phú đa dạng, khiến người ta cảm thấy như đang sống trong thế giới ấy, cảm thấy được hưởng thụ nghệ thuật, một thứ mỹ cảm khiến người ta say sưa.

Thứ năm : Sự biến hoá của tình tiết nghệ thuật trong tiểu thuyết Kim Dung như núi mọc lên đột ngột ngoài trời, đó là chỗ khiến người ta phải vỗ án khen tuyệt. Đang tưởng như " sơn cùng thuỷ tận " bỗng gặp đường lối mở ra, tình men theo cảnh, hợp tình hợp lý. Chính vì thế mà người ta không sao rời sách, cứ phải đọc cho đến hết .

- Năm 1992, " Bách Hoa Châu Văn Nghệ Xuất Bản Xã " đã xuất bản cuốn " Phân Tích và Thưởng Thức Tiểu Thuyết Kim Dung "...
- Một số trường đại học nổi tiếng, đã có nhiều chuyên đề”Nghiên cứu Kim Dung "...
- Các tác phẩm từ " Thư Kiếm Ân Cừu Hận " đến " Lộc Đỉnh Ký " đã được giới điện ảnh làm thành phim nhựa ( ibid. tr. 265 - 267)

Về nhiệt tình chính trị của Kim Dung, Bành Hoa và Triệu Kiến Lập nhận xét : " Trong bộ tiểu thuyết này ( Thư Kiêm Ân Cừu Hận) ta có thể thấy Kim Dung đã thể hiện nhiệt tình chính trị của mình : tình cảm dân tộc, lòng yêu tổ quốc, cho đến lý tưởng an bang trị quốc, cứu đời cứu dân. Nhãn quan của Kim Dung rất chính xác " ( Ibid. tr.299 )
Ngày 16 tháng 7, năm 1981, được sự sắp đặt của chính quyền Trung Quốc, Kim Dung, phu nhân và con trai vào thăm đại lục, được Đặng Tiểu Bình tiếp kiến, nhiều nhân vật cao cấp ở Quốc Hội và Chính Phủ tiếp xúc, trao đổi. Sau chuyến Bắc du dài, thăm mười Tỉnh và Thành phố trong nước, tại Hồng Kông, các phóng viên Minh Báo đã phỏng vấn, Kim Dung đã xác định và điều chỉnh lập trường chính trị và cái nhìn của ông về đại lục, phát biểu rằng :

" Thứ nhất, tôi tin rằng hiện nay ở Trung Quốc không có một lực lượng chính trị nào có thể thay thế vị trí lãnh đạo của đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Thứ hai, tôi tin rằng Trung Quốc trong mấy mươi năm sắp tới không thể thực hành dân chủ theo kiểu phương Tây, mà dù có khả năng thì chưa chắc đã có lợi cho đất nước và nhân dân.

Thứ ba, cá nhân tôi tán thành Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội khai minh. Nói chung, so với thói quen phóng túng và sự phân hoá giàu nghèo thái quá trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội công bằng hợp lý hơn. Nhưng ở đại lục tự do của cá nhân còn hạn chế, Đảng Cộng Sản lãnh đạo làm kinh tế hiệu suất còn thấp, chưa giải phóng được lực lượng sản xuất của nhân dân, tư tưởng và tác phong tả khuynh khá nghiêm trọng. Cá nhân tôi tán thành việc không ngừng cải cách từng bước, chứ không nghĩ rằng một cuộc cách mạng long trời lở đất có thể giải quyết được vấn đề " Tôi nhận thấy Đảng Cộng Sản Trung Quốc từ Trung ương đến địa phương đã không còn khoa trương như trước mà phần nhiều nói về khuyết điểm của mình, ít nói đến thành tích, điều nầy để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc nhất ". ( Ibid. tr. 302 )

Nhận xét về chế độ, tổ chức xã hội ở Hồng Kông, nơi cư trú hơn hai mươi năm qua của Kim Dung, Kim Dung đánh giá :
"... Điều đáng quý nhất của Hồng Kông là tự do sinh hoạt, tinh thần pháp trị, sự phát triển kinh tế có hiệu suất và linh hoạt, có nhiều cơ hội cho con người, cái dở nhất của Hồng Kông là sự bất hợp lý, bất công bình của tự do tư sản cực đoan " ( Ibid. tr.303 )
Với khối óc và con tim lớn, từng trải qua các biến đổi của thời đại, thế kỷ XX, nắm vững thông tin thế giới, hẳn là Kim Dung đã chuyển tải qua các tiểu thuyết võ hiệp của mình nhiều quan niệm, tư tưởng, nhiều nhận xét đánh giá giá trị về xã hội hiện đại ( Trung Quốc và Thế giới ) và hẳn đã truyền vào đó những cái nhìn và ý tưởng chân xác về thái độ sống của các cá nhân, tập thể để xây dựng một cuộc sống công bằng, nhân ái và an lạc, hạnh phúc tốt đẹp nhất có thể. Thế nên, tiểu thuyết của ông đã có một hấp lực lớn quấy động các sạp báo Saigon, và cả Saigon, trong những năm của thập niên 60. Dân chúng nhiều giới đều hâm mộ đọc tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Không khí hâm mộ dấy lên như là không khí xem phim Tây Du Ký trên màn ảnh nhỏ của thập niên 80, TP Hồ Chí Minh. Tác giả tập sách này cũng bị cuốn hút theo làn sống hâm mộ có thể đọc truyện kiếm hiệp của Kim Dung liên tục nhiều ngày đêm không mệt mỏi, tưởng chừng như đang đi vào lục lọi túi khôn của nhân loại mà Kim Dung đã dốc cạn vào trong truyện.

Ngày nay, các học đường nhiều nơi đang lác đác nghiên cứu tiểu thuyết Kim Dung qua nhiều phương diện, đang chuyển thành hiện tượng " Kim học " hay " Kim Dung học”. Tại Việt Nam, 15 bộ tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung đang được Nhà Xuất Bản Văn Học, Hà Nội ấn hành từ năm 2001 :

- Anh Hùng Xạ Điêu, 8 tập ( >= 350 trang ), 2001.
- Tiếu Ngạo Giang Hồ, 8 tập ( >= 350 trang ), 2001.
- Ỷ Thiên Đồ Long Ký, 4 tập ( >= 700 trang ), 2002.
- Lộc Đỉnh Ký, 10 tập ( >= 300 trang ), 2002.
- Thiên Long Bát Bộ, 9 tập ( >= 300 trang ), 2003.
- Hiệp Khách Hành, 4 tập ( >= 250 trang ), 2003.

Điều nầy khiến người viết " Bàn về Tiểu Thuyết Kim Dung " đi tìm lại các cảm xúc của mình khi mải mê đọc võ hiệp Kim Dung vào thập niên 60, đặc biệt là cảm xúc về Phật học, về Văn hoá và Giáo dục. Người viết chỉ có một nguyện vọng khiêm tốn là nói lên một tiếng nói trân trọng về những gì tốt đẹp mà Kim Dung đã cống hiến cho độïc giả bốn phương.

Tác giả cẩn bút
Tỷ kheo Thích Chơn Thiện
Chùa Tường Vân, Huế
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

2
Bàn về tư tưởng Phật Học
trong tiểu thuyết Võ Hiệp Kim Dung
Phần I


I. Mở đầu
1. Ấn bản đầu tiên năm 1965. Ấn bản năm 1977 có thay đổi một số tình tiết, khiến " Hiệp Khách Hành " trở nên chặt chẽ và ý vị hơn.

2. Đoạn kết của bản tu chỉnh kết thúc từ cảnh Thạch Phá Thiên thành công trong công phu giải bí kíp Thái Huyền Kinh, trở về Khô Thảo Lĩnh, núi Hùng Nhĩ, gặp “má má " Mai Phương Cô để lại niềm băn khoăn về gốc gác của chính mình : " gia gia ta là ai ? ", " má má ta là ai ? ", " Ta là ai ? ". Những câu hỏi, mà tập truyện là câu trả lời, làm dấy lên trong người đọc niềm thao thức khôn nguôi.

3. Bài cổ thi " Hiệp Khách Hành " của thi hào Lý Thái Bạch là bí kíp Thái huyền công cất giữ trên đảo Hiệp Khách. Nguyên văn bài cổ thi là :
" Triệu khách mạn hồ anh ; Ngô câu sương tuyết minh ;
Ngân yên chiếu bạch mã ; Tạp đạp như lưu tinh .
Thập bộ sát nhất nhân ; Thiên lý bất lưu hành ;
Sự liễu bất y khứ ; Thâm tàng thân dữ danh .
Nhàn quá Tín Lăng ẩm ; Thoát kiếm tất tiền hoành ;
Tương chích đạm Chu Hợi ; Trì khương khuyến Hầu Doanh .
Tam bôi thổ nhiên nặc ; Ngũ nhạc đảo vi khinh ;
Nhãn hoa nhĩ phục hậu ; Ý khí tố nghi sinh .
Cứu Triệu huy kim truỵ ; Hàm Đan tiên chấn kinh ;
Thiên thu nhị tráng sĩ ; Huyền hách Đại Lương thành .
Túng thử hiệp cốt hương ; Bất tàm thế thượng anh ;
Thuỳ năng thư các hạ ; Bạch thủ Thái huyền kinh ".

Dịch nghĩa :
" Khách nước Triệu phất phơ giải mũ ; Kiếm ngô câu rực rỡ tuyết sương ;
Ngân yên bạch mã huy hoàng ; Vó câu vun vút như ngàn sao bay.
Cách mười bước giết người chẳng trật ; Nghìn dặm xa vùng vẫy mà chi ;
Việc xong rũ áo ra đi ; Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm .
Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến ; Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi ;
Này nem, này rượu khuyên mời; Bên thời Châu Hợi, bên thời Hầu Doanh.
Ba chén cạn thân mình sá kể; Năm núi cao xem nhẹ lông hồng ;
Mắt hoa mặt đã nóng bừng ; Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh.
Chuỳ cứu Triệu vung tay khẳng khái; Thành Hàm Đan run rẩy kinh hoàng;
Nghìn thu tráng sĩ hai chàng ;Tiếng tăm hiển hách rỡ ràng Đại Lương.
Người dù chết xương còn thơm ngát ; Chẳng hổ ngươi đáng mặt anh hào;
Kìa ai ẩn náu trên lầu ; Chép kinh đến thuở bạc đầu chưa xong ".

4. Nguyên bản năm 1965 thì không có lời hậu ký. Nguyên bản tu chỉnh năm 1977 thì có lời hậu ký rằng :
"... Mọi cố gắng để chú thích và bình luận đều làm tổn hại đến bản ý của tác giả, lại còn tạo ra những trở ngại nghiêm trọng. Bộ Hiệp Khách Hành này viết 12 năm trước, đã diễn giải ý kiến này khá đầy đủ. Gần đây tôi đọc nhiều kinh Phật hơn, đối với ý nầy càng tâm đắc.

Kinh Bát Nhã của Đại thừa, Trung Quán luận của Long Thọ đều cực lực bài bác những luận giải phiền phức cho rằng các loại kiến thức chú giải đều do hư vọng sinh ra , chỉ làm trở ngại cho việc thấy đạo của người tu học. Khi tôi viết Hiệp Khách Hành nầy, tuy không thể nói là hoàn toàn không biết kinh Phật, nhưng chỉ mới đọc hết Kinh Kim Cang vào tháng 11 năm ngoái, tôi còn đọc Bát Nhã và Trung Quán lại còn mới hơn, mới Xuân Hạ năm nay.
Nhân duyên bên trong việc này, thật không thể nào giải thích được ".

Tháng 7, 1977.
Qua lời hậu ký của Kim Dung viết từ năm 1977, độc giả có thể hình dung ra một số điểm đáng lưu ý rằng :
- Các giải thích, giải mã, bình luận của nhiều ý kiến đương thời đều rơi vào các định kiến, giữa khi ý của tác giả, trong truyện, thì phù hợp với giáo lý nhà Phật, phù hợp với vô ngã và vô chấp.

- Lúc sáng tác Hiệp Khách Hành, 1965, Kim Dung nhìn nhận bấy giờ chưa đọc nhiều kinh điển Phật giáo, nhưng vốn tâm đắc giáo lý nhà Phật, có nghĩa là có cái nhìn nhân sinh và thế giới phù hợp với tinh thần Phật học. Lúc tu chỉnh, 1977, tác giả đã đọc kỷ Kinh Kim Cương, tạng Bát Nhã, Trung Quán Luận.

Thực sự từ 1967, người viết " Bàn về Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung ", một tu sĩ Phật giáo, đã thấy rõ ảnh tượng Kinh Kim Cương khắp bốn tập truyện Hiệp Khách Hành, đã cùng các pháp hữu sôi nổi trao đổi cảm nhận ở ngoài hành lang của giảng đường Phật học Vạn Hạnh. Hẳn là có chút băn khoăn về phần kết của truyện. Nay thì phần ấy đã được tu chỉnh rất gọn.

- Do vì Kim Dung tâm đắc với Phật giáo nên cái nhìn của tác giả, qua toàn truyện, toát ra nhiều hương sắc Phật giáo. Đây là phần khảo sát của người viết, không đi vào các hàm ý giá trị khác.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

3
Bàn về tư tưởng Phật Học
trong tiểu thuyết Võ Hiệp Kim Dung
Phần 2
Hồi 1 : Huyền Thiết Lệnh


A . Tóm tắt hồi 1
- Tạ Yên Khách, một quái kiệt giang hồ, sinh thời đã tặng cho ba đại ân nhân ba tấm Huyền Thiết Lệnh, mỗi tấm Thiết Lệnh có thể yêu cầu Tạ Yên Khách làm bất cứ một việc gì dù khó khăn, nguy hiểm. Tạ Yên Khách đã thu về hai tấm và đã làm hai việc chấn động giang hồ. Tấm thứ ba tặng cho một đại hiệp mà có lẽ trọn đời vị đại hiệp sẽ không dùng đến. Không may vị đại hiệp đánh rơi Thiết Lệnh. Thế là giang hồ tranh nhau tìm đoạt, bao gồm cả chủ nhân Tạ Yên Khách: nhóm Kim Đan Trại, nhóm kiếm sĩ Tuyết Sơn, hai hiệp khách Thạch Thanh, Mẫn Nhu, v.v...

- Kiếm sĩ Ngô Đạo Thông đang cất giữ Huyền Thiết Lệnh nầy và trở thành kẻ địch của thiên hạ. Ngô Đạo Thông vừa nuôi tham vọng nhờ cậy Tạ Yên Khách, vừa hoá trang để che mắt: làm một ông già bán bánh Tiêu ở trị trấn Hầu Giám Tập: đao kiếm đẫm máu đã xẩy ra vào một buổi hoàng hôn ... Bấy giờ có một bé ăn xin Cẩu Tạp Chủng đi lang thang tìm mẹ, kẹt giữa " trận chiến " đao kiếm, tình cờ nhặt được chiếc bánh tiêu bên vệ đường để ăn, chiếc bánh mà Ngô Đạo Thông cất giữ Thiết Lệnh.

- Tạ Yên Khách tìm thấy Thiết Lệnh từ chiếc bánh tiêu của Cẩu Tạp Chủng trước sự chứng kiến của nhiều kiếm khách. Theo lời hứa, Tạ Yên Khách phải bảo vệ cậu bé, và phải làm theo một yêu cầu của bé, nhưng bé thì vâng theo giáo huấn của “má má " ở Hùng Nhĩ, trọn đời sẽ không mở miệng xin ai một điều gì. Do vậy, Tạ Yên Khách phải giữ cậu bé cạnh mình, không rời một bước, sợ bị người xấu xúi giục yêu cầu điều khó thực hiện, và chờ đợi cơ hội để đánh lừa bé...

- Tạ Yên Khách đem Cẩu Tạp Chủng về sống cách ly trên đỉnh núi Ma Thiên Nhai cô vắng .

B. Ý kiến
1. Hiệp sĩ, hay hiệp khách, là người thường cứu giúp người, cứu giúp đời, thoát khỏi các áp bức , bất công. Xa hơn, Hiệp khách còn trừ khử các cường tặc, các tham quan ô lại để bảo vệ dân lành, bảo vệ các quan trung chính vì nước, vì dân. Nhân vật chính của truyện kiếm hiệp vì thế đầy tiết khí, hấp dẫn người đọc. Kim Dung đã mượn tiểu thuyết kiếm hiệp như là phương tiện tốt nhất để chuyên tải tư tưởng, tâm sự, cảm xúc, tiết khí của mình đối với nhân quần và quốc gia xã hội, xây dựng một hệ văn hoá đầy tính nhân văn và trí tuệ.

2. Nền văn hoá nào cũng nói về điều thiện, đề cao điều thiện, nhưng quan niệm về lẽ thiện thì có điểm khác nhau. Kim Dung nói :
" Bậc thông minh tài trí, kẻ hùng cường dũng cảm đại đa số đều tích cực tiến thủ. Tiêu chuẩn đạo đức đã chia họ ra làm hai loại người : mưu cầu hạnh phúc cho nhiều người, đó là người tốt; chỉ chú ý đến quyền lợi và địa vị, dục vọng của riêng mình mà làm hại người khác, đó là người xấu. Mức độ tốt xấu căn cứ vào mức độ họ đem lại hạnh phúc hay gây tai hoạ cho người khác để xác định ".

3. Về quan niệm về Truyền thống, giáo sư triết Lý Đỗ, trong dịp thảo luận với Kim Dung tại Đại học Tân An, Hồng Kông, đã hỏi:
" Tôi đọc Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Tiếu Ngạo Giang Hồ, v.v... Tôi đoán, phải chăng tiên sinh cảm thấy văn hoá của chúng ta phát triển đến ngày nay, những cái tốt đẹp của truyền thống đã rơi rụng mất rồi, cần phải tìm ở bên ngoài, như vậy hơi có ý vị phủ định truyền thống ,”

Kim Dung đáp :
" Có mấy bộ tiểu thuyết, xuất phát điểm của tôi lúc ấy là phủ định cách nghĩ giáo điều chủ nghĩa. Tôi tín phục lý tính... Tôi nghĩ bản thân chân lý cũng có tính tương đối của nó. Xã hội biến thiên, chân lý cũng có thể thay đổi. Đạo lý ngàn vạn năm bất biến, đó là điều mà tôi không tin. Sự thực, những kẻ cuồng tín rất nhiều, thậm chí trong lãnh vực khoa học cũng có, những lý thuyết khoa học đã từng được người ta cho là chân lý nhưng rồi lại hoá ra không hoàn toàn đúng ".

4. Về quan niệm Nhân quả - Nghiệp giản đơn ở đời, như " ở hiền thì gặp lành, ác giả ác báo " - khác với nhân quả ba đời ( quá khứ, hiện tại và vị lai : sanh báo, hậu báo và laibáo, của Phật giáo thì Kim Dung nghĩ khác hơn :

" Tôi muốn mượn tiểu thuyết để phản ảnh nhân sinh. Ở đời không nhất thiết ' ở hiền gặp lành, ác giả ác báo '. Cuộc đời thật ra rất phức tạp, số phận cũng thiên biến vạn hoá. Nếu cứ theo mô thức nhất định mà mô tả thì quá giản đơn hoá cuộc đời. Cờ vây có công thức nhất định mà nhân sinh thì không có định thức. Đem Kinh kịch để biểu hiện nhân sinh thì thường định thức hoá, chức năng nghệ thuật của Kinh kịch thường thiên về giáo huấn, khó lòng thể hiện chân thực đời sống ". ( Ibid.tr.330 )
Các điểm vừa nêu trên, từ mở đầu, là ánh sáng rọi vào " Hiệp Khách Hành " để người viết nhận ra tư duy mới và tư tưởng Phật học của Kim Dung.

5. Các nhân vật trong Hồi 1 biểu hiện các mẫu hình tâm lý về thiện, ác, bất định ở nhiều cấp độ, như :
- Tạ Yên Khách là một quái kiệt võ lâm bất câu thiện, ác, đã tặng ba tấm Huyền Thiết Lệnh và hứa sẽ làm theo một yêu cầu của người có Thiết Lệnh, nhưng khi một tấm rơi vào tay cường đạo, ông ta đã bằng mọi thủ đoạn để đoạt lại tấm Thiết Lệnh ấy. Ông thuộc loại mẫu tâm lý bất định.

- Nhóm Kim Đao Trại thì hung hãn, đầy ham muốn vị kỷ, xem mạng sống của tha nhân như cỏ rác : nhóm nầy thuộc tâm lý xấu ác.
- Thạch Thanh - Mẫu Nhu suốt đời trọng nghĩa, làm việc nghĩa giúp người : thuộc tâm lý thiện, tốt.

- " Má má " của Cẩn Tạp Chủng do hận tình mà một lần đã gia hại gia đình Mẫn Nhu : theo tâm lý Phật giáo, nàng thuộc hạng tâm lý si và hận, thuộc ác tâm, hại tâm ...
- Tên giúp việc trong tiệm tạp hoá quen thói " lý sự cùn ", khi nghe một tay đao kiếm hung hãn nói : " Còn ai muốn nếm mùi đao thì cứ việc chạy ra ". liền buột miệng bép xép : " Đao thì làm gì có mùi ?” liền bị tên hung hãn vung roi giật bắn người ra đường chết toi. Cái chết rẻ rúng, lạt nhách như thế là sự cảnh tỉnh cái thói quen hư đàm, huyền luận vô bổ.

- Cẩu Tạp Chủng là mẫu tâm lý thuần thiện : trong sáng, chân thật rất nguyên sơ, thông tuệ, nhân ái. Đây là mẫu tâm lý mà Kim Dung xây dựng niềm tin phát triển sẽ đi về chân, thiện, mỹ : chàng sống vô cầu, vô dục từ thân phận kẻ ăn xin, rồi đời sống dẫn dắt đến điểm nhặt được Huyền Thiết Lệnh, thân cận quái khách, đi vào phương trời mới.

Qua Hồi 1, người đọc có cảm nhận rõ : ai sống thiểu dục tri túc thì tốt đẹp cho bản thân và xã hội; sống đa dục, vị kỷ thì làm khổ mình, khổ người, thể hiện triết lý sống của nhà Phật.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

CHÀO NĂM MỚI - 2023
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhpn_aE0YYcGsWetP6Yjthd-iKtZzlBtLDx4XY3o3yN9iYPda9pJUwvRBzAODB-XI0ihuHjX7REHF2aaP4YtVlTeUwd1a6Tl8gXxma69voz7Wn0ZI81abrl3iPoUT86nSE9cwkfu-3sP9WIrvbuyY0rMrUQeqIbrnzN5cuZaLaufnETHLoy1TNOOfqxtw/w640-h392/3.PNG

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

4
Bàn về tư tưởng Phật Học
trong tiểu thuyết Võ Hiệp Kim Dung
Phần 3
Hồi 2: Thiếu niên gây đại hoạ


A. Tóm tắt hồi 2
- Hai hiệp Khách Thạch Thanh và Mẫu Nhu ký thác con trai là Thạch Trung Ngọc làm môn nhân của kiếm phái Tuyết Sơn. Năm 15 tuổi, Thạch Trung Ngọc là một thiếu niên năng động, láu lỉnh, đa tình, hay chọc ghẹo A - Tú, 13 tuổi, con gái của Bạch Vạn Kiếm ( Cháu nội của bang chủ Tuyết Sơn ); A Tú chưa bị hạ nhục, nhưng tức mình tự vẫn ( được kể lại ). Mẹ nàng bị trách cứ, và vì thương con mà sanh cuồng trí. Phong Vạn Lý, thầy dạy kiếm của Thạch Trung Ngọc, bị bang chủ tức mình chặt đứt một cánh tay. Bang chủ phu nhân bị vạ lây, bỏ Tuyết Sơn ra đi. Hai người sư thúc khác của Thạch Trung Ngọc bị Đinh Bất Tam giết vì lý do khác cũng được kết vào tội do lỗi Thạch Trung Ngọc gây ra. Từ đó Bạch Vạn Kiếm dẫn một toán kiếm sĩ hạ sơn tìm kiếm Thạch Trung Ngọc để giết, và đốt Thạch gia trang để rửa hận.

- Bạch Vạn Kiếm đòi Thạch Thanh - Mẫn Nhu đến gặp bang chủ Tuyết Sơn ( Bạch Tự Tại ) để nhận trách nhiệm làm cha làm mẹ. Giọc đường cả toán Tuyết Sơn bị Tạ Yên Khách tấn công thu hết kiếm, lại vô minh chồng chất, kết oán cho rằng Thạch Thanh và Mẫn Nhu ám hại họ.

B. Ý kiến
1. Ở tuổi 15, Thạch Trung Ngọc chỉ là một thiếu niên " quậy phá ", trêu chọc A Tú, dễ dàng được các võ sư, kiếm sĩ uốn nắn, nhất là khi A Tú suýt bị hại. Vậy mà gia đình bang chủ Bạch Tự Tại đã để mình rơi vào một số sai lầm mà giáo lý nhà Phật gọi là vô minh :
- Có các người ganh ghét và đố kỵ Thạch Trung Ngọc ( do vì Thạch Trung Ngọc có bố mẹ thân tình với bang chủ, giàu có và tiếng tăm ) đã dựng chuyện thêu dệt, chuyện bé xé ra to.
- Có những bàn tay quái nghịch trong bóng tối như Đinh Bất Tam, Đinh Bất Tứ, A Đang nhúng tay vào khiến cho sự việc rối rắm.

- Quan niệm sai lầm về giá trị " đứng đắn ", " tiết trinh ", đức hạnh " của người con gái của gia đình Bạch Tự Tại đã " đổ dầu vào lửa " cho sự việc cháy bùng, đáng tiếc !
- Các tướng trạng, hay các sự kiện, biểu hiện do rất nhiều nguyên nhân xa, gần tác động, nhưng " vô minh " đã giục gia đình Bạch Tự Tại quy tội về cho Thạch Trung Ngọc, một mình Thạch Trung Ngọc.
- Từ nhìn sai sự việc, dẫn đến hành động sai lầm; các hành động sai lầm dẫn đến sự kết nối sai lầm dây chuyền. Hầu như Kim Dung đang phô diễn cái hư huyễn của các tướùng trạng, và cái nguy hại của các tâm lý xấu của con người mà Kinh Kim Cang nhà Phật gọi là " Các tướng trạng đều không thật " ( " Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng " )

2. Cục diện Tuyết Sơn khởi đầu rối rắm do nhìn sai, thấy sai và nghĩ sai : thuật ngữ Phật giáo gọi là tà kiến và tà tư duy ; từ đó kéo theo các sai lầm khác như báo cáo sai ( tà ngữ ), hành động sai ( tà nghiệp ), tưởng nghĩ sai ( tà niệm ), nỗ lực giải quyết sai ( tà tinh tấn ) do thiếu sáng suốt, định tỉnh ( tà định ). Tại đây Kim Dung bắt đầu gợi mở ra nếp sống, nếp văn hoá “Bát Chánh Đạo” của Phật giáo : nếp sống của sự đúng đắn, ổn định.

3. Cảnh tượng Cảnh Vạn Chung của Tuyết Sơn chạm vào nội lực của Thạch Thanh mới nhận ra nội lực quá yếu kém của mình, sợ hãi đến toát mồ hôi lạnh : sự việc nầy các người chung quanh không nhận ra, rằng giá trị của sức mạnh của một kiếm khách nằm ở nội lực, mà không ở bên ngoài kiếm thuật. Cũng vậy, giá trị của một hành động là dựa vào cái tâm tác động lên hành động ( tốt xấu )...) mà không nằmở bên ngoài của biểu hiện hành động. Đây là nội dung định nghĩa chữ Nghiệp (Karma ) của nhà Phật.

4. Thạch Thanh và Mẫn Nhu là hai đại hiệp khách chân chính mà liên tục gặp tai ương : con, Thạch Trung Ngọc bị nạn; Thạch Gia Trang bị đốt; các gia nhân của Thạch Gia Trang bị khốn đốn; một đứa con trai khác, Thạch Trung Kiên, bị " Mai Phương Cô " ( tình địch ) bắt đi mất tích từ năm lên một. Đây là trường hợp ở ngoài sự thật " ác giả ác báo, ở hiền gặp lành " mà người đương thời tin tưởng.

5. Đời sống thì dẫy đầy các tác nhân vô thường, bất định :
- Các sân hận thì phản ứng đột ngột, tai hại bất định, khó lường.
- Các tâm lý tham thì hành động âm thầm, mưu thâm đầy nguy hiểm.
- Các tâm lý bất định hành động tuỳ hứng như Tạ Yên Khách, Đinh Bất Tam, Đinh Bất Tứ, A Đang... thì khó lường. Giữa môi trường sống đó thì con người dễ mắc vào các tai hoạ, rủi ro không do mình gây ra. Đây là nỗi khổ vô thường, theo Phật học, gắn chặt với thân phận con người ở ngoài mọi " logic ".

Chỉ có sự thuần tuý thuật chuyện về một hồi truyện ngắn của Kim Dung đã ảnh hiện rất nhiều điểm về Phật học, rất ý vị !
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

5
Bàn về tư tưởng Phật Học
trong tiểu thuyết Võ Hiệp Kim Dung
Phần 4
Hồi 3 : Ma Thiên Nhai


A. Tóm tắt hồi 3
- Tạ Yên Khách thu hồi được Huyền Thiết Lệnh từ Cẩu Tạp Chủng ; sợ nguy hại đến tánh mạng nếu có người xúi giục Cẩu Tạp Chủng yêu cầu Tạ Yên Khách tự vẫn hay phế bỏ võ công, nên ông đã đem Cẩu Tạp Chủng từ thị trấn Hầu Giám Tập về sống trên đỉnh Ma Thiên Lĩnh, ngày đêm giám sát cậu bé.

- Trên đường đi, Tạ Yên Khách dùng đủ mưu mô dụ dỗ, uy hiếp buộc Cẩu Tạp Chủng cầu xin ông một điều gì cho làm xong lời hứa, nhưng cậu bé thì tuyệt nhiên không mở miệng cầu xin bất cứ ai một điều gì. Đây là lý do mà cậu bé được sống lâu dài bên cạnh quái khách Tạ Yên Khách trên Ma Thiên Lĩnh để hầu hạ ông ta và luyện tập bí pháp “La hán phục ma thần công ".

- Trên đường đi, chứng kiến ba cao thủ Trường Lạc bang đang uy hiếp, bức tử Đại bi lão nhân, Cẩu Tạp Chủng nổi tâm nghĩa hiệp, lên tiếng bảo vệ lão nhân mà không sợ liên luỵ. Bấy giờ thì lão nhân đã kiệt sức, sắp trút hơi thở cuối cùng, cảm nghĩa cậu bé bèn cho cậu pho tượng đất gồm 18 tượng La hán trong túi của ông ta. Đây là pho bí pháp " La hán phục ma thần công " do các thần tăng Thiếu Lâm sáng tác và để lại.
- Tạ Yên Khách bèn nghĩ ra một kế kín đáo hại chết Cẩu Tạp Chủng bằng cách chỉ dạy cho Cẩu Tạp Chủng luyện tập bí pháp trên pho tượng, không theo thứ tự, để tẩu hoả nhập ma. Nhưng Cẩu Tạp Chủng không có tạp niệm nên không bị tẩu hoả trong thời gian dài luyện công. Cuối cùng thì luyện xong 18 đường dương công và 18 đường âm công, sắp đến thời điểm thành tựu một võ công " siêu thế "

B. Ý kiến 1. Cẩu Tạp Chủng là trẻ thuần lương, thông tuệ là nhân vật chính sẽ mở ra bí kíp Thái Huyền Kinh, mở ra chân lý, lại từ năm một tuổi lớn lên ở Khô Thảo Lỉnh, một đỉnh núi cô vắng, xa thế sự, một đỉnh núi của các loài cỏ khô; rồi năm 13 tuổi đến sống trên đỉnh Ma Thiên Nhai, cũng cô vắng, lạnh lùng của " phương trời ma quái " ( Ma Thiên Nhai ) và nội lực phát triển, trưởng thành ở đây. Hệt như giải thoát phải đến từ khổ đau; chân lý vượt ra từ cõi tà vạy : phải hiểu rõ khổ đế ( sự thật của khổ ) mới thấy con đường đi ra khỏi khổ, đến với giải thoát (diệt đế) của giáo lý nhà Phật.
2. Sự thật Tạ Yên Khách dấu mặt lấy đi hai thanh bảo kiếm của Thạch Thanh và Mẫn Nhu mà nhóm Tuyết Sơn đang giữ làm tin, khiến nhóm nầy quả quyết rằng đây là mưu gian của Thạch Thanh và Mẫn Nhu.

- Sự kiện " má má " đặt tên Cẩu Tạp Chủng khiến Tạ Yên Khách nghĩ rằng " má má " Mai Phương Cô bị chồng theo gái, bỏ rơi .

Hai sự kiện đó nói lên ý nghĩa : Kinh nghiệm thường nghiệm và tư duy logic rất dễ lầm lẫn : nó đúng mà không thật . Ở nhà Phật thì chân lý là cái gì vừa đúng ( chân ) và vừa thật ( như ) gọi là chân như.

3. Tạ Yên Khách và Cẩu Tạp Chủng là hai hình ảnh văn hoá tương phản :
- Tạ Yên Khách thì bận tâm về giá trị hình thức " quân tử ", " trượng phu ", mà hành xử lại bá đạo.

- Cẩu Tạp Chủng tự xem là phàm phu mà hành xử chân chất, hiền thiện, thể hiện đạo lý của Thánh hiền : " Hợp nội ngoại chi đạo " của Đại học.
Hình ảnh của chàng gợi lên ở người đọc một chút gì ngậm ngùi khi nhìn lại giá trị hình thức của nền văn hoá cũ.

4. Tạ Yên Khách đi vào giang hồ lâu ngày đã đánh mất cái tính chân chất thuần phác như được thể hiện ở con người Cẩu Tạp Chủng. Đây là ý nghĩa của " Tánh tương cận, tập tương viễn " mà đạo đức mang màu sắc Phật giáo ở Cẩu Tạp Chủng (tẩy sạch tâm lý cấu uế ) có thể làm sống lại ý nghĩa " cận đạo ":

- Ở Tạ Yên Khách, cái " ta " ( tự ngã ) và cái " của ta " được phát triển mạnh.
- Ở Cẩu Tạp Chủng, cái " ta " và cái " của ta " thì vắng mặt một cách tự nhiên.
Hai hình ảnh văn hoá tương phản ấy đã mở ra một cuộc đối thoại dài của Hồi truyện thứ ba, rất triết lý : Kim Dung đang nói triết lý bằng ngôn ngữ kiếm hiệp đầy thú vị . Thử nghe lại một mẫu đối thoại ngắn giữa hai người ấy :

" Gã ăn xin ăn xong cái này lại lấy cái khác, ăn hết thảy bốn cái bánh bao mới nói: “Cháu no rồi, không ăn nữa '.
Tạ Yên Khách ăn hết hai cái bánh rồi thôi, quay lại hỏi chủ quán :
- ' bao nhiêu tiền '
Chủ quán đáp :’ Hai đồng một cái. Cả thảy sáu cái, cộng lại là mười hai đồng '
Tạ Yên Khách đáp : ' Không được. Phần ai ăn người ấy trả tiền. Ta ăn hai tấm, vậy ta trả bốn đồng là đủ.

Lão thò tay vào bọc toan móc tiền ra trả, nhưng sờ đi sờ lại mà chẳng còn một đồng nào ... Trong lúc Tạ Yên Khách chưa biết giải quyết cách nào, thì gã ăn xin đã móc trong bọc ra một thỏi bạc, đưa cho chủ quán nói : ' Tất cả mười hai đồng, để cháu trả cho '.
Tạ Yên Khách chưng hửng hỏi : ' Sao ? Ngươi lại trả tiền cho ta ư ?’
Gã ăn xin cười đáp : ' Ông không có tiền mà cháu có, cháu mời ông ăn mấy cái bánh bao phỏng có chi đáng kể ? '. Chủ quán cũng lấy làm kinh ngạc, lấy mấy miếng bạc vụn và mấy xâu tiền đồng thối lại. Gã ăn xin thu tiền cất vào bọc, rồi nhìn Tạ Yên Khách xem lão sai bảo gì.

Tạ Yên Khách bất giác nở một nụ cười chua chát, nghĩ thầm : ' Tạ mỗ cố chấp thành tính, trước nay dù là một miếng cơm, một ly nước cũng chẳng chịu ơn ai, không ngờ hôm nay lại để một gã ăn xin mời ăn hai cái bánh bao... ' ( tập I.tr.92-93)
Nụ cười chua chát ấy của Tạ Yên Khách là nụ cười về tinh thần bảo thủ, cố chấp của một nét văn hoá cũ !
5. Nếp văn hoá ở núi Hùng Nhĩ của Mai Phương Cô " má má ", hình như có sự hiện diện của bồ tát Quán Thế Âm, trí tuệ vô ngã và lòng từ bi cứu khổ, đã để lại ảnh hưởng trong tâm thức hồn nhiên của Cẩu Tạp Chủng khi Cẩu Tạp Chủng phát ngôn rằng :
" Gã ăn xin đáp : Sao lại ăn cắp ? Vừa rồi một vị thái thái giống Quan Âm áo trắng đã cho cháu " ( tr. 94 )

và :” Ông ăn táo đi ! Ông ( chỉ Tạ Yên Khách ) không phải là người, cũng không phải ma quỷ, chẳng lẽ lại là Bồ Tát ? Nhưng cháu thấy cũng không giống " ( tr. 97 ).
Nét văn hoá Phật giáo nhẹ nhàng ấy dần dần in đậm vào tâm thức Cẩu Tạp Chủng, trước khi khởi động công phu " La hán phục ma thần công ", để thành tựu việc khai mở chân lý của Thái Huyền Kinh trên đảo Hiệp Khách !

6. Ý Nghĩa biểu tượng của 18 tượng La hán :

Trong Phật giáo, La hán là hàng đệ tử Đức Phật đã hàng phục được lòng tham dục cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, và hàng phục được sự đắm trước ( chấp thủ ) lòng dục, thấy biết, giới luật sai lầm, và các học thuyết chủ trương có tự ngã ( dù dưới bất cứ dạng thức nào ). Kinh Phật dạy có 18 dòng Ái ( và Thủ ) liên hệ nội tâm, và 18 dòng Ái ( và Thủ ) liên hệ ngoại cảnh :

Liên hệ nội tâm : Khi nào có ý niệm ta có mặt thì sẽ có những tư tưởng : ta có mặt trong đời này; ta có mặt như vậy, ta có mặt khác như vậy; ta không thường hằng; ta thường hằng; ta phải có mặt không ? ta phải có mặt trong đời này không ? ta phải có mặt như vậy; ta phải có mặt khác như vậy; mong rằng ta có mặt; mong rằng ta có mặt trong đời này; mong rằng ta có mặt như vậy; mong rằng ta có mặt khác như vậy; ta sẽ có mặt; ta sẽ có mặt trong đời này; ta sẽ có mặt như vậy; ta sẽ có mặt khác như vậy.

Liên hệ ngoại cảnh : Khi nào có tưởng: ' Do cái này, ta có mặt; thì sẽ có các tư tưởng : do cái này, ta có mặt trong đời này ( tương tự trên )
( Tăng chi kinh, II, PTS, London, 1992, tr.226 )

Nội dung của 18 dòng Ái ( Thủ ) trên là nội dung của Tập đế ( nguyên nhân của khổ ) trong Tứ Diệu đế của Phật giáo ( được biểu tượng qua chuổi hạt tay 18 hạt hay 36 hạt ).
Đại bi lão nhân tặng cho Cẩu Tạp Chủng 18 Tượng La hán là trao cho công phu loại trừ hết thảy các loại chấp thủ ngã tưởng mà Kinh Kim Cang Bát Nhã của Đại thừa Phật giáo đã đề cập, bao gồm tám loại : ngã tưởng, nhân tưởng, chúng sanh tưởng, thọ giả tưởng, pháp tưởng, phi pháp tưởng, tưởng và phi tưởng :

- Ngã tưởng : tin tưởng có mặt một tự ngã khác với năm uẩn như khi nói : cái này là của tôi, tôi là cái này, cái này là tự ngã của tôi.
- Chúng sinh tưởng : tin tưởng có một cá thể độc lập, liên tục và đồng nhất với chính nó qua thời gian; cá thể đó phân biệt các phần tố bên trong cá thể khác biệt với những gì ở bên ngoài.

- Thọ giả tưởng : tin tưởng có một sức mạnh hợp nhất và sinh động bên trong cá thể, tồn tại từ khi sinh cho đến khi chết.
- Nhân tưởng : tin tưởng có một thực thể thường hằng, luân hồi, tái sinh từ kiếp nầy qua kiếp khác.
- Pháp tưởng : tin tưởng có sự hiện hữu thật sự của các pháp độc lập.
- Phi pháp tưởng : ( không pháp tưởng ): tin tưởng có không pháp độc lập với hiện hữu

- Tưởng : Tưởng thường quyết định tính chất cho sự vật vốn không có trong thực tế.
- Phi tưởng : nếu biết tưởng là không thật mà chủ trương không có tưởng, không tác tưởng-các bậc Thánh, Bồ Tát vẫn tác tưởng mà vẫn giác tỉnh vô ngã, vẫn không chấp thủ.
Đây là công phu tu tập chủ yếu của Phật giáo nói chung, và Kim Cang Bát Nhã nói riêng.

7. Tu tập công phu loại trừ các tưởng tự ngã :
- Bước đầu hành giả cần tẩy sạch các tâm lý cấu uế, bất thiện như tham lam, sân hận, si ám, đố kỵ, kiêu mạn, dối gạt, ác hại, v.v? nếu không thì không thể tu tập thành tựu các tâm thiền định ở bước thứ hai.

Đây là nội dung mà Kim Dung giới thiệu Cẩu Tạp Chủng với tâm lý trong sáng, giản đơn, không có thất tình, lục dục, hành " La hán phục ma thần công " dễ dàng thành tựu, không bị tẩu hoả, như Tạ Yên Khách đã nhận xét :

" Thằng bé này đầu óc chưa được mở mang, chuyện đời hoàn toàn không biết, trong lòng không có tạp niệm, vì thế mới không bị tẩu hoả nhập ma "( tr. 136 )

Công phu " La hán phục ma " quả là công phu giáo dục các tâm hồn, các cá nhân cho một xã hội đạo đức, nhân ái, đầy tình người !
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

6
Bàn về tư tưởng Phật Học
trong tiểu thuyết Võ Hiệp Kim Dung
Phần 5
Hồi 4 : Bang chúa rừng Lạc bang


A. Tóm tắt hồi 4
-Tại Ma Thiên Lãnh, Cẩu Tạp Chủng vừa luyện xong 18 đường âm công và 18 đường dương công của " La hán phục ma thần công ", do không biết điều hoà kinh mạch âm dương nên bị “tẩu hoả”, may kịp lúc Bối Hải Thạch, và thêm các đại cao thủ Trường Lạc bang, xuất hiện cứu cấp, tạm thời qua được cơn nguy cấp ; Bối Hải Thạch lầm tưởng Cẩu Tạp Chủng là Thạch Phá Thiên, bang chủ, nên rước về điều dưỡng ở cung Trường Lạc.

- Tại cung Thường Lạc, Bối Hải Thạch tiếp tục trị liệu mỗi ngày. Đinh đỉnh Đang đang, người tình của Thạch Phá Thiên, cho uống Huyền Băng Bích Hoả Tửu ( loại rượu rất trân quý của võ lâm, dùng để trì hoãn lại sự tương giao của hai luồng khí âm dương trong nội thể ), nên Cẩu Tạp Chủng hồi tỉnh.

- Vào lúc hai luồng âm dương khí dâng đầy ở huyệt Đản Trung ( giữa ngực ) thì Triển Phi hương chủ, kẻ thù bị cướp vợ của Thạch Phá Thiên, xuất hiện đánh một chưởng mạnh vào huyệt Đản Trung để kết liểu đời Thạch Phá Thiên. Không ngờ, chưởng nầy đã giúp Cẩu Tạp Chủng điều hoà được khí huyết, thành tựu thần thông " La hán phục ma " lên đến đỉnh điểm. Triển Phi hương chủ thì bị phản lực mà bị gảy một cánh tay và trọng thương.
Cẩu Tạp Chủng, với từ tâm, vô hại tâm, đã bao che cứu tội và trị thương cho Triển Phi.
Thật là sự lạ đầy kinh dị !

B. Ý kiến
1. Lạc bang là từ ngữ Phật học chỉ cõi nước của Đức Phật A-Di-Đà. Ở đó, vắng mặt mọi thứ khổ đau, mãi mãi hạnh phúc, yên vui nên gọi là Trường Lạc.
Bối Hải Thạch và các Hương chủ bang nầy thì bản chất hành ma đạo. Do vì tránh nạn dự hội yến Lạp Bát ở Hiệp Khách đảo nên tráo dựng bang chủ Thạch Phá Thiên; sau khi Thạch Phá Thiên ( Thạch Trung Ngọc ) ẩn trốn, Bối Hải Thạch lại mạo dựng Cẩu Tạp Chủng.
Thật là ý vị ! tâm chân của Cẩu Tạp Chủng lại cần được nuôi dưỡng, phát triển tại ma xứ nầy !

2. Cẩu Tạp Chủng : sức mạnh của vô dục,vô chấp :
- Bản tính của Cẩu Tạp Chủng là minh mẫn, chân thật, thuần lương, vô dục và không chấp nệ các thị phi.
- Mọi người đều lầm chàng là Thạch Phá Thiên ( trừ Bối Hải Thạch sau khi điều thương cho chàng ) và bày tỏ thái độ tương hệ khác nhau : Cùng một đối tượng mà mỗi người ở vị trí khác nhau thì nhìn khác nhau. Cả tự thân Cẩu Tạp Chủng cũng không thật sự biết rõ gốc gác của mình, chỉ lờ mờ chàng là chú bé ở đỉnh Hùng Nhĩ, đùa giỡn với chó A-hoàng.

Nhờ có tâm lý vô dục, vô chấp ấy, Cẩu Tạp Chủng đã thành tựu không khó khăn thần thông siêu đẳng của " La hán phục ma ". Bước thành tựu còn tiến xa, xa nữa khi chàng không chấp thủ cả kết quả thành tựu. Khi Bối Hải Thạch nói :
" Chúc mừng bang chúa! Thần công cái thế của bang chúa đã luyện thành rồi "
Cẩu Tạp Chủng đã hồn nhiên hỏi lại :
" Cái gì ... cái gì là cái thế thần công ? "
Đây, thực sự là ngôn ngữ của Kinh Kim Cang khi diễn đạt sự chứng đắc bốn Thánh quả : Tu-đa -hoàn, Tư-đà-hàm , A-na-hàm, và A-la-hán :

" Đức Phật hỏi :’ Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao, vị Tu-đà-hoàn có nghĩ rằng : Ta đã chứng đắc Tu-đà-hoàn quả chăng ?-Tôn giả Tu-bồ-đề đáp : Quả thật không, bạch Thế Tôn. Tại sao? Bởi vì, bạch Thế Tôn vị ấy không có chứng đắc bất cứ pháp nào. Cho nên vị ấy được gọi là Tu-đà-hoàn...
- " Bởi vì chưa có một pháp nào chứng đạt được quả Tư-đà-hàm. Đấy là lý do tại sao vị ấy được gọi là Tư-đà-hàm "
- ... ( Tương tự đối với quả A-na-hàm, A-la-hán ... )

3. Hai cảnh giới thiền định :
- Tạ Yên Khánh, trên Ma Thiên Lãnh, khổ luyện nội công đạt đến mức " thân, ý, khí " điều hợp, vật ngã đều quên : đây là một loại thiền định có sức mạnh tập trung và có thần lực của một cảnh giới định sâu, nhưng tâm ý của ông còn vướng vào thị phi, tự ngã, nên theo Phật học gọi là tà định. Loại định nầy vắng mặt trí tuệ và tâm đại bi.

- Cẩu Tạp Chủng đạt định " La hán phục ma " với trí minh mẫn, không dục vọng, không dính mắc, đầy nhân ái, theo Phật học đây là loại chánh định. Chỉ loại thiền định nầy mới có thể phát triển đến cao điểm, giáp mặt chân lý, giải mã được " Thái huyền kinh "
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (999 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [78] [79] [80] [81] [82] [83] [84] ... ›Trang sau »Trang cuối