Trang trong tổng số 5 trang (42 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Phụng Hà

Giai thoại Nguyễn Khuyến (1835-1909)

(Tiếp theo)

7/ Thơ thăm bạn mất cướp

  Nguyễn Khuyến có ông bạn là tuần phủ họ Bùi, ông tuần này tính tình hống hách mà hay đục khoét. Lúc về hưu ở làng, ông ta tuy không có dịp đục khoét nữa, nhưng vẫn cố ky cóp làm giàu bằng đủ mọi cách bóc lột bẩn thỉu. Vì thế, dân trong vùng rất ghét ông ta. Tình cờ một đêm,một bọn kẻ cướp bôi nhọ mặt, vào nhà tóm ông ta khảo của, lấy hết tiền nong vàng bạc. Rồi sau chúng lại lôi ông ta ra tận giữa cánh đồng làng và trói gô để ở đó.
 Sáng hôm sau dân chúng rõ chuyện, lấy làm hả hê lắm. Rồi chẳng mấy chốc, chuyện bay đi khắp vùng. Nguyễn Khuyến nghe được, vốn đã ghét cái thói vơ vét của ông quan họ Bùi, cho thế cũng là đáng đời, mới làm giễu bài thơ rằng:
 
  Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
  Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
  Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ!
  Xương già da cóc, có đau không?
  Bây giờ trót đã sầy da trán,
  Ngày trước đi đâu mất mảy lông?
  Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa,
  Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!


  Họ Bùi mất cướp, của cải hết sạch, mình mẩy đau nhừ, đang bực , khi nhận được bài thơ hỏi thăm của bạn, tưởng là an ủi gì, hoá ra lại nói xỏ thì càng tức hơn, mới trả miếng Nguyễn Khuyến bằng một bài thơ như sau:
 
  Ông thăm tôi cũng giã ơn ông,
  Nó có lôi tôi đến giữa đồng,
  Cũng tưởng vun thu phòng lúc thiếu,
  Nào ngờ ky cóp lại như không.
  Chém cha lũ quỷ đen tai mắt,
  Chẳng nể ông già bạc tóc lông.
  Ông hỏi thăm tôi, tôi biết vậy,
  Thương ông tuổi tác chán thời ngông!


  Nguyễn Khuyến đọc bài thơ, biết họ Bùi cũng có ý muốn xỏ lại mình; nhưng thấy giọng xỏ non nớt quá nên chỉ cười thầm.

8/ Chi chi giã

  Khoảng những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX của chế độ thực dân ở Việt Nam, bỗng nảy nòi ra một cô me tây khá kỳ dị, đó là cô Tư Hồng.
  Tư Hồng tên thật là Trần Thị Lan, quê ở gần làng của nhà thơ Yên Đổ, thuộc tỉnh Hà Nam . Cô Lan xinh đẹp và thông minh, bỏ quê ra Hải Phòng kiếm ăn, lấy một người Hoa kiều tên là Hồng; vì thế người ta thường gọi là thím Hồng. Về sau , cô lại lên Hà Nội lấy một viên quan tư nhà binh Pháp; bấy giờ tên cô có thêm một chữ “Tư”. Từ đấy người ta thường gọi là cô Tư Hồng, cái tên gói ghém lịch sử hai đời chồng.
   Cô Tư Hồng khéo biết lợi dụng thời cơ và nhan sắc làm nên giàu có, tiếng tăm lừng lẫy một thời. Cô có hai “kỳ công” được người ta nhắc đến luôn, đó là việc bao thầu vụ phá thành Hà Nội để lấy gạch, và việc phát chẩn gạo cho đồng bào Thừa Thiên. Việc bao thầu đã đưa lại cho cô hàng  mấy dãy nhà và nhiều biệt thự đồ sộ ở Hà Nội. Về vụ gạo, cô ta dược phép độc quyền bán gạo cho đồng bào bị lụt ở Thừa Thiên; lợi dụng dịp này cô ta đầu cơ rất ghê; nhưng khi việc vỡ lỡ thì lại xảo quyệt biến thành món gạo phát chẩn. Vì thế, Tư Hồng đã được triều đình Huế, vâng lệnh thực dân Pháp, phong cho hàm "tứ phẩm phu nhân" là hàm của hàng án sát tỉnh. Kế đó, Tư Hồng lại chạy cho bố cũng được phong luôn hàm "hàn lâm thị độc". Thế là có giàu lại có sang; Tư Hồng thừa dịp về làng khao vọng hết sức linh đình.
  Bấy giờ, Nguyễn Khuyến cũng được mời đến dự, nhưng ông cáo bệnh không đi; cho người mang đến mừng ba chữ   “Chi chi giã” để đề vào hoành phi và hai câu đối nôm như sau:
 
  Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá vang lừng hăm sáu tỉnh (1)
  Này biển, này cờ, này sắc phong cho cụ, chị em (2) được thế mấy lăm người!


(1) Hăm sáu tỉnh: số tỉnh toàn cõi Bắc Kỳ bấy giờ.
(2) Chị em : tiếng gọi thân mật để chỉ phụ nữ làm những nghề không được
    trọng vọng lúc bấy giờ như cô đào, gái làng chơi, vv... Đây là dụng ý mỉa
    mai của Yên Đổ.

  Hôm ấy các quan khách đến dự đông lắm; nghe nói văn chương của Yên Đổ thì đều xúm lại xem, nhưng không ai hiểu ba chữ “Chi chi giã” là thế nào cả. Nghe đâu chỉ có ông đốc học Hà Đông là Trần Tấn Bình tình cờ đọc lái lại ba chữ “chi chi giã” thành ra “cha cha đĩ ” nên đã hiểu được dụng ý của Nguyễn Khuyến. Tuy vậy  ông ta chỉ cười thầm trong bụng chứ không tiện nói ra. Còn vế đối nôm thì mọi người đều khen hay cho rằng ca tụng như thế đã là hết lời. Nhưng riêng ông đốc học cũng lại chỉ cười thầm; vì ông biết Nguyễn Khuyến cũng đã dựa theo câu tục ngữ “Làm đĩ có tàn có tán, có hương án thờ vua” để chửi xỏ mụ Tư Hồng.
  Rồi nhân thể ông đốc học nảy hứng, cũng theo gót Nguyễn Khuyến mà mừng một đôi câu đối rằng:
 
Ngũ phẩm vinh phong hàm cụ lớn
Ngàn năm danh tiếng của bà to.

   Tương truyền hai câu này cũng được mọi người trầm trồ khen mãi; mà bố con Tư Hồng thấy nôm na dễ hiểu,ngắn gọn dễ nhớ, cũng thích lắm. Song họ có biết đâu rằng ông đốc học đã chửi xỏ chẳng kém gì Nguyễn Khuyến. Vì quai hàm của cụ mà đem đối với cái kia của bà thì cũng khá là đau!

9/ Khóc anh thợ rèn

   Cạnh nhà Tam nguyên Yên Đổ có một gia đình làm nghề thợ rèn  trẻ tuổi, sống êm ấm hạnh phúc với hai con bụ bẫm.Chị vợ là một người đẹp người tốt nết, trong làng đã từng có nhiều tên lưu manh giở trò ve vãn, doạ dẫm, nhưng chị vẫn giữ mực đoan trang. Bỗng người chồng ốm rồi chết, ai cũng thương. Yên Đổ nghe tin liền gửi một đôi câu đối:
 
 Nhà cửa để lầm than, con thơ dại lấy ai rèn cặp?
 Cơ đồ đành bỏ bễ, vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi.


Câu đối này hóm hỉnh ở chỗ Yên Đổ đã dùng những tiếng “than”, “rèn”, “cặp”, “bễ”, “đe”, “loi”, là những nguyên liệu và dụng cụ cần thiết trong nghề rèn.

10/ Văn tế F. Garnier
  Năm 1873, sau khi Francis Garnier bị quân Cờ Đen giết, triều đinh nghị hoà với Pháp, các quan ta ở Hà Nội muốn tạo một hoàn cảnh thuận tiện cho việc giải hoà,bèn tổ chức lễ truy điệu viên sĩ quan Pháp tử trận. Tổng đốc Hà Nội là
Trần Đình Túc cử Yên Đổ làm bài văn tế. Ông viết như sau:

 
     Nhớ ông xưa:
  Tóc ông quăn, - Mũi ông lõ
  Ông ở bên Tây ngang tàng – Ông sang bên Nam bảo hộ.
  Quan ông to, ông có lon vàng đeo tay; - Công ông cao,ông có mề đay đeo cổ.
  Mắt ông chiếu kính thiên lý, đít ông cưỡi lừa. - Vai ông đeo súng lục liên, miệng ông huýt chó.
  Tháng … ngày hai … ông ở huyện Thuỵ Anh,
  Tháng … ngày mồng … ông sang Thiên Bình phủ.
  Ông, định giết thằng Đen, - để yên con đỏ,
  Nào ngờ: Nó chém đầu ông đi – nó bêu mình ông đó.
  Khốn nạn thân ông, – Đ… mẹ cha nó.
        
       Nay tôi:
  Vâng mệnh các quan – Tế ông một cổ
  Xôi một mâm – Rượu một hũ
  Chuối một buồng – Trứng một ổ
  Ông ăn cho no – Ông uống cho đủ
  Hồn ông lên Thiên đàng – Phách ông vào địa hộ
  Ông ơi là ông – Nói càng thêm hổ !


Lời văn mỉa mai đến sỗ sàng, rất mực trào lộng như miệng đối với đít (đít cưỡi lừa, miệng huýt chó). Người Pháp đâu có hiểu lắt léo như ta, dù có người dịch ra tiếng Pháp! Tuy vậy mặc lòng, bài văn tế này các quan cũng không cho đọc,
chỉ được phổ biến bằng khẩu truyền.

11/ Vợ anh thợ nhuộm khóc chồng:

  Bên cạnh nhà Yên Đổ có người làm nghề thợ nhuộm rất khéo nên khách hàng đến thuê nhuộm luôn luôn đông đúc, vải lụa phơi trước nhà anh ta
lúc nào cũng rực rỡ đủ màu. Chẳng may, một hôm anh ta ốm chết, để lại
vợ trẻ với mụn con thơ. Người vợ chạy sang nhà Yên Đổ xin câu đối khóc
chồng. Ông lấy giấy bút viết ngay hai câu:
 
Thiếp từ thủa lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại điều khôn
nhờ bố đỏ;
Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột
với trời xanh.

  Thế là có hầu hết các màu trong tay thợ nhuộm: thắm, tía, đen, đỏ, vàng, hồng, trắng, tím, xanh. Không những thế, câu đối còn nói rõ được tình cảnh gia
đình người chết, lại diễn tả được mối thắm thiết của người vợ khóc chồng.

12/ Thơ tạ người cho hoa trà:

     Tương truyền tổng đốc Hưng Yên là Lê Hoan đứng ra tổ chức cuộc thi thơ vịnh Kiều ở Tao đàn Hưng Yên vào năm 1904 , Lê Hoan có mời Yên Đổ  vào ban chấm thi. Thí sinh có thể làm thơ quốc âm hay chữ Hán.
   Khi ấy, khách văn chương ở các tỉnh gởi bài về rất nhiều; riêng Chu Mạnh Trinh gửi 20 bài quốc âm đến dự thi. Nguyễn Khuyến chấm thơ Chu Mạnh Trinh  cho là khá; nhưng đọc đến hai câu trong bài vịnh Sở Khanh:

   Làng nho người cũng coi ra vẻ
   Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay!

  Nguyễn Khuyến tỏ vẻ không bằng lòng, phê ngay vào bên cạnh rằng:

   Rằng hay thì thực là hay,
   Đem “nho” đối “xỏ” lão này không ưa.

 Chẳng mấy chốc chuyện ấy lọt ra ngoài rồi lan khắp trong làng nho, ai nghe cũng lấy đó làm một giai thoại để giễu họ Chu.
  Chu Mạnh Trinh từ đấy giận Nguyễn Khuyến . Khi làm án sát  Hưng  Yên, nhân ngày Tết, Chu cho người mang đến biếu Nguyễn Khuyễn một chậu hoa trà với dụng ý cũng khá thâm:Nguyễn Khuyến lúc ấy đã bị loà cả hai mắt mà họ Chu lại tặng hoa chỉ có sắc , không có hương , như thế là có ý xỏ lá . Hiểu thâm ý của Chu,Nguyễn Khuyến bèn làm bài thơ mỉa như sau gửi lại cho Chu Mạnh Trinh:
 
  Tết đến người cho một chậu trà,
  Đương say còn biết cóc đâu hoa!
  Da mồi tóc bạc, ta già nhỉ,
  Áo tía đai vàng, bác đó a?
  Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá, (1)
  Gió to luống sợ lúc rơi già! (2)
  Lâu nay ta chỉ xem bằng mũi,
  Đếch thấy hơi thơm, một tiếng khà! (3)


(1) Xỏ lá: còn có nghĩa là nguy hại ; do câu thơ chữ Hán  “tầm thường vì vũ
    kinh xuyên diệp” (những hạt mưa nhỏ dần dà cũng có thể xuyên thủng lá)
(2) Rơi già : rơi rụng quả, gãy mầm; do câu thơ chữ Hán “tiêu sắt thời phong
    khủng lạc già” (gió mùa khô mạnh làm cho quả rụng, mầm rơi)
(3) Khà: tiếng cười khà: mắt loà không thấy sắc đẹp nên phải ngửi, ngửi cũng
    đếch thấy hơi thơm nên đành phải cười khà.

 Chu Mạnh Trinh đọc xong thơ vừa thẹn vừa ân hận.
 Người ta nói đùa rằng một phần chính vì bài thơ này, nhất là hai câu ba, bốn mà Chu Mạnh Trinh phải xin từ chức Án sát,không làm quan nữa. Cố nhiên lý do không phải là như vậy.

13/ Thơ tự trào:

 Lúc về già, ông làm bài thơ tự trào, lời lẽ tuy mộc mạc và hí lộng, nhưng tả được từ  vẻ người đến thời cục và thái độ bất khuất (nhưng thụ động) của mình
, điểm thêm một nụ cười chua chát:
 
  Cũng chẳng giàu, mà cũng chẳng sang,
  Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng.
  Cờ đương được cuộc không còn nước,
  Bạc đánh ba quan (1) đã chạy làng. (2)
  Hé miệng nói ra gàn bát sách,
  Mềm môi chén mãi tít cung thang.
  Nghĩ mình lại gớm cho mình nhĩ:
  Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!


(1) Ba quan: ba quan tiền. Đây nói nghĩa bóng: làm quan ba nơi, lúc nước mất cáo về
(2) Chạy làng: thua bạc, không giam tiền, bỏ chạy
                      ---------------------------

Viết theo:

1/ Giai thoại làng nho, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản,
   Sài Gòn, 1966
2/ Giai thoại văn chương Việt Nam, Hoàng Ngọc Phách và Kiều   
   Thu Hoạch sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, Hà Nội 1988
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà

Giai thoại Phan Văn Trị (1830-1910)

     Phan Văn Trị sinh năm Canh Dần (1830), tại làng Hạnh Thông, tỉnh Gia Định. Hai mươi tuổi đỗ cử nhân (năm Kỷ Dậu,Tự Đức II, 1849) nên thường gọi là Cử Trị. Thang mây sẵn bước, có thể ruổi dong trên hoạn lộ dễ dàng, nhưng vì tính khí ngang tàng, ông không chịu bó buộc thân mình, mặc dầu gia đình thanh bạch. Ông lấy việc dạy học và bốc thuốc làm phương độ nhật. Khi quân Pháp gây hấn ở Gia Định (1862) ông tránh xuống Vĩnh Long, kết bạn với Nguyễn Đình Chiểu và Huỳnh Mẫn Đạt.
   Phẫn uất trước sự bạo tàn của quân giặc, ông làm bài “Gia Định thất thủ phú khá dài (xem trong Thi viện).

  Năm 1867, Vĩnh Long lọt vào tay Pháp, ông cảm khái thốt ra lời thơ đau đớn trước sự bất lực của nhà cầm quyền Việt Nam :
    
 Vĩnh Long thất thủ

Tò te kèn thổi, tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai ruột xót xa.
Uốn khúc sông Rồng mờ mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ rầu hoa.
Tan nhà, căm nỗi câu ly hận,
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hoà!
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười, hết nói nỗi quan ta!  


   Từ đó, ông thường mượn thi văn để tỏ lòng phẫn uất về cảnh  nước mất nhà tan,chỉ trích những người hợp tác với chính quyền mới,lời lẽ đanh thép và ngạo nghễ.
   Dưới đây là mấy bài thơ tả cái tâm sự kẻ sĩ phu đứng trước quốc nạn:
    
 Cảm hoài

Cõi Nam chung hưởng cuộc thăng bình,
Trời đất gây nên cuộc chiến tranh,
Xe ngựa rộn ràng, xe ngựa khách,
Nước non vun quén, nước non mình.
Những trang dụng thế đành ngơ mặt,
Mấy gã trung quân nỡ phụ tình!
Bao thuở đem về cơ nhất thống?
Ngàn thu bia tạc đứng trung trinh.

Phong trần lắm lúc luống sầu riêng,
Biết mượn tay ai gỡ mối phiền?
Áo mũ ba đời, ơn rất trọng,
Can qua một cuộc, nghĩa chưa tuyền.
Trớ trêu, con tạo lòng đa xảo,
Tráo trở, anh hùng buổi thiếu niên!
Phất phới bụi hồng đà trải dấu,
Tâm tình chiều uốn thú hàn huyên.

Tay nâng, há dám một mình đây?
Kẻ Bắc người Nam bấn dạ nầy.
Thế sự lăng xăng cờ túng nước,
Nhân tình tráo chác gió rung cây.
Giao hoà, bởi sợ mưu mô cạn,
Cắt đất, vì kiêng trí lực dày.
Ướm hỏi những ai trên đất Việt,
Tấm lòng thiết thạch há như vầy?

Tài năng chi đó khéo trêu ngươi!
Cái phận nam nhi luống nực cười:
Ngược đậu, xuôi đi, hiềm thế nước,
Sâu dầm, cạn vén, thuận tình đời,
Quan san dặm thẳng đường liền bước,
Tùng cúc vườn xưa cảnh nhớ người.
Tạo hoá một bầu xoay khí vận,
Đông qua xuân lại trở màu tươi.  


  Tổng đốc Trần Bá Lộc nghe danh ông, nên khi qua Vĩnh Long cho lính đòi ông đến, ý muốn trừng trị thái độ ương ngạnh, Lộc bắt ứng khẩu làm một bài thơ. Ông xin cho đầu bài. Lộc vốn thô lỗ, buông lời tục tĩu:
- Cục  c.. !
 Ông đứng ngâm ngay bốn câu:
    
Đương cơn lộn xộn ló đầu ra,
Người thấy, ai mà chẳng sợ va!
Cậy thế, khom lưng ngồi dưới đít
Biết đâu sắp bị chó liền tha!  


  Thơ tả đúng đầu đề, nhưng mỉa mai bao nhiêu cho cái uy quyền vay mượn của viên tổng đốc mới! Lộc nghe xong mắc cở, đuổi Cử Trị về.

  Cuộc xướng hoạ làm cho ông nổi tiếng nhất thời ấy, là cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường.

Cử Trị cùng các bạn Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt,… đứng về phe bất hợp tác, còn Tôn ở phe hợp tác.

  Tôn sinh năm 1825, cũng ở Gia Định. Thân phụ là Tôn Thọ Đức, nguyên làm tuần vũ Thuận Khánh (Bình Thuận - Khánh Hoà). Năm 30 tuổi, thi hương hỏng, ra Huế, xin tập ấm làm quan văn, bất đồ triều đình lại bổ sang ngành võ, Tôn bất mãn, bỏ về. Đến 1862,triều đình nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông , muốn lấy lòng dân , kêu gọi sự hợp tác của sĩ phu , Tôn vì sinh kế phải hưởng ứng, được Pháp trọng dụng, cho làm tri phủ Tân Bình, dần dần lên đến chức đốc phủ sứ.

  Tôn ra hợp tác, cho mình là thức thời vụ. Thầm mong lôi cuốn bằng hữu vào một đường với mình , hay đâu các bạn từ đó đều quay mặt đi, ai cũng mỉa mai là tên bán nước.

  Tôn bị cô lập, lại bị mạt sát nặng nề, tự thấy hối hận, và bởi trót mắc vào vòng rồi, đành làm 10 bài thơ nhan đề là “Giang sơn ba tỉnh” , bào chữa cho mình, và thanh minh với dư luận.

  Mười bài này phổ biến ra, Cử Trị liền làm mười bài hoạ lại. Dưới đây xin chép từng bài xướng hoạ, để thấy rõ lập trường của hai phái “hợp tác” và “bất hợp tác”.
    
  Bài xướng I ( Tôn Thọ Tường )

Giang san ba tỉnh hãy còn đây,
Trời đất xui chi đến nỗi nầy?
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo,
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.
Xăng văng thầm tính, thương đôi chỗ,
Khấp khởi riêng lo, biết những ngày.
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay!  


   Tường khoa trương lực lượng Pháp: dây thép, tầu biển, khuyên chớ làm như con trẻ chọc vào miệng cọp hàm rồng.
    
  Bài hoạ ( Phan Văn Trị )
   
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây,
Chẳng đã, nên ta mới thế nầy.
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay.
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở,
Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Lòng ta sắt đá há lung lay!  


  Cử Trị tả sự tàn bạo của kẻ xâm lăng “lửa thiêu Bến Nghé, tro bay Cồn Rồng”. Nhưng mặc dầu vậy, ta cũng cứ kiên chí nuôi muông bủa lưới , có ngày  giết thỏ săn nai, ngươi đừng mượn hơi hùm , mà rung cây cho khỉ sợ ...
    
  Bài xướng II ( Tôn Thọ Tường )

Thày lay lại chuốc lấy danh nhơ,
Ai mượn mình lo việc bá vơ?
Trẻ dại, giếng sâu, lòng chẳng nỡ,
Đường xa, ngày tối, tuổi không chờ. (1)
Áo xiêm chán thấy xăng tay thợ,
Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ.
Rủi rủi may may đâu đã chắc?
Miệng lằn lưỡi mối hãy tai ngơ!  


(1) Ngũ Tử Tư người nước Sở, cha anh bị vua Sở giết, chạy sang nước Ngô mưu việc báo thù, có nói : “ Nhật mộ đồ viễn, đảo hành nghịch thi” nghĩa là ngày sắp tối,đường còn xa, phải nên làm việc mau gấp đảo ngược cho chóng thành công.

   Bày trò ra thì mang xấu, lo chuyện bâng quơ làm gì: ta thấy giếng sâu, không nỡ cho trẻ lao mình xuống, và đương xa ngày tối, đi sao cho kịp? Cứ xem các quan ta cố chống trả mà có gỡ được nước cờ đâu, vậy đừng nên nghe xui dại.
    
 Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ!
Người trí mảng lo danh chẳng chói,
Đứa ngu mới sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn trong tay thợ,
Việc đánh hơn thua giống cuộc cờ.
Chưa trả thù nhà đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ!  


  Tôn dụng tâm lung lạc người trí thức, ấy là xấu rồi: kẻ trí phải lo trọn đạo, đứa ngu mới hành động ăn xổi ở thì, bây giờ giảng hoà là ta thua rồi, nhưng đó đã chắc được chưa, chúng ta không thể làm ngơ trước thù nhà nợ nước.
    
  Bài xướng III ( Tôn Thọ Tường )

Tai ngơ mắt lấp buổi tan tành,
Nghĩ việc đời thêm hổ việc mình.
Nghi ngút tro tàn nhà đạo nghĩa,
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh.
Hai bên vai gánh ba giềng nặng,
Trăm tạ chuông treo một sợi mành.
Trâu ngựa dầu kêu, kêu cũng chịu,
Thân còn chẳng kể, kể chi danh!  


  Cũng vì tan tành nên không ngơ được: nền lễ giáo đã mất, ta vẫn phải cứu vãn lại, nhưng việc thật khó khăn; quả chuông trăm tạ đem treo bằng sợi chỉ. Thôi thì bảo ta là trâu ngựa ta cũng chịu, ta ra cộng tác thế này còn nghĩ gì đến thân danh nữa; cốt cứu được nước mà thôi.
    
   Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Tai ngơ sao được lúc tan tành,
Luống biết trách người chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.
Khe sâu vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có, ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.  


    Muốn trách người phải trách mình trước. Đã cộng tác thì đừng nói đến đạo nghĩa, trâm anh, làm gì. Chúng ta đã trót vụng tính để  thuyền nhỏ lọt vào khe sâu, thì phải có gan treo chuông bằng sợi chỉ, ấy là bảo trọng thân đấy.
    
   Bài xướng IV ( Tôn Thọ Tường )

Kể chi danh phận lúc tan hoang,
Biển rộng trời cao nghĩ lại càng ...
Lên núi bắt hùm chưa dễ láo,
Vào sông đánh cá, há rằng oan.(1)
Người giương mắt ngạo đôi tròng bạc,
Kẻ ứa gan trung bảy lá vàng.
Chiu chít thương bầy gà mất mẹ,
Cũng là gắng gỏi, dám khoe khoang!  


(1) Nhập giang nhi viết phi ngư, thuỳ kỳ tín giả: Lội xuống sông mà chối là không phải là đi kiếm cá, ai mà tin được!

  Lúc này kể gì danh phận nữa, nhưng nghĩ vì Pháp bây giờ đương mạnh thế, mà tôi nói rằng lên núi bắt hùm, chưa ắt đã là nói láo, ngặt vì trót lội sông rồi mà bảo là không phải để đi bắt cá, thì chẳng ai tin cho! Các ông
chỉ trích tôi  , thật đau đớn cho tôi: vì tôi thương gà con mất mẹ nên mới
gánh vác việc nước.
    
   Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Thân danh chẳng kể, thiệt thằng hoang!
Đốt sáp nên tro lụy chẳng càn ...(1)
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giáo xáo tan hoang.(2)
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăng văng mới gặp vàng.
Thương kẻ đồng văn nên phải nhắc,
Dễ ta đâu dám tiếng khoe khoang.  


(1) Càn: khô
(2) Vần oan họa vần hoang, theo âm miền Nam.

  Thân danh mà không đếm xỉa đến, thật là vô liêm sỉ. Khá thương cho kẻ đốt sáp thành tro, làm điếm nhục đến gia thanh. Chỉ trông thấy ngọc đã loé mắt, không biết rằng có chịu khổ sở mới thành công . Vì ông cũng là trong mạch thư hương nên mới nói mà thôi.
    
  Bài xướng V ( Tôn Thọ Tường )

Khoe khoang sức giỏi cậy tài khôn,
Múa mép khua môi cũng một phồn. (1)
Tơ vấn cánh ruồi kinh trí nhện,
Gió đưa hơi cọp khiếp oai chồn.
Siêng lo há đợi cơm kề miệng,
Chậm tính nào ngờ nước đến trôn.
Hay dở chuyện đời còn lắm lối,
Múa men xin hãy chớ bôn chôn.  


(1) Phồn: bọn, lũ

  Thôi đừng ba hoa nữa. Sức các ông như cánh ruồi mà định làm cho nhện sợ; như lũ chồn, ngửi thấy hơi cọp là run . Nếu biết lo thì chẳng nên đợi ai đưa cơm kề miệng cho mình; nước đến trôn lúc nào cũng không biết.
    
  Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Khoe khoang việc phải, mới rằng khôn,
Kẻ vạy người ngay há một phồn!
Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ,
Hùm như thất thế dễ thua chồn.
Ngươi Nhan xá ngại dao kề lưỡi,
Họ Khuất nào lo nước đến trôn.
Tháy máy gặp thời ta sẽ động,
Muốn nên việc lớn chớ bôn chôn.  


  Kẻ trái người phải sao lại vơ đũa cả nắm? Chim hồng tuy mất ít lông đâu có sợ chim sẻ, hùm mà thất thế há thua chồn. Nhan Cửu Khanh đời  Đường bị giặc bắt, chửi giặc,giặc đem cắt lưỡi vẫn không hề sợ. Khuất Nguyên can vua Sở, biết vua sẽ ghét mình sẽ nguy, đã quyết nhảy xuống sông Mịch La còn sợ gì nước đến trôn! Hễ cơ hội đến là ta sẽ hành động.
    
  Bài xướng VI ( Tôn Thọ Tường )

Hãy chớ bôn chôn việc cửa nhà,
Sau này còn ngại nỗi đàng xa.
Ma duồng cơn ngặt lung hai trẻ, (1)
Trời mỏn lòng thương xót một già.
Lái đã vững vàng cơn sóng lượn,
Thoi toan đan dệt lúc mưa sa.
Ở đời há dễ quên đời được,
Tính thiệt so hơn cũng gọi là ...  


(1) Hai trẻ: nhị thụ đồng tử - bệnh nặng lắm đã vào đến mạng mỡ.

   Đường xa , còn nhiều trở ngại lắm. Nước ta ví như  người già trời  còn thương, nhưng mà hai trẻ cứ giục chết cho mau . Cơn sóng lựơn nay ta đã cầm lái vững, ta lại lo dệt áo phòng mưa nữa. Phải suy hơn thiệt,chớ đừng mai mỉa, không công bằng.
    
  Bài họa ( Phan Văn Trị )

Bôn chôn cũng bởi bận vì nhà,
Dám trách người xưa chửa tính xa?
Hăm hở hãy đang hăng sức trẻ,
Chìu lòn e cũng mỏn hơi già.
Mồi thơm cá quý câu không nhạy,
Cung yếu chim cao bắn chẳng sa?
Đáy giếng trông trời giương mắt ếch,
Làm người như vậy cũng rằng là ...  


  Đâu dám trách ông nông nổi: ông hăm hở vì tuổi trẻ hăng hái, còn tôi thì không thể nào chịu luồn cúi như ông được. Ông muốn dụ chúng tôi, nhưng mồi thơm không câu được cá quý,cung yếu không bắn được chim cao. Ông không biết ngó xa trông rộng, như thế không xứng đáng là kẻ sĩ.

(Còn tiếp)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà

Giai thoại Phan Văn Trị (1830-1910)
(Tiếp theo)
    
  Bài xướng VII ( Tôn Thọ Tường )

Cũng gọi là người ắt phải lo,
Có hay chịu khó mới nên trò.
Bạc mông mênh biển cầu toan bắc,
Xanh mịt mù trời thước rắp đo.
Nước ngược chống lên thuyền một mái,
Gác cao bó lại sách trăm pho.
Lòng này dầu hỏi mà không hổ,
Lặng xét thầm soi cũng biết cho.  


    Người ta phải thực tế, không nên viễn vông, bắc cầu trên biển, lấy thước đo trời. tiếc thay tình thế ngửa nghiêng mà một mái thuyền toan chống, thôi cái lối ngồi cao xem sách, các ông nên xếp đi thì hơn . Tôi tự xét  không hổ với mình, đã có trời xét soi.
    
  Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Rằng là người trí cũng xa lo,
Nhuần nhã kinh luân mới phải trò.
Ngay vạy nảy ra cho biết mực,
Thấp cao trông thấy há rằng đo.
Xe Châu nào đợi kinh năm bộ,
Níp Tống vừa đầy sách nửa pho.
Chuốc miệng khen người nên cắc cớ :
Đạo trời ghét vạy há soi cho!  


  Đã là người trí, thì phải lo xa, phải xử sự cho đúng đạo thánh hiền. Ai cong ai ngay, ai cao ai thấp, cần gì phải nói. Tôi học cũng nông nổi thôi, nhưng khuyên ông nên ở phải, đạo trời đâu có soi cho kẻ ở cong queo!
    
  Bài xướng VIII ( Tôn Thọ Tường )

Đã biết cho chưa, hỡi những người,
Xin đừng tiếc hận, chớ chê cười!
Ví dầu vật ấy còn roi dấu,
Bao quản thân nầy chịu dễ ngươi.
Trăng giữa ba thu mây cũng tỏ,
Hoa trong chín hạ nắng càng tươi.
Khó lòng mình biết lòng mình khó,
Lòn lỏi công trình kể mấy mươi.  


  Xin đừng chê cười: các ông khinh tôi cũng chẳng ngại, miễn là nước vẫn còn. Rồi ra trăng sáng thì mây mờ; hoa tàn gặp nắng lại tươi,chỉ mình tôi
biết cho tôi có công trình luồn lỏi đã nhiều cũng vì thương nước thương dân.
    
  Bài hoạ ( Phan Văn Trị )

Soi cho cũng biết ấy là người,
Chẳng tiếc thân danh, luống sợ cười;
Ba cõi may dầu in lại cũ,
Đôi tròng trông đã thấy không ngươi.
Ngọc lành nhiều vết coi sao lịch,
Thợ vụng ít màu nhuộm chẳng tươi.
Đứa dại chót đời, già cũng dại,
Lựa là tuổi mới một đôi mươi!  


  Ông kể cũng lạ, chẳng tiếc thân danh lại sợ chê cười! Nếu đất nước thu về được, thì chẳng ai thèm nhìn đến ông, vì ngọc lành đã nhiều vết, thợ nhuộm vụng tay. Thật là già đời còn dại.
    
  Bài xướng IX ( Tôn Thọ Tường )

Kể mấy mươi năm nước lễ văn,
Rắn dài, beo lớn, thế khôn ngăn;
Bốn đời, chung đội ơn nuôi dạy,
Ba tỉnh, riêng lo việc ở ăn.
Hết sức người theo trời chẳng kịp,
Hoài công chim lấp biển không bằng.
Phải sao chịu vậy thôi thì chớ,
Nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng.  


  Tôi cũng bốn đời gia thế, nay một mình phải lo liệu cho đời sống dân ba tỉnh, tiếc rằng việc nước khó gỡ lại. Chim tinh vệ  hoài công tha đá mà lấp biển không bằng, thôi thì tôi nhắm mắt đưa chân, lỗi đạo thì đành chịu.
    
  Bài họa ( Phan Văn Trị )

Một đôi mươi uổng tính xăng văng,
Đất lở ai mà dễ dám ngăn?
Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa,
Xốn xang nào tưởng việc làm ăn.
Thương người vì nước ngồi không vững,
Trách kẻ cầm cân kéo chẳng bằng.
Gió mạnh mới hay cây cỏ cứng,
Dõi theo người trước giữ năm hằng.  


   Đã đành ngăn sao được đất lở, nhưng mà tính quẩn làm gì, lo gì  việc làm ăn, hãy cốt giữ vững lấy đạo nghĩa. Ta những thương kẻ bôn ba lo việc nước và trách kẻ muốn kéo cân lại cho bằng mà chẳng nên. Cây cỏ tuy yếu nhưng có gió to mới biết là cứng; nên ở đúng đạo làm người thì hơn.
    
  Bài xướng X ( Tôn Thọ Tường )

Đạo hằng chi trước thảo cùng ngay,
Lỗi đạo sao cho đáng mặt thầy.
Đất quét đã thành bia lỗ miệng,
Chén tràn e nỗi trở bàn tay.
Nghĩa đen dạy trẻ tranh còn lấp,
Mặt trắng xem trời cánh khó bay.
Chí muốn ngày nào cho được toại?
Giang sơn ba tỉnh hãy còn đây!  


   Ai chẳng biết đạo thảo ngay , song đi với kẻ thắng đã đành là xấu , nhưng để nước tràn ra ngoài chén thì còn cứu vãn sao kịp; đem lời thực bảo cho mà không nghe thì  các ông khó có cánh bay đâu được . Chí muốn  của các  ông bao giờ thành được? Mà đất có mất đâu: giang sơn hãy còn đây mà.
    
   Bài họa ( Phan Văn Trị )

Năm hằng vốn thiệt thảo cùng ngay,
Cuộc ấy ai xui khéo bận thầy.
Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng,
Chờ khi tháy máy sẽ ra tay.
Nổi chìm mặc thế tình dày mỏng,
Cao thấp dầu ta sức nhảy bay.
Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ,
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây.  


  Thật thế, đạo thảo ngay phần người ta giữ, ai khiến ông lo dùm? Chúng ta gặp bước không may thì ngậm miệng chờ thời cuộc xoay vần . Dân tộc lầm than nhiều ít hãy nán lòng đợi, ta có lúc sẽ đem toàn lực tranh cao thấp . Cỏ bị gió thì ngã xuống, nhưng sự hơn thua đã biết chắc là về ai?

  Bạn của Cử Trị là Thủ khoa Nghĩa (Bùi Hữu Nghĩa), thấy Cử Trị hoạ 10 bài của Tôn Thọ Tường, cũng cao hứng làm bài thơ sau đây:
    
Anh hùng sàu tỉnh (1) thiếu chi đây,
Đâu để giang sơn đến thế nầy.
Ngọn lửa Tam Tần (2) phừng đất cháy,
Chòm mây Ngũ Quí (3) lấp trời bay.
Hùm nương non rậm toan chờ thưở,
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm thương dân nước lửa,
Đền Nam trụ cả dễ lung lay!


(1) Sáu tỉnh: 3 tỉnh miền Đông: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường; 3 tỉnh miền Tây: Long Hồ, An Giang, Hà Tiên
(2) Tam Tần: thời kỳ các nước bị áp chế dưới bàn tay sắt Tần Thỉ Hoàng
(3) Ngũ Quí: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu

  Sau cuộc bút chiến hào hứng nói trên , họ Tôn không còn dám khoe  lực  lượng Pháp và coi nhân dân như trẻ nít nữa. Ông dựa vào hoàn cảnh để cãi tội : vì hoàn cảnh mà ông phải quyền biến chứ lúc nào cũng chỉ một lòng cứu nước cứu dân. Ông ngụ tình vào bài thơ sau :
    
  Tôn phu nhân qui Hán ( Tôn Thọ Tường )

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông!
Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc,
Về Hán, trau tria mảnh má hồng.
Son phấn thà cam rây gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông!
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn:
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.  


 Tôn phu nhân đi lấy chồng lúc nào cũng nhớ nhà, như mình theo Tây vẫn không quên nước: bịn rịn chòm mây bạc. Tường cũng như phu nhân thà chịu đau khổ, nhưng không thẹn với non sông, vì đã làm theo nghĩa vụ: Son phấn thà cam rây gió bụi, đá vàng chi để thẹn non sông. Tuy có mất lòng anh (phái bất hợp tác) song được bụng chồng (quốc gia) vì có thể đỡ đần được cho dân khỏi khổ.

  Bài thơ này truyền ra, Cử Trị họa lại trả lời ngay:
    
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,
Một ngả trời chiều biệt cõi Đông.
Khói tỏa trời Ngô chen thức bạc,
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một cánh cương thường nặng núi sông.
Anh hỡi, Tôn Quyền, anh có biết,
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!   


 Đại ý nói ông sắm sửa quần áo theo Tây, mặc kệ cảnh khói lửa lầm than, tìm đến chỗ màu hồng đẹp đẽ, quên rằng cương thường không thể nào bỏ được: trai ngay thờ chúa cũng như gái tiết hạnh phải thờ chồng.

 Sau đó Tôn lại làm một bài ngụ ý nữa, tự ví mình như Từ Thứ bất đắc dĩ phải theo Tào , nhưng không theo thật lòng nên phải ngậm miệng , không giúp Tào một mưu chước nào:
    
  Từ Thứ quy Tào

Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi, (1)
Muối xác lòng ai, nãy mặn mòi.
Ở Hán hãy còn nhiều cột cả,
Về Tào chi sá một cây còi!
Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén,
Bịn rịn trông vua biếng giở roi.
Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy,
Thân này xin gác ngoại vòng thoi!  


(1) Vua Thuấn đi cày, có con voi cảm lòng hiếu thảo của vua, ra giẫm nát đất để cày giúp

  Tự mình đâu có dám bảo mình cũng yêu nước như ai, song nước nhà còn nhiều người xứng đáng (cột cả) thì một người xoàng như mình (cây còi) có theo Tây cũng chẳng đi đến đâu. Tuy theo, nhưng vẫn nhớ nước nhớ vua. Thôi thì chẳng được đua khôn với các ông thì đành về với Tây,nhưng về thì cũng chi xin làm kẻ dại mà thôi, từ nay xin đứng ra ngoài vòng quốc sự.
      
  Cử Trị đáp lời ngay:
    
Quá bị trên đầu nhát búa voi,
Kinh luân đâu nữa để khoe mòi!
Xăng văng ruổi Ngụy mây ùn đám,
Dáo dác xa Lưu, gió thổi còi.
Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi (1)
Thành Tương mến chúa nhẹ tay roi!
Về Tào miệng ngậm như bình kín,
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi?  


(1) Đất Hứa: tỉnh Hứa Xương

   Các ông đã theo Pháp ùn ùn như mây kéo, tránh xa cái nước yếu này rồi. Tuy thỉnh thoảng cũng nhớ nước mà sa lệ,nhưng lúc ra đi sao mà tay roi đét ngựa lẹ đến thế? Ông hứa sẽ ngậm miệng không bầy mưu gì cho Pháp, nhưng lời ông liệu đáng tin đến mực nào?

  Sau đó, Tôn lại nói tâm sự mình trong một bài thơ vịnh Thuý Kiều, cho là mình vẫn không quên tổ quốc, phải ra làm việc với Pháp chỉ vì lòng muốn nâng đỡ cho dân khỏi điêu linh và kết luận rằng mọi việc tại trời xui nên cuộc biến mà mình phải khổ lòng.
    
  Vịnh Thuý Kiều

Mười mấy năm trời nhục rửa xong,
Sông Tiền Đường đục hoá ra trong.
Mảnh duyên bình lãng còn nong nả
Chút phận tang thương lắm ngại ngùng.
Chữ hiếu ít nhiều: trời đất biết,
Gánh tình nặng nhẹ: chị em chung.
Soi gương kim cổ thương mà trách,
Chẳng trách chi Kiều, trách hoá công.  


    Cử Trị lại đứng ra mắng Thuý Kiều, sao không học Đề Oanh  dâng thơ cho vua, lại tham vàng họ Mã, mà phụ nghĩa chàng Kim, rồi đem thân cho thiên hạ mua cười:
    
Tài sắc chi mi, hỡi Thuý Kiều!
Cũng thương mà trách một đôi điều:
Ví dù Viên ngoại oan vu lắm,
Sao chẳng Đề Oanh sớ sách kêu?
Cái nghĩa chàng Kim tình đáng mấy,
Lượng vàng họ Mã đáng bao nhiêu!
Liêu Dương ngàn dặm xa chi đó,
Nỡ để Lâm Tri bướm dập dìu!


  Cuộc bút chiến đến đây chấm dứt , vì từ đây , Tôn “miệng ngậm như bình kín”, mặc cho sự thế xoay vần, miễn sao mình được lên xe xuống ngựa.
 Đại để sự xung kích của hai phe, cũng tương tự như cuộc đấu lý của Phan Đình Phùng với Hoàng Cao Khải sau này. Hai thái độ, hai tâm sự, dù kim cổ, lịch sử âu chỉ là một cuộc tái diễn.

  Tôn Thọ Tường mất năm 1876, thọ 52 tuổi.
  Cử Trị sau về ở Cần Thơ, vẫn theo đuổi việc dạy học và bốc thuốc, mất năm 1910, thọ 81 tuổi. Một thân hữu đi điếu bài thơ:
 
 Một đời oan chịu đã mòn hơi,
 Hà huống oan oan đến chín đời.
 Văn học có thừa thương những kẻ,
 Công danh chẳng toại tiếc cho người.
 Doanh hư tiêu trướng đều nơi mạng,
 Đắc túng cùng thông tượng bỡi trời.
 Uổng đấng tài ba dòng thế phiệt,
 Ra tuồng lưu lạc khắp nơi nơi.

           ----------------------

Viết theo:

1/ GIAI THOẠI LÀNG NHO, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản,  
   Sài Gòn, 1966
2/ THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH TỪ ĐIỂN, Diên Hương, Nxb Tổng hợp
   Đồng Tháp, 1992
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà

Giai thoại Lê Quý Đôn (1726 – 1784)

 Lê Quý Đôn tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, người xã Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Con Trung hiếu công Lê Phú Thứ, thượng thư bộ Hình đời Lê Dụ Tông.
 Từ thuở nhỏ, đã nổi tiếng thông minh lanh lợi, nổi tiếng thần đồng. Mới 14 tuổi đã đọc hết tứ thư, ngũ kinh, sử, truyện, và đọc đến cả bách gia, chư tử ; một ngày có thể làm xong mười bài phú.
 Năm 13 tuổi theo cha lên học ở kinh đô. Mười tám tuổi, thi hương đỗ giải nguyên ; năm 26 tuổi (1752, Cảnh Hưng 13), thi hội đậu đầu, vào thi đình cũng đậu đầu, trúng bảng nhãn. Nước ta, đỗ tam nguyên bảng nhãn duy có ông về đời Lê, và sau này, triều Nguyễn, có Vũ Phạm Hàm.
 Đầu tiên bổ Hàn Lâm Viện thị thư (Cảnh Hưng 14 – 1753). Đi sứ Tàu năm Cảnh Hưng 21 (1760). Cảnh Hưng 30 và 31 (1769 – 1770); dự việc đánh đồ đảng Lê Duy Mật ở Thanh Nghệ. Cảnh Hưng 36 (1775), làm Tổng tài Quốc Sử Quán coi việc tục biên quốc sử cùng Nguyễn Hoàn. Tiếp đó, vào Thuận Hoá, giữ chức Tham thị, cùng Bùi Thế Đạt, chống Tây Sơn. Sau, làm đến Công Bộ thượng thư.
Năm Giáp Thìn (1784) tạ thế, thọ 59 tuổi.

 Lê Quý Đôn là một học giả xem nhiều, biết rộng, để lại những công trình rất uẩn súc:
1/ Quốc âm: bài kinh nghĩa "Về nhà chồng phải răn, chớ trái lời chồng", bài văn sách "Lấy chồng cho đáng tấm chồng", …
2/ Hán văn: Đại Việt thông sử, Vân đài loại ngữ (chia loại các lời nói), Toàn Việt thi lục (sưu tập các thi gia từ đời Lý đến Hậu Lê), Hoàng Việt văn hải (sưu tập văn hay), Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục.
 Lê Quý Đôn thông minh tột đỉnh mà cũng rất kiêu ngạo. Có mấy giai thoại văn chương liên quan đến hai cá tính đó của ông.

1/ Ba sông, bốn mắt:
 Tương truyền năm mới lên 7 tuổi, một hôm có người bạn của cha đến chơi, thấy chú bé thông minh đĩnh ngộ, hỏi đâu nói được đấy thì rất lấy làm kinh ngạc. Nhân muốn thử thêm tài của Đôn, ông khách trỏ vào con sông chảy quanh sau vườn nhà, ở chỗ đó sông tự chia ra làm ba nhánh, bèn tức cảnh ra một vế đối: “Tam xuyên” (ba con sông). Vế đối này bề ngoài có vẻ khá đơn giản, nhưng kỳ thực rất “hóc búa”, vì 2 chữ “Tam xuyên”,  三 川, chữ nào cũng chỉ có 3 nét, hơn nữa chữ “xuyên” lại là chữ “tam” quay một phần tư vòng tròn (ngược chiều kim đồng hồ) mà thôi.
 Chú bé 7 tuổi hiểu ngay cái lắt léo của vế đối, nhất thiết không chịu mắc lừa vì vẻ dễ dàng của nó. Đôn nhìn quanh để tìm ý. Chợt trông lên mặt ông khách, thấy ông ta đang đeo mục kỉnh, Đôn mừng quá, bèn tức cảnh đối lại ngay là “Tứ mục” (bốn mắt).
 Vế đối lại này hết sức tài tình ở chỗ Đôn  đã tìm ra 2 chữ cũng rất giản dị, “Tứ mục”, 四 目, mỗi chữ chỉ có 4 nét, nhất là chữ “mục” cũng chính là chữ “tứ” quay một phần tư vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ mà thành. Vế đối tức cảnh lại còn nêu lên được một đặc điểm của ông khách già là đeo kính. Khách thán phục đứng dậy nắm lấy hai vai của chú bé mà nói: “Tài học của chú rồi sẽ dọc ngang một đời!”

2/ Thơ tự răn mình :
 Tương truyền Lê Quý Đôn lúc nhỏ tuy rất thông minh nhưng tính khí rất ngỗ ngược, vì thế đã làm cha mẹ ông phải nhiều phen bực dọc.
Hồi tám chín tuổi, một hôm cởi truồng đi tắm. Tình cờ giữa đường gặp quan thượng hỏi thăm vào nhà cha mình là Trung hiếu công Lê Phú Thứ, ông liền đứng dạng hai chân ra và bảo quan thượng rằng: "Đố ông biết chữ gì đây? Nếu ông biết thì tôi sẽ đưa ông đi!" Ông khách thấy đứa trẻ hỗn xược, giận tím mặt không thèm nói gì cả. Đôn liền cười vang mà nói rằng: "Chữ thái, thế mà cũng không biết!"
(Chữ thái 太 trông giống người đứng dạng hai chân)
  Thấy đứa trẻ quá ngỗ ngược, ông quan ngạc nhiên lắm, sau hỏi ra mới biết là con Trung hiếu công. Lúc vào chơi nhà, ông thượng đem chuyện ấy ra phàn nàn.
Trung hiếu công bèn gọi Lê Quý Đôn lên mắng rằng: "Mày là thằng rắn mày rắn
mặt, phải vịnh một bài thơ tự trách mình, nếu không làm được thì ta đánh đòn! "
Đôn đọc ngay tám câu Đường luật:

 Chẳng phải liu điu, vẫn giống nhà.
 Rắn đầu biếng học, lẽ không tha!
 Thẹn đèn hổ lửa, đau lòng mẹ,
 Nay thét mai gầm, rát cổ cha.
 Ráo mép chỉ quen tuồng dối trá.
 Lằn lưng, đành chịu vọt năm ba.
 Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học, (1)
 Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!


(1/ Trâu: nước thầy Mạnh Tử. Lỗ: nước đức Khổng Tử. Cầu này có ý nói, từ nay sẽ chăm học theo đạo Khổng Mạnh

 Bài thơ vừa ra giọng tự trách mình, vừa có ý nêu tên một số rắn (liu điu, rắn, hổ lửa, mai gầm, ráo, thằn lằn, trâu, lỗ, hổ mang), vậy mà đọc vần không thấy gượng gạo chút nào. Ông thượng thấy Đôn mới tí tuổi mà đã tài như thế, bao nhiêu tức bực đều tiêu tan hết, tấm tắc khen mãi không thôi.

3/ “Nghi nhất tự lai vấn” :

Vốn có tính kiêu ngạo, tự cho mình là thông suốt thiên kinh vạn quyển, nên khi đỗ bảng nhãn rồi, ông sai treo ngoài cửa một tấm bảng:
天下疑一字來問
“Thiên hạ nghi nhất tự, lai vấn”  
(Ai có chữ gì không biết, hãy cứ đến mà hỏi).
 Bấy giờ gặp lúc thân phụ là Lê Phú Thứ vừa mất, trong nhà đang rộn rịp sửa soạn tang lễ, bỗng một ông già chống gậy tìm vào, Lê Quý Đôn nhìn không phải khách quen, bèn hỏi lai lịch. Ông già nói:
- Cháu còn nhỏ không biết, lão là bạn học với cụ nghè, nhưng vì nhà nghèo đường xa, tuổi già, nên ít đi lại. Hôm nay nghe tin cụ mất, lão mới đến để gửi câu đối viếng. Cháu đem giấy bút ra, lão đọc để cháu viết hộ, vì lão tay run không viết được.
 Lê Quý Đôn vâng lời, cầm bút đợi viết. Ông già đọc:
- Chi.
 Lê Quý Đôn không biết là chữ Chi nào, nên dùng dằng đợi xem chữ sau là gì đã, sẽ tuỳ theo nghĩa mà viết cho đúng chữ nào. Ông già lại đọc tiếp:
- Chi.
Lê Quý Đôn thưa:
- Bẩm, Chi nào ạ?
 Ông già thở dài thườn thượt nói:
- Trời ơi, cháu đỗ đến bảng nhãn mà chữ Chi không biết viết ư? Thế có ai xem bảng treo ngoài kia mà vào hỏi chữ "Chi" thì cháu trả lời ra sao?
 Lê Quý Đôn giận xám cả mặt. Lúc đó ông già mới đọc luôn hai vế:

 Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kim thượng tại;
 Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa lưu thuỷ tử hà chi?

 Dịch nghĩa:
Cách hơn ba chục năm, xích huyện, hồng châu nay vẫn đó;
Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa, lưu thuỷ bác về đâu?
Thấy câu đối lạ tai, Lê Quý Đôn và cử toạ đều giật mình. Đọc xong, ông già lại phủ phục trước linh sàng cụ nghè mà khóc:
- Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu, con anh đỗ đến bảng nhãn mà chữ “Chi” không biết, anh ơi ...
Rồi ông già chống gậy ra về, mời thế nào cũng không ở lại.
Dụng tâm của ông già là làm cho Lê Quý Đôn phải gỡ tấm bảng ngạo nghễ kia đi.
Cũng có thuyết cho là một dật sự của Cao Bá Quát. Song thân phụ họ Cao là một ông đồ, có lẽ không có dịp đi những “xích huyện hồng châu”. Vả lại có đỗ đến bảng nhãn cao nhất nước, mới dám treo bảng, chứ như Cao Bá Quát chỉ đỗ á khoa thi hương, ắt không dám nghênh ngang thế.
 Họ Cao có một câu tuy không kém nghênh ngang nhưng chỉ là lời nói đùa: “ Có bốn bồ chữ, thì tôi hai bồ, anh tôi một, còn một mới đem chia cho cả thiên hạ!”.
Dù sao trong thoại này, tên người chủ động không quan hệ bằng bài học mà người sau có thể rút được về cái thói tự kiêu, tự mãn.

4/ Lê Quý Đôn và nhà sư :
 Sau bài học này, Lê Quý Đôn lại nhận được một lần nữa nơi một nhà sư trụ trì ở chùa làng và chú tiểu.
  Nhân việc ma chay trên kia, Lê  phải lui tới trên chùa làng để làm lễ cầu siêu. Một hôm Lê vừa bước vào phương trượng thì nhà sư reo mừng:
- A, quan bảng nhãn tới đây rồi. May quá, bần tăng đang có điều muốn nhờ quan lớn chỉ giáo. Số là chú tiểu của bản tự mới gặp một người ra câu đố mà chú không giải được, bần tăng cũng chịu nốt, bây giờ phải nhờ đến quan bảng mới xong: "nghi nhất tự lai vấn" mà! Câu đố như thế này:

 Hạ bất khả hạ,
 Thượng bất khả thượng.
 Chỉ nghi tại hạ,
 Bất khả tại thượng.
 
- Dưới không thể dưới, trên không thể trên, đúng nên ở dưới, không thể ở trên.
“Họ đố là chữ gì, chắc chỉ quan bảng là giảng được thôi!”
 Lê Quý Đôn ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu, chưa giải đáp được thì chú tiểu ở ngoài chạy vào:
- Bẩm quan bảng, ngài đã nghĩ ra chưa?
- Chưa chú ạ! Khó quá!
- Thế mà cháu vừa tìm ra rồi đấy!
- Thế thì chịu chú, nào chú giảng thử coi!
- Thưa đó là chữ nhất. Hạ bất khả hạ: trong chữ hạ 下 thì chữ nhất ở trên chứ không thể ở dưới; thượng bất khả thượng: trong chữ thượng 上 thì chữ nhất ở dưới chứ không thể ở trên; Chỉ nghi tại hạ: trong chữ chỉ 止 và chữ nghi 宜 thì chữ nhất nằm dưới; Bất khả tại thượng : trong chữ bất 不 và chữ khả 可 thì chữ nhất nằm trên. Dễ quá, quan bảng nhỉ!
 Lê Quý Đôn biết mình bị lỡm vì cái bảng “Nghi nhất tự lai vấn” trong đó họ lấy ngay chữ nhất mà nhạo mình, nhưng không có cách gì đối phó lại được, đành nói vài câu chữa thẹn rồi cáo lui.
 Từ đó, tấm bảng kia không còn treo ở cửa nữa.
                                 ---------------------

Viết theo:

1/ Giai thoại làng nho, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản,
   Sài Gòn, 1966
2/ Giai thoại văn chương Việt Nam, Hoàng Ngọc Phách và Kiều   
   Thu Hoạch sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, Hà Nội 1988
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà

Giai thoại Hồ Tông Thốc



 Hồ Tông Thốc người làng Thổ Thành phủ Diễn Châu, (nay thuộc huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An), không rõ năm sinh năm mất, sống thời vua Trần Nghệ tông. Thưở nhỏ đã thơ hay, nhưng chưa được nổi tiếng lắm, gặp tết Nguyên tiêu, có đạo nhân là Lê Pháp Quan treo đèn đặt tiệc, mời khách văn chương đến dự làm vui. Thốc nhận thiếp xin đề thơ, làm xong trăm bài thơ ngay trên bữa tiệc. Mọi người xúm lại xem, rất thán phục. Từ đấy tiếng dậy kinh sư, vì giỏi văn học nên được người đương thời kính trọng, mà thơ rượu thì không ngày nào không có.
 Ông đậu Trạng nguyên năm 1372 (đời Trần Nghệ tông), giữ chức Hàn lâm viện học sĩ. Ông có soạn tập thơ Thảo nhàn hiệu tần thi tập và đã có lần đi sứ Trung quốc. Có mấy giai thoại liên quan đến lần đi sứ đó.

1/ Đọc thơ chê Hạng Võ:
 Tương truyền, một hôm thuyền của sứ bộ nước ta đi trên sông Ô giang, đến chỗ có miếu thờ Hạng Võ dựng ở trên bờ; người ta đồn miếu đó rất thiêng, hễ thuyền bè qua lại trên sông mà không ghé vào lễ bái thì sẽ bị đắm.
Tuy có biết chuyện đó, nhưng khi qua miếu, Hồ Tông Thốc vẫn không cho thuyền ghé vào để đốt vàng. Quả nhiên, ngay lúc đó sóng gió bỗng nổi lên ầm ầm, chiếc thuyền tròng trành chỉ chực đắm. Hố Tông Thốc chẳng hề nao núng, ung dung ra đầu thuyền ngâm một bài thơ:

 Quân bất quân hề, thần bất thần,
 Như hà miếu mạo tại giang tân?
 Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu,
 Hà tích thiên tiền bách vạn cân.

Dịch:

 Vua chẳng vua, mà tôi chẳng tôi,
 Bên sông miếu mạo để thờ ai?
 Giang Đông ngày trước còn chê nhỏ,
 Tiền giấy nay sao lại vật nài?


 Hồ Tông Thốc đọc xong, tự nhiên gió lặng sóng im, và người ta nói miếu từ đó mất thiêng, thuyền bè qua lại không phải đốt vàng thắp hương nữa.
 (Có thuyết nói thoại nầy của Mạc Đĩnh Chi)

2/ Chữa thơ Vương Bột :
 Vương Bột (650-675) là một nhà thơ nổi tiếng thời Sơ Đường. Năm ngoài 20 tuổi, nhân dịp dự tiệc mừng tết Trùng dương (mùng chín tháng chín) ở Đằng vương các, ông có làm bài thơ và lời tựa về Đằng vương các rất nổi tiếng. Sau đó
trên đường sang Giao Chỉ thăm thân phụ, ông bị đắm thuyền và chết đuối trên sông Chương giang.
  Tục truyền, vì Vương Bột chết trẻ nên rất thiêng, từ đó ở khúc sông này, cứ vào khoảng đêm khuya canh vắng, người ta thường nghe văng vẳng tiếng ngâm hai câu thơ tả cảnh đặc sắc trong bài "Đằng vương các tự":

 Lạc hà dữ cô lộ tề phi,
 Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.


Nghĩa là:
 Ráng chiều với con cò lẻ loi cùng bay,
 Nước thu cùng trời xanh một màu.

  Hồ Tông Thốc trong dịp đi sứ Trung quốc, một buổi chiều tà, nhân chèo thuyền dạo chơi trên khúc sông Chương giang nơi Vương Bột chết đuối, được nhân dân địa phương kể cho nghe câu chuyện nói trên, Hồ Tông Thốc nghe xong, bèn ra đứng ở mũi thuyền nói to lên rằng:

 Hà tất dữ, cộng nhị tự?

 Nghĩa là:
 Cần gì phải dùng hai chữ dữ, cộng (với, cùng)?
 Mọi người hỏi tại sao ông lại bảo như vậy thì Hồ Tông Thốc giải thích rằng:
- Hai câu tuy hay, song thừa hai chữ dữcộng, vì đã nói "tề phi"
(cùng bay) thì mặc nhiên là có ý dữ (với) trong đó rồi; đã nói "nhất sắc" (một màu) thì mặc nhiên là có ý cộng trong đó rồi!
  Sau đó ông sửa lại hai câu như sau:

 Lạc hà cô lộ tề phi,
 Thu thuỷ trường thiên nhất sắc.


  Mọi người nghe nói, đều phục ông bắt bẻ có lý, và hai câu của ông tuy về âm hưởng không bằng hai câu của Vương Bột, nhưng về mặt văn tự thì quả có gọn và hàm súc hơn.
 Rôi từ đó, trên khúc sông ấy, người ta không còn nghe tiếng ngâm thơ của oan hồn thi nhân họ Vương nữa.
 (Cũng có thuyết nói thoại này của Mạc Đĩnh Chi)

                                 ---------------------
  Viết theo:

1/ Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993
2/ Giai thoại văn chương Việt Nam, Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, Hà Nội 1988
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà


Giai thoại Cao Bá Quát (1809 – 1855)



  Cao Bá Quát tên chữ là Chu Thần, quê ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh là nhà thơ nổi tiếng ở thời Nguyễn. Đời bấy giờ thường vẫn gọi ông là “thánh Quát”. Bá Đạt và Bá Quát là anh em song sinh, Bá Đạt ra trước làm anh.Vì sinh đôi, sức khoẻ kém, nên hai ông quặt quẹo luôn, nhờ thuốc men săn sóc lắm nên sau 3 tuổi mới chắc là nuôi được. Lớn lên, cả hai đều thông minh đĩnh ngộ, mười hai tuổi đã làm đủ các thể văn. Văn Bá Đạt mực thước, văn Bá Quát hào hùng. Quát có tính ngông cuồng, tự phụ, thường nói:
“Tất cả có bốn bồ chữ thì tôi giữ hai bồ, anh tôi một bồ, còn một bồ mới đem chia cho thiên hạ”.  
 Năm Minh Mạng XII, khoa Tân mão (1831) Quát đỗ cử nhân thứ hai trường Hà Nội, sau bộ Lễ xét lại, đánh xuống cuối bảng.
 Ông có làm vài chức quan nhỏ, nhưng bản tính ngang tàng, thường tỏ thái độ bất bình đối với chế độ đương thời. Năm 1853, Cao Bá Quát đã trở thành một trong những người lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương chống lại triều đình; khởi nghĩa không thành công, Quát bị tử trận, con cháu đều bị Tự Đức bắt giết hết. Cũng có thuyết nói ông bị bắt giải về kinh và bị hành quyết.
  Tương truyền ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thần đồng, và cũng ngay từ nhỏ đã có những hành động “phản nghịch” táo bạo. Có rất nhiều giai thoại văn chương chung quanh cuộc đời ông.

1/ Thầy Lý bớt đi rồi :

  Nhân ở làng ông có đắp hai con voi chầu ở cửa đình đẹp lắm, nhưng mưa nắng dãi dầu, đôi voi ấy đã bị hư hoại.
  Làng bèn bỏ tiền và giao cho lý trưởng trông nom việc đắp lại hai con voi khác. Khi voi đắp xong, một hôm ông ra đình chơi, thấy voi đắp đủ cả đầu,cả đuôi, cả tai, cả vòi, mà chỉ riêng cái “kia” thì không có, ông liền nảy ý, nhặt gạch non đề ngay lên bức tường đình một bài thơ nôm như sau:

Khen ai khéo khéo đắp đôi voi,
Đủ cả đầu đuôi đủ cả vòi.
Chỉ có cái kia sao chẳng thấy?
Hay là thầy lý bớt đi rồi!

 
  Lý trưởng ra đình đọc thơ tức lắm, nhưng không biết ông cử ông tú nào đã nói móc mình như vậy. Sau có mấy đứa trẻ mách lẻo, hắn mới biết là của Cao Bá Quát. Không ngờ một thằng nhãi còn để chỏm mà đã ngỗ ngược đến thế, hắn đùng đùng vào nhà lôi ông ra để trị tội.
  Nhưng khi giáp mặt thì Quát lại cãi bướng rằng:
- Tôi thấy voi không có cái ấy, vả lại nghe phương ngôn có câu rằng: "Chưa làm xã đã học ăn bớt", nên tôi vịnh bài thơ ấy chơi. Vậy chứ ông có ăn bớt đâu mà ông phải kệnh lòng!
  Thế là lý trưởng đành cứng lưỡi, tưng hửng bỏ về không dám hạch sách gì nữa.

2/ Ở truồng xem vua:

  Một hôm Cao Bá Quát từ Bắc Ninh sang chơi Hà Nội. Bấy giờ Quát mới còn là một cậu học trò để chỏm, Quát thấy Hà thành có vẻ rộn rịp khác thường, hỏi ra mới biết là vua Minh Mệnh ngự giá Bắc thành, sắp đi thăm Hồ Tây và các thắng cảnh khác ở Thăng Long. Chờ đúng giờ “đạo ngự” đi đến Hồ Tây, thì Quát cởi truồng ra, giả vờ xăm xăm nhảy xuống hồ để tắm. Quan quân thấy vậy hoảng hốt, thét bắt trói lại. Càng bị trói, Quát càng gào to và giẫy giụa vùng chạy, gây một cảnh ồn ào hỗn độn bên bờ hồ. Vừa lúc đó, kiệu vua đi qua. Minh Mệnh nghe nói liền nảy ra một ý: Nhân dưới hồ nước trong, có nhiều đàn cá lội tung tăng đuổi bắt nhau, Minh Mệnh ra một vế đối:

Nước trong leo lẻo, cá đớp cá
 
 Và hứa với Quát đối được sẽ tha. Quát không cần nghĩ ngợi, liền tức cảnh việc mình bị trói, đối lại:

Trời nắng chang chang, người trói người!
 
 Minh Mệnh cả kinh và tức uất người lên, nhưng vì không muốn mang tiếng với người Bắc Hà trong dịp đầu tiên vua ra thăm đất Bắc, nên đành truyền lệnh cởi trói tha cho Cao Bá Quát.

3/ Khí phách ngang tàng:

  Một hôm Cao Bá Quát sang Hà thành chơi. Khi ngang qua nhà quan đốc học thấy bình văn liền đứng lại nghe. Câu nào được thì chẳng nói gì, hễ câu nào nghe dở lại chun mũi, lắc đầu, khạc nhổ tứ tung. Lính coi cửa thấy thế liền bắt vào trình quan. Quan cho là Quát khinh mình dốt, nổi giận đùng đùng, đập nghiên son xuống sập bắn tung toé, thét hỏi Quát.
 Quát xưng là học trò, thấy bình văn thì đứng lại nghe chứ không làm gì nên tội cả. Viên quan hỏi học ai, thì Quát nói: “Học ông Trình ông Chu” (1).
 Nghe anh học trò oắt con mà nói năng càn rở ngông ngạo, viên đốc học cả giận bảo:
-Sách có chữ “Tiên học lễ, hậu học văn”  (trước học lễ phép rồi sau mới học văn chương). Nhà ngươi là học trò hẳn cũng biết điều đó, vậy mà lại còn có hành vi vô lễ. Bây giờ ta ra cho một vế đối, hễ ngươi đối được thì ta tha, bằng không thì phải đánh đòn. Rồi viên quan đọc rằng:

Nhĩ tiểu sinh hà xứ đáo lai, cảm thuyết Trình, Chu sự nghiệp?
 
 Nghĩa là: Mày là thằng trò oắt ở đâu đến đây, dám nói sự nghiệp ông Trình ông Chu ?
 Quát thấy bị khinh thường thì tính khí ngang tàng bỗng nổi dậy, đối ngay rằng:

Ngã quân tử kiến cơ nhi tác, dục vi Nghiêu, Thuấn quân dân!
 
 Nghĩa là: Ta chính bậc quân tử biết thời mà dấy, muốn làm vua dân đời Nghiêu, đời Thuấn!
 Viên quan nghe Quát đối chọi chan chát, chịu là hay; lại thấy có khí phách lớn lao như vậy nên vội vàng thả cho Quát đi ngay.

(1) Trình Y Xuyên và Chu Hối Am, hai nhà đại nho đời Tống, từng chú thích các kinh truyện. Xưa ta học nho, đều theo các bản kinh truyện do Chu, Trình chú giải.

4/ Cao Bá Quát và Nguyễn Văn Siêu :

  Hồi Nguyễn Văn Siêu chưa đỗ đạt, nhà rất nghèo, thường mở lớp dạy học ở ngay nhà tại Hà Nội.
  Một hôm Cao Bá Quát từ Bắc Ninh sang chơi Hà Nội, đi ngang một nhà nghe có tiếng bình văn, liền bước vào đứng xem. Quát thấy thầy đồ trẻ trạc chừng 24, 25 tuổi đang ngồi trên một cái chõng tre cũ kỹ xiêu vẹo, còn học trò ngồi ở giữa chiếu trải giữa sàn nhà. Quát lúc bấy giờ cũng chỉ mới chừng 16, 17 tuổi, đứng nghe thầy giảng một cách tò mò. Nguyễn Văn Siêu chợt  
nhìn ra trông thấy, liền hỏi vọng:
- Anh kia đi đâu mà thơ thẩn thế?
Quát đáp:
- Tôi là học trò, xin vào học với thầy.
Siêu nói:
- Nếu đã là học trò thì hãy đối thử một vế đối đã nhé!
Rồi Siêu đọc:

Tiên sinh toạ tịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót, két két.
 
(Ông thầy ngồi trên cái chõng xiêu vẹo, nó kêu cót két mỗi khi thầy cựa quậy)
Quát đối ngay:

Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ.
 
( Học trò vào trong sân, đứng thẩn thơ, ngơ ngác nhìn )
 Nguyễn Văn Siêu rất phục, hỏi ra mới biết là Cao Bá Quát người mà Siêu đã nghe đồn học giỏi từ lâu. Từ đó, hai người thường hay đi lại, đàm luận sách vở, thời thế với nhau, không mấy chốc trở thành đôi bạn tri âm mặc dù Siêu hơn Quát những tám, chín tuổi. Về sau, hai người cùng nổi tiếng văn ở kinh.

5/ Khóc mướn kiếm ăn:

 Có một lần Cao Bá Quát đi thăm bạn ở xa. Bạn đi vắng, ông phải trở về, bụng đói mà tiền thì đã hết nhẵn.
 Đang đi lang thang thất thểu, chợt nghe gần đấy có kèn trống đám ma. Quát theo chừng lần tới nơi. Hỏi ra biết là đám tang một ông cụ già nhà khá giả. Quát liền bước vào nhà, thấy quan viên ngồi chật ních trong rạp; ở chính giữa rạp thấy có dăm bảy ông râu dài, ngồi chễm chệ trên chiếu cạp điều, đang ngất ngưởng nói chuyện chữ nghĩa; lại thấy hiếu chủ chắp tay bẩm báo chầu chực, nên Quát đoán là văn thân hào mục, hay cử tú gì đây.
Quát liền tới gần hiếu chủ nói:
- Tôi là khách qua đường, nghe nói cụ nhà phúc đức lắm, nay chẳng may cụ hai năm mươi về chầu Phật, bụng tôi lấy làm cảm động vô cùng. Nên xin được vào phúng cụ vài câu rồi đi.
 Mấy vị ngồi chiếu cạp điều nghe Quát nói thế thì muốn lên mặt đàn anh, vừa rung đùi vuốt râu vừa hất hàm hỏi:
- Thế nhà thầy ở đâu qua đây? Làm nghề gì?
Quát thưa:
- Bẩm các quan, tôi ở làng bên đi dạy học về qua đây!
Các ông lại tranh nhau hỏi:
- Dạy học à? Thế đã thi cử khoa nào chưa?
 Quát đáp:
- Bẩm cũng có theo đòi vài ba khoa, nhưng đều hỏng cả. Về nhà, văn dốt vũ dát nên đành phải đi gõ đầu trẻ!
 Các quan viên lại hỏi luôn:
- Thế nhà thầy định phúng câu đối nôm hay đối chữ đấy?
 Quát trả lời:
- Bẩm có mấy chữ đã dạy trẻ hết mất rồi, giờ chỉ dám xin làm nôm thôi ạ!
 Các ông đàn anh được thể lại lên giọng:
- Ừ, thế thì làm đi rồi các cụ sẽ phủ chính cho!
 Quát bèn hắng dặng rồi ngâm nga rằng:

Thấy xe thiên cổ xịch đưa ra, không thân thích nhẽ đâu mà khóc mướn?
Tưởng sự bách niên đùng nghĩ đến, động can tràng nên nỗi phải thương vay!

 Các quan viên nghe xong đều lè lưỡi thán phục, kéo ngay Quát lên chiếu cạp điều mời cùng đánh chén. Đến sau rượu đã ngà ngà, mấy ông cứ gạn hỏi mãi, Quát đành phải xưng tên thật. Thế là ông nào ông nấy giật mình thon thót, đứng vội dậy chắp tay xin lỗi Quát rối rít.

6/ Văn khóc vợ :

 Năm 24 tuổi, vợ họ Cao mất. Ông làm bài văn khóc vợ như sau:

Ô hô!
Nữ bất hạnh nhi vi tài tử phụ
Nam bất hạnh nhi vi hồng nhan phu.
Nhĩ kim nhị thập hữu nhất, nhất triêu thiên cổ,
Ngã kim nhị thập hữu tứ, tứ hải cửu chu.
Y! Hồng nhan bạc phận, tài tử vô duyên, duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù.


Nghĩa:
( Than ôi!
Gái không may mới làm vợ kẻ tài tử
Trai không may mới làm chồng khách hồng nhan.
Mình nay hai mươi mốt, một sớm thình lình thiên cổ
Ta nay hai mươi bốn, bốn bể trôi nổi chín châu.
Hỡi ôi! Hông nhan bạc phận, tài tử vô duyên, chỉ có mình với ta như vậy ru! )

7/ Một câu đối, hai hoàn cảnh :

 Hồi đó Cao Bá Quát đang nghỉ ở nhà. Nhân dân quanh vùng thường rủ nhau đến xin câu đối về dán nhà, nhất là trong dịp tết.
 Một hôm có hai người láng giềng cùng đến một lúc, chỉ trước sau mấy bước. Người đến trước là một anh làm nghề đóng áo quan. Người đến sau là một chị đang có chửa gần ngày sinh. Cao Bá Quát không phải nghĩ ngợi lâu, cầm bút viết vào rẻo giấy cho anh thợ áo quan:

Thiên thiêm tuế nguyệt, nhân thiêm THỌ,
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn ĐƯỜNG.

 Nghĩa là:
Trời thêm năm tháng, người thêm thọ,
Xuân khắp non sông, phúc chật nhà.
 Cao khéo dùng hai chữ THỌ và ĐƯỜNG để nói đến cái quan tài, vì ngày xưa ta quen gọi cỗ quan tài là cỗ THỌ ĐƯỜNG.
 Anh thợ nghe giảng rõ, vui mừng vái chào đi ra. Đến chị bụng chửa, Cao nhìn chị hóm hỉnh cười, rồi lấy mảnh giấy khác viết ngay:

Thiên thiêm tuế nguyệt, nhân thiêm,
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn.

 Nghĩa là:
Trời thêm năm tháng, người thêm,
Xuân đầy vũ trụ, phúc đầy.
 Như vậy là Cao Bá Quát đã dùng lại câu đối đã nghĩ cho anh thợ áo quan hồi nãy, chỉ có bớt mỗi vế một chữ cuối. Nhưng như thế vẫn nói lên được rất rõ việc chị phụ nữ sắp đẻ (người thêm) và việc hiện tại trước mắt là chị đang có mang. Vì chữ PHÚC là hạnh phúc cũng trùng âm với chữ PHÚC là “bụng” (PHÚC mãn có nghĩa là bụng đầy, bụng to, tức là bụng có chửa).

8/ Thơ làm sau khi đi thi hội :

 Cao Bá Quát đỗ cử nhân năm 1831 tại trường Hà Nội.Vào kinh thi hội, hỏng luôn mấy khoá. Khoá sau cùng, ông lại cố gắng lên đường, nhưng trong lòng đã chán nản, nên khi học trò tiễn đưa, ông có nói mấy lời tạm biệt đượm vẻ bùi ngùi:

Xa xa từ đất cũ
Thăm thẳm lên đường dài.
Ngoài thành trời lạnh lạnh
Lấm tấm hạt sương mai
Học trò tiễn ta đi
Bước theo không nỡ rời.
Nam nhi mà thế ư?
Nước mắt đầm đìa rơi...
Nhớ xưa ta đã từng
Đường xa rong ruổi hoài.
Chuyến này lại lẽo đẽo
Nào đã chắc hơn ai?
Vào đời có văn chương
Thì đem mà góp chơi
Đa tạ các học trò
Quyến luyến tình khôn phai...

   (Bản dịch của Trúc Khê)

  Quả nhiên rồi lại hỏng. Ông nãn chí không muốn thi cử gì nữa, ngày ngày ngao du đây đó, lấy văn chương châm biếm bỡn cợt làm phương thuốc tiêu sầu.

9/ Câu thơ thi xã :

 Năm 1841 đời Thiệu Trị, Cao Bá Quát mới được vào kinh làm hành tẩu bộ Lễ. Tuy giữ chức nhỏ, nhưng vốn tính ngang tàng, ông chỉ trích khắp mọi người, từ kể cả các bậc đại thần cho đến vua.
 Một hôm, có vị thân vương mời ông tới phủ uống rượu. Ông đến, đầu không đội khăn, mình chỉ mặc chiếc áo trắng dài. Thân vương đứng ra khoản đãi; khi rượu đã say, ông viết mấy câu rồi lẳng lặng ra về, chẳng chào ai cả:

Hữu khách thỉnh ẩm tửu,
Bất tri khách thị thuỳ.
Kim tịch thị hà tịch,
Thiên cao minh nguyệt tri.


Lược dịch:

Có khách mời uống rượu,
Nào biết khách là ai.
Đêm nay đêm gì nhỉ,
Trời cao trăng sáng soi!


 Ở kinh bấy giờ, Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương có mở ra Tùng Vân thi xã, tổ chức những cuộc thi thơ để kết nạp các bậc danh sĩ. Biết Quát hay chữ, Tuy Lý Vương thân đến mời Quát tham gia thi xã và đưa tập văn thơ của thi xã cho ông xem. Ông mở đọc qua loa, lấy tay bịt mủi rồi cầm bút đề lên ngoài bìa hai câu:

Ngán cho cái mũi vô duyên,
Câu thơ thi xã: con thuyền Nghệ An!
 

 Thuyền tỉnh Nghệ An thường dùng để chở nước mắm, nên nặng mùi! Vì Tuy Lý Vương biết bản tính ngang tàng của ông nên cũng không lấy làm giận.

  (Còn tiếp)
                                 ---------------------

Viết theo:

1/ Giai thoại làng nho, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản,
Sài Gòn, 1966
2/ Giai thoại văn chương Việt Nam, Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, Hà Nội 1988
3/ Việt Nam ca trù biên khảo, Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Nxb TP HCM tái bản, 1990
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà


Giai thoại Cao Bá Quát (1809 – 1855)


 
 (Tiếp theo)

10/ Một bọc sinh đôi :

  Khi Tự Đức lên ngôi (1848) thì Cao Bá Quát vẫn còn phải làm một chức quan nhỏ (hành tẩu) ở bộ. Tự Đức nghe tiếng hai anh em họ Cao đã lâu, một hôm bèn cho triệu Cao vào điện để xem mặt và hỏi thử tài học.
Vua ra đùa một vế đối rằng:

Nhất bào song sinh, nan vi huynh nan vi đệ.
 
 Nghĩa là: một bọc sinh đôi, khó làm anh, khó làm em ( ý chỉ hai ông Đạt và Quát sinh một lần, khó biết ai là anh ai là em)
Quát liền đối lại một cách rất khéo léo:

Thiên tải nhất ngộ, hữu thị quân hữu thị thần.
 
  Nghĩa là: nghìn năm gặp một, có vua ấy có tôi ấy.Ý Cao Bá Quát muốn nói có ông vua tài giỏi (như Tự Đức), thì mới có người bề tôi tài giỏi (như Cao Bá Quát).
  Tự Đức rất hài lòng về vế đối này. Tuy nhiên, nhà vua đã không lường hết được chỗ thâm thuý của vế đối, vì câu này cũng còn có thể hiểu theo nghĩa khác: Có ông vua như Tự Đức thì cũng có người bề tôi như Cao Bá Quát để đối chọi lại (theo ý “vỏ quýt dày, móng tay nhọn”). Và đó cũng chính là cái ý lắt léo của họ Cao.

11/ Thần Siêu, thánh Quát :

 Khi ấy, ở sau điện Cần Chánh mới đắp một hòn non bộ để trong bể cạn. Vua
sai Nguyễn Văn Siêu đề câu đối. Siêu nghĩ mà chưa biết đề thế nào cho hay, nhân dịp Quát đến chơi, mới ngõ ý ấy. Quát đề ngay:

Sơn nhược hữu thần hô Hán tuế
Hải như sinh thánh thiếp Chu ba.

Nghĩa:
Núi nếu có thần thì hô chúc tuổi vua Hán (Hán Vũ đế)
Biển như sinh thánh nhân thì làm im lặng sóng gió nhà Chu
 Cả triều đình đều phục là hay.

 Một lần khác, vào năm Tự Đức thứ 4 (1851), vua nhà Thanh mất, sứ Tàu sang báo tang. Vua truyền các quan viết câu đối viếng vua Thanh. Đình thần
biết Cao Bá Quát chữ tốt nên triệu ông vào viết câu đối. Quát đã biết trước,
khi vào thấy bút mực và vóc để sẳn trên kỷ, liền viết:

Át mật bát âm Đường bạc hải
Bi hào vạn lý Tống thâm sơn.

Nghĩa:
- Im bặt bát âm khắp biển nhà Đường ( khi vua Đường Nghiêu mất, bốn biển im tiếng âm nhạc ba năm để tang vua như tang cha mẹ).
- Kêu gào muôn dặm núi sâu nhà Tống (khi vua Tống Nhân Tông mất, khắp thâm sơn cùng cốc muôn dặm đều gào khóc)

 Các quan thấy ông không hỏi gì mà dám viết, lấy làm quái lạ, xúm lại xem,
đều phục là thiên tài. Câu đối dâng lên vua Tự Đức cho là được.

 Cả Siêu và Quát đều tài hoa mẫn tiệp, xuất khẩu thành chương, áp đảo được
mọi người nên đời bấy giờ vẫn truyền tụng là Thần Siêu, thánh Quát. Bấy giờ người đời cũng khen ngợi hai ông:

Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán
Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường.

Nghĩa:
Văn như ông Siêu ông Quát thì nhà Tiền Hán không đáng kể nữa
Thơ đến Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương thì đời Thịnh Đường còn kém.

12/ Bịa thơ tài hơn vua :

 Tự Đức vốn là ông vua sính thơ và hay khoe thơ mình. Nghĩ được câu thơ, bài thơ nào thường vẫn đem đọc cho quần thần nghe và lấy làm tự đắc lắm. Một hôm sau buổi chầu, Tự Đức nói với các quan:
- Đêm qua trẫm nằm mơ làm được hai câu thơ thật kỳ lạ, để trẫm đọc cho các khanh nghe !
 Rồi đọc luôn:

Viên trung oanh chuyển “khề khà” ngữ,
Dã ngoại đào hoa “lấm tấm” khai.

  Các quan nghe xong đều lấy làm lạ vì chưa hề được nghe lối thơ vừa chữ vừa nôm ấy bao giờ, nhất là những chữ “khề khà”, “lấm tấm” nghe thật thú vị. Còn Cao Bá Quát lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, thì vẫn thản nhiên mà tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, tưởng gì chứ hai câu ấy thì từ hồi còn để chỏm đi học, thần đã được nghe rồi ạ! Thần được nghe cả bài tám câu kia, nếu bệ hạ cho phép, thần xin đọc lại tất cả.
 Tự Đức đang hí hửng về mấy câu thơ dở chữ dở nôm rất độc đáo của mình, không dè lại bị Quát giội cho một gáo nước lạnh thì tức lắm, vì rõ ràng hai câu thơ đó chính ông ta nghĩ ra. Tuy nhiên, ông ta vẫn cố trấn tĩnh bảo Quát đọc cho nghe cả bài thơ, với thâm ý nếu không đọc được thì sẽ trị cái tội khi quân cho hả giận.
 Còn đình thần cũng bực tức là Quát dám cả gan xúc phạm đến vua, và họ đang chờ một trận lôi đình; ông nọ lấm lét nhìn ông kia, không khí triều đình trở nên căng thẳng, nặng nề khác thường.
 Quát bình thản suy nghĩ một lát như để nhớ lại một bài thơ lâu ngày không nhìn đến, rồi cất giọng sang sảng ngâm rằng:

Bảo mã tây phương "huếch hoác" lai,
"Huênh hoang" nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển "khề khà" ngữ,
Dã ngoại đào hoa "lấm tấm" khai.
Xuân nhật bất văn sương "lộp bộp",
Thu thiên chỉ kiến vũ "bài nhài".
"Khù khờ" thi cú đa nhân thức,
"Khệnh khạng" tương lai vấn tú tài.


Nghĩa là:
Ngựa báu từ phương tây huếch hoác lại
Người huênh hoang nhờ cậy dìu về
Trong vườn oanh hót giọng khề khà
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm
Ngày xuân chẳng nghe tiếng sương rơi lộp bộp
Tiết thu chỉ thấy mưa bài nhài
Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết
Lại còn khệnh khạng mang đến hỏi bậc tú tài!

 Bài thơ vừa đọc dứt, cả đình thần hoang mang nhìn nhau, còn Tự Đức thì biết đích là Cao Bá Quát chơi xỏ mình, nhất là 2 câu cuối, nhưng cũng rất sửng sốt và hết sức thán phục. Vua sai lấy chè và quế ban cho Quát và bắt Quát phải thú thật là đã bịa thêm sáu câu.

13/ Tự tiện chữa văn của vua :
  
 Vua Tự Đức có làm hai câu đối để ở điện Cần Chánh như sau:

子能承父業
臣可報君恩

Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân


 Nghĩa là:
Con nối được nghiệp bố,
Tôi đền được ơn vua.
 Các đình thần từ lâu vẫn phục hai câu này là hay, cho rằng nói lên được hai giường mối lớn trong đạo tam cương...
 Một hôm, Cao Bá Quát có dịp vào điện Cần Chánh, thấy đôi câu đối như vậy thì bỗng nảy ra một ý tinh nghịch, lấy bút ngoáy ngay vào bên cạnh mấy chữ rằng: “Hảo hề! Hảo hề! Phụ tử, quân thần điên đảo” (Hay chưa! hay chưa! cha con, vua tôi đảo lộn).
 Việc đó được tâu lên vua. Tự Đức giận lắm,cho đòi Quát đến để hỏi tội. Quát thản nhiên đáp lại:
- Tâu bệ hạ, thần thường nghe nói đạo vua tôi phải ở trên đạo cha con; vả từ ngàn xưa bao giờ cũng vẫn vua trước mà tôi sau, cha trước mà con sau. Nay bệ hạ để như vậy chẳng phải là đã làm đảo lộn hết cả rồi sao?
 Tự Đức nghe biện bạch cũng thấy xuôi tai, bèn bảo Quát thử chữa lại xem thế nào. Bấy giờ Quát mới chữa ngoặc lại như sau:
君恩臣可報
父業子能承


Quân ân, thần khả báo
Phụ nghiệp, tử năng thừa.

  Nghĩa là:
Ơn vua, tôi phải báo,
Nghiệp bố, con phải theo.
 Tự Đức và các quan lúc ấy đều phải chịu là câu của Quát quả sắc sảo và chắc tay hơn; không ai còn có thể bắt bẻ vào đâu được nữa!
  Nhưng rồi cũng từ đó, Tự Đức càng tỏ ra ghét Quát hơn; vì dù sao thì Quát cũng đã làm một việc tối ư vô lễ là dám tự tiện chữa văn của nhà vua.

14 Trên chó, dưới chó:

  Hồi Cao Bá Quát còn đang làm hành tẩu ở Huế, một hôm ở chỗ làm việc của ông bỗng xảy ra một đám đánh nhau. Nguyên nhân là vua Tự Đức sai đại thần Phan Văn Nhã dự thảo bài văn Ngọc điệp. Văn Nhã thảo xong, làm tiệc mời các quan đến uống rượu, đưa bài Ngọc điệp cho mọi người xem, có ý khoe văn mình hay. Viên Nội các Mỗ (không rõ tên họ), vốn cậy có văn tài, xem xong nói: "Văn bác Phan các quan xem thế nào, tôi nghe cứng nhăng
nhắc!".
 Nhân đương sai rượu, hay bên gây chuyện cãi nhau. Viên Nội các nói:
- Văn như thế thì chó cũng làm được!
 Sau đến chửi nhau rồi thì đi tới chỗ “thượng cẳng chân hạ cẳng tay” không còn ra thể thống gì nữa.
  Đến khi phân xử phải trái, Tự Đức thấy Quát là người thấy tận mắt cái cảnh đó liền bắt Quát ra làm nhân chứng. Quát vốn không ưa gì bọn này, muốn nhân dịp xỏ xiên chơi, mới lựa lấy một câu chửi trong dân gian đã được nghe để viết vào tờ khai như sau:

Tiền Quát bất tri,
Hậu Quát bất tri.
Trung gian Quát chí,
 Đãn kiến:
Thượng bàn hô cẩu!
Hạ bàn hô cẩu!
Thượng hạ giai cẩu.
Lưỡng tương đấu ẩu
Thần gián bất đắc.
Thần kiến thế nguy,
Thần hoảng thần tẩu!


Nghĩa là:
Trước Quát không biết,
Sau Quát chẳng hay.
Nửa chừng Quát đến.
Quát thấy thế này:
Bàn trên chửi: “chó”!
Bàn dưới chửi: “chó”!
Trên dưới đều: “chó”!
Rồi choảng nhau luôn,
Thần can chẳng bỏ.
Thần thấy thế nguy,
Thần hoảng thần chuồn!

  Khai xong, Quát dâng lên cho Tự Đức rồi cứ đứng mủm mỉm cười ra vẻ hả hê lắm, vì không dễ mấy khi đã được chửi từ trên xuống dưới một bữa sướng miệng như thế. Còn Tự Đức khi đọc đến câu “Thượng hạ giai cẩu”. (Trên dưới đều: chó) thì cũng biết thừa là Quát có ý xược, nhưng khốn nỗi đó chỉ là lời khai đúng sự thật mà thôi. Cho nên không thể bắt tội Quát vào đâu được.

15/ Thơ làm sau khi đi xuất dương hiệu lực:

  Một khoa thi, được sung vào chân sơ khảo trường Thừa Thiên, ông đã dùng muội đèn pha vào son cho thành mực đen (vì quan trường chỉ được dùng son chứ không được dùng mực đen để phòng sự sửa chữa thêm bớt vào bài) để sửa lại những chỗ phạm huý trong 24 quyển văn hay, thâm ý cốt cho thí sinh khỏi bị đánh hỏng vì lỗi nhỏ, nhưng việc phát giác ra, ông bị cách chức và bị đày vào Đà Nẵng. May tới đây,lại gặp ngay sứ bộ Đào Trí Phú sắp sửa đi Tân Gia Ba, ông nhờ tiếng văn hay chữ tốt được cử đi theo phụ tá.
  Những sự mắt thấy tai nghe ở nước ngoài khiến ông nhận thấy lối học từ chương của sĩ tử ta là lầm, nên đã viết:

Nhai văn nhá chữ buồn ta,
Con giun còn biết đâu là cao sâu!
Tân Gia vừa vượt con tàu (1)
Mới hay vũ trụ một màu bao la.
Giật mình khi ở xó nhà:
Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi!
Không đi khắp bốn phương trời
Vùi đầu án sách uống đời tài trai.

  (Bản dịch của Trúc Khê)

(1) Tân Gia: Tân Gia Ba

 Ở Tân Gia Ba về, ông lại được phục hồi chức hành tẩu bộ Lễ, rồi được thăng chủ sự. Tuy là công bộc nhưng ông vẫn công kích kịch liệt cái học từ chương và những hủ tục. Thơ của ông chuyển theo một hướng mới.

16/ Chết vẫn còn thơ :

 Vua Tự Đức tuy có bụng lân tài, nhưng càng ngày càng ghét tính ngạo nghễ của Cao Bá Quát, lại nhân trong triều mọi người đều không ưa Cao, nên vua đổi ông ra giữ chức giáo thụ phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Bấy giờ, chỗ ấy dân cư thưa thớt, học trò ít ỏi. Ông phẫn uất lộ ra đôi câu đối dán ở trường học:

Nhà giáo ba gian, một thày một cô một chó cái,
Học trò dăm đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi.


 Ở Sơn Tây gặp quan Tổng đốc là Nguyễn Bá Nghi rất hách dịch nên ông
lại càng chán ghét.
 Uất hận về cảnh ngộ, về sự hủ bại của triều đình, quan lại và nỗi lầm than của dân chúng, năm 1854, ông bỏ quan, về ở Bắc Ninh. Bấy giờ các tỉnh Tuyên Quang, Cao Bằng, Thái Nguyên, Lạng Sơn đều có giặc cướp. Nhân có Lê Duy Cự tự xưng là con cháu vua Lê, họ Cao liền ngầm họp đồ đảng, tôn Cự làm minh chủ, rồi hẹn ngày khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa đã đi đúng thời cơ; đê Văn Giang (Hưng Yên) vỡ 18 năm liền, nạn châu chấu phá hại mùa màng, dân gian trăm chiều khổ cực. Và đã nắm được chính nghĩa: khôi phục nhà Lê, đánh đổ một chế độ mục nát. Khi tế cờ ra quân, chính ông viết vào lá cờ hai câu:
平陽蒲版無尧舜
牧野鳴條有武汤

Bình Dương Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục Dã Minh Điều hữu Vũ Thang.

 Nghĩa là:
Đất Bình Dương và Bồ Bản không còn vua Nghiêu vua Thuấn nữa, thì ở Mục
Dã và Minh Điều ắt phải có vua Vũ vua Thang nổi dậy.
 Nghĩa quân đánh phá vùng Sơn Tây, Bắc Ninh, cô lập Thăng Long, định rồi chỉ đánh úp thành này nữa là xong việc lớn.
 Tiếc là cơ mưu bị tiết lộ, tổ chức lại chưa hoàn bị nên chẳng bao lâu tổ chức tan rã; Cao bị bắt giam tại nhà ngục Sơn Tây, rồi bị đóng cũi đưa về Hà Nội, và giải vào Huế. Cao Bá Đạt đương làm tri huyện Nông Cống, vì việc khởi nghĩa này, cũng bị bắt giải về Huế. Dọc đường, cắn đầu ngón tay viết tờ biểu trần tình, rồi tự sát.
  Tới kinh, Quát bị bỏ ngục, chờ ngày hành quyết.
  Nằm trong ngục, Cao Bá Quát không hề sợ sệt, tự nhạo cái mộng đế vương của mình:

Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba vòng xích sắt bước thì vương!

( Ý nói đế và vương đều ở dưới chân ông )
  Trước khi thọ hình, ông cũng còn ứng khẩu ngâm hai câu chửi rủa cuối cùng:

Ba hồi trống giục mồ cha kiếp,
Một nhát gươm đưa đ… mẹ thời !


Thời là thời thế, mà Thời (Thì) cũng lại là tên vua Tự Đức!
                                 ---------------------

Viết theo:

1/ Giai thoại làng nho, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản,
Sài Gòn, 1966
2/ Giai thoại văn chương Việt Nam, Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, Hà Nội 1988
3/ Việt Nam ca trù biên khảo, Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Nxb TP HCM tái bản, 1990
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà

Giai thoại Nguyễn Trọng Cẩn (1900 – 1947)


 Ông sinh năm 1900 tại tỉnh Quảng Bình, bút hiệu Hoài Nam, chuyên học chữ nho trong khi chữ quốc ngữ và chữ Pháp đã phổ biến. Năm Mậu Ngọ(1918) vào kinh đô Huế dự kỳ thi hương cuối cùng nhưng không đỗ, ông ở luôn đó làm nghề viết báo cho mấy tờ báo xuất bản ở Huế như Thần kinh tạp chí, Tràng An báo. Đến năm 1929 hai tờ báo đình bản, ông về quê bốc thuốc và dạy chữ Hán.
 Ông có trí nhớ hơn người, văn viết lưu loát, có khuynh hướng trào phúng, thơ linh động và hồn nhiên chứ không cứng nhắc trong khuôn khổ.
 Dưới đây là hai bài thơ đặc sắc của ông:

1/ Tự thán

Con tạo e khi cũng muốn đùa
Khiến anh hào phải chịu cay chua!
Văn đùa quỷ đói đi không nổi
Rượu đánh ma sầu vẫn cứ thua
Mối nợ đa tình vay chưa trả
Tấm thân vô dụng bán ai mua?
Của riêng còn có kho vô tận :
Tuyết nguyệt phong hoa đủ bốn mùa.



2/  Tự trào

Có bệnh chi mà tớ muốn điên
Chẳng tham quan tước chẳng tham tiền
Trăm khôn, e mắc trăm đường mệt
Một dại, là xong một mối phiền
Rắn rết, gớm ai lòng độc địa
Rồng mây, trối kệ chuyện huyên thiên
Người đời cười tớ là điên thật
Ta lại cười ai giả thánh hiền!


   Có một giai thoại thú vị, đó là bài thơ "Năm cụ" rất được truyền tụng một thời.

 Năm 1932, ở Huế có cuộc cải tổ nội các. Thực dân Pháp muốn dùng Phạm Quỳnh và một nhóm tay sai khác nên truất một loạt 5 ông thượng thư cựu học là: Nguyễn Hữu Bài thượng thư bộ Lại, Tôn Thất Đàn thượng thư bộ Lại, Phạm Liệu thượng thư bộ Hình, Võ Liêm bộ Lễ, Vương Tử Đại bộ Công. Tin này đưa ra làm xôn xao dư luận dân chúng ở kinh đô Huế. Thực dân Pháp muốn xoa dịu, nên bày ra một cuộc thi thơ theo hướng tâng bốc và biết ơn "năm cụ thượng" cũ để năm cụ vui vẻ lui về vườn. Không dự cuộc thi, nhưng Hoài Nam làm bài thơ sau đây:

Năm cụ khi không (1) rớt cái ình!
Đất bằng nổi sóng thảy đều kinh.
BÀI không đeo nữa đem dâng lại, (2)
ĐÀN chẳng ai nghe khéo dở hình. (3)
LIỆU thế khó xong, binh chẳng được, (4)
LIÊM đành giữ tiếng, lễ đừng rinh.     (5)
Công danh, âu hẳn là hưu hĩ, (6)
ĐẠI sự xin nhường đám hậu sinh.


(1) Khi không: không có duyên cớ
(2) Năm cụ đã bị đuổi về thì cái bài vàng đeo ở ngực cũng phải đem trả lại cho
    triều đình. Đây còn ám chỉ BÀI là thượng thư bộ Lại
(3) Các cụ đã về rồi thì nay có đàn bản gì người ta cũng không thèm nghe nữa.
    Ám chỉ ĐÀN là thượng thư bộ Hình
(4) Cái thế của các cụ là phải về, không ai binh vực được. Lại ám chỉ LIỆU là
     thượng thư bộ Binh
(5) Rinh: bê, bưng, thu nhận. Ý nói đã về rồi thì từ nay các cụ phải sống thanh
     liêm, không còn dịp ăn hối lộ như trước, đừng nhận lễ của ai nữa. Lại còn ám
     chỉ LIÊM là thượng thư bộ Lễ
(6) Hai câu chót ám chỉ thêm rằng ĐẠI là thượng thư bộ Công, nay phải về hưu

 Bài thơ được truyền đi rất nhanh, làm cho cuộc thi thơ lừa bịp kia thất bại: nghe xong bài thơ, không còn ai nghĩ đến làm thơ ca tụng "năm cụ" nữa!
                                    ---------------------
 
  Viết theo:

1/ Giai thoại làng nho, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản, Sài Gòn,   
   1966
2/ Giai thoại văn chương Việt Nam, Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch   
   sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, Hà Nội 1988
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà

Giai thoại bà Sương Nguyệt Anh (1863-1920)


 Bà chính tên là Nguyễn Thị Ngọc Khuê, con thứ tư cụ Nguyễn Đình Chiểu, sinh năm Quý Hợi (1863). Vóc người mảnh mai, tư dung thanh nhã, lại nhờ sự chăm sóc dạy dỗ của thân phụ nên sớm trở nên một trang tài sắc lẫy lừng. Song gặp lúc thời thế đảo điên, lòng người tráo trở, bà kén chọn mãi không tìm được nơi xứng ý, nên đến năm thân phụ tạ thế, bà đã 25 tuổi mà vẫn giữ phòng không.
 Gia đình ở Ba Tri. Viên tri phủ sở tại cho người mai mối, bị bà khước từ, đem lòng oán hận, kiếm chuyện làm khó, đến nỗi gia đình bà phải dời đi Cái Nứa, tỉnh Mỹ Tho, rồi lại chạy sang Rạch Miễu, cùng tỉnh, mới thoát được nanh vuốt.
 Ở nơi đây, sau bà kết duyên cùng viên phó tổng Nguyễn Công Tính, sinh hạ được một bé gái thì chồng tạ thế.
 Từ đó, bà sống trong cảnh sương phụ, bà nguyên có tên hiệu là Ngọc Anh, nay bà thêm vào chữ Sương (người ở goá). Bút hiệu Sương Nguyệt Anh nổi lên như cồn trong làng văn tự, vì bà ngâm vịnh rất nhiều, tài học uẩn súc, lời văn lại chau chuốt, nên có nhiều người mộ tiếng mà tới lui thăm hỏi và cũng để buông lời chọc ghẹo. Có những kẻ ở xa cũng tìm cách gửi thơ văn đến để nói chuyện nguyệt hoa.

 Một nhà nho ở làng Vĩnh Kim (Mỹ Tho) là Hồ Bá Xuyên gửi cho bà một bài thơ, ngỏ ý muốn cùng bà chắp nối:

Trời đất ghen chi chữ sắc tài,
Vườn xuân vội úa bảy phần mai!
Gương loan sửng sốt càng ngơ ngác,
Phấn vẽ giồi mài sợ kém phai,
Lặng lẽ duyên hồng tơ tóc vắn,
Vấn vương phận liễu tháng ngày dài.
Bông đào bao thuở thay đôi lứa,
Nỡ để trăng thu xế bóng đoài!


 Song bà đã quyết chí ở vậy nuôi con, nên hoạ lại:

Tài thì không sắc, sắc không tài,
Lá úa nhành khô cũng tiếng mai!
Ngọc ánh chi nài son phấn điểm,
Vàng ròng há sợ sắc màu phai!
Ba giềng trước đã xe tơ vắn,
Bốn đức nay tua nối tiếng dài.
Dẫu khiến duyên này ra đến thế,
Trăng thu dù xế, rạng non đoài!


 Sau đó, một ông phủ tân trào tên Học, cũng gửi mấy câu tâm sự:

Phải gần với Nguyệt lúc lưng vơi,
Đặng hỏi Hằng Nga nỗi sự đời.
Ở hạ mây mưa còn kém sắc,
Về thu non nước tỏ cùng nơi.
Hãy trông Dữu Lượng xây lầu trước, (1)
Hoặc đợi Thanh Liên cất chén vời?   (2)
Vóc ngọc há sờn cơn gió bụi,
Tài tình rõ mặt khá đua bơi.


(1) Dữu Lượng đời Tấn, phong cách hào sảng, khi ở Giang Châu có xây một nhà lầu cao đặt tên là Dữu Lâu, để tiếp tân khách.
(2) Thanh Liên: Lý Thanh Liên tức là thi hào Lý Bạch

 Thấy bài thơ có vẻ thô bạo thiếu đứng đắn, bà tức mình đáp lời bằng hai bài thơ cự tuyệt:

1.
Đường xa vòi vọi, dặm vơi vơi,
Nghĩ nỗi mây xanh ngán sự đời!
Biển ái nguồn ân còn lắm lúc
Mây ngàn hạc nội biết đâu nơi!
Một dây oan trái rồi vay trả,
Mấy cuộc tang thương há đổi dời!
Chước quỷ mưu thần âu những kẻ
Gặp cơn nguy hiểm khó đua bơi!

2.
Hết lúc trăng đầy đến lúc vơi,
Doanh hư trong cuộc phải coi đời.
Ven mây bắn thỏ xa ngàn dặm,
Đáy nước cung thiềm tỏ khắp nơi.
Nội trí đứa gian hiềm vẻ rạng,
Vui lòng người triết thú đua bơi.
Khơi dòng hối thực ưng ra mặt, (3)
Đứng giữa trời xanh tiết chẳng dời!


(3) Hối thực: thơ Hứa Hồn gửi cho người ẩn giả ở Vị Tân “Vị tân hối thực Nam Dương ngoạ” (ăn no bến sông Vị, nằm khểnh đất Nam Dương); ý nói muốn theo lối người đi ẩn dật không muốn ra mặt với thế nhân.

 Cử Học khi nhận được một lúc hai bài, lại thêm giọng thơ cứng cỏi nên biết ngay gặp tay chẳng vừa nên từ đó không còn dám trêu cợt bà nữa.

 Sau đó đến phiên thầy bảy Nguyện ở Mỏ Cày gửi thơ trêu ghẹo:

Ai về nhắn với Nguyệt Anh cô,
Chẳng biết lòng cô nghĩ thế mô?
Không phải vãi chùa toan đóng cửa!
Đây lòng gấm ghé bắc cầu Ô.


 Bà lại phải làm hai bài thơ cự tuyệt:

1.
Chẳng phải tiên cô cũng đạo cô,
Cuộc đời dâu bể biết là mô?
Lọng sườn dầu rách, còn kêu lọng,
Ô bịt vàng ròng vẫn tiếng ô!

2.
Phải thời cô quả, chịu thời cô,
Chẳng biết tuồng đời tính thế mô?
Dòm thấy bụi trần toan đóng cửa,
Ngọc lành chi để thẹn danh ô!


 Bà không màng sự cám dỗ của mấy nhà thơ trên, chỉ thắt lưng buộc bụng nuôi con. Nhà vốn nghèo, bà phải lên Sài Gòn dạy chữ nho và viết báo độ nhật. Một thời gian bà làm chủ tờ báo Nữ Giới Chung. Về sau bà bị đau mắt, chữa mãi không khỏi, rồi loà hẳn. Bà lui về ở với bà con ở Mỹ Chánh Hoà, được ít lâu tạ thế, thọ 58 tuổi.
                                   -------------------
  Viết theo:

1/ Giai thoại làng nho, Lãng Nhân, Nam Chi tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1966
2/ Trang thơ Sương Ngọc Anh trên Thi viện
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Phụng Hà

Giai thoại Tản Đà (1889–1939)


 Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1889 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), con cụ Nguyễn Danh Kế đậu cử nhân triều Tự Đức làm quan đến chức Án sát nên được gọi là Ấm Hiếu. Vì quê ở gần sông Đà và núi Tản Viên, ông lấy bút hiệu là Tản Đà.
 Ông xuất thân trong một dòng họ khoa bảng lâu đời, rất thông minh, học chữ Hán giỏi, nhưng tính phóng khoáng, không chịu theo khuôn phép và quan trường nên thi mấy khoa không đỗ, sinh chán nãn, ông bỏ chuyện thi cử, chuyên làm thơ, làm báo, viết sách, dịch sách chữ Hán ra quốc văn. Lúc ấy, Đốc học trường Hậu bổ là Vayrac đọc văn thơ của ông rất khâm phục, lấy cớ ông là chân Ấm sinh, gọi vào học trường Hậu bổ để mai sau ra làm quan, nhưng ông từ chối. Thơ ca của ông khá gần gủi với thơ ca dân gian, có một nghệ thuật đặc biệt điêu luyện, được nhiều người ưa thích. Ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, đóng vai trò của nhịp cầu nối liền hai thế hệ tân và cựu.
 Ông qua đời năm 1939 tại Hà Nội, thọ 51 tuổi. Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng có đôi câu đối viếng:

 Không sắc nhất quỳnh hoa, tiếu khứ hân nhiên, thiên thượng quần tiên đa quyến thuộc.
 Tuý ngâm song bạch nhãn, hứng lai huy bút, nhân gian thiên thủ ngoạ công hầu.

Cụ Huỳnh tự dịch:
 Không sắc một hoa quỳnh, về vuốt câu chơi, tiên giới nhiều người nên quyến thuộc
 Say ngâm hai mắt trắng, hứng thơ múa bút, giá thi mấy lớp ngạo công hầu.
 
 Nhà thơ tài hoa để lại nhiều giai thoại văn chương.

1/ Lên bà khó lắm:

  Khoảng năm 1907-1908, Nguyễn Khắc Hiếu và anh là ông Phó bảng Nguyễn Tài Tích ở phố Hàng Nón Hà Nội. Ông vào học trường Quy Thức, phố Gia Ngư.
Cứ chiều chiều tan học về nhà, cậu ấm Hiếu bao giờ cũng phải "mua đường" đi vòng qua phố Hàng Bồ là nơi có một cô gái tuyệt đẹp ngồi bán hàng. Đó là cô con gái của ông Đỗ Thận. Nhờ anh rễ là Nguyễn Thiện Kế dạm hỏi, biết nhà gái chỉ đòi chàng rễ cái "ấn tri huyện", từ đó cậu quyết tâm lao đầu vào lối học cử nghiệp. Nhưng khoá đầu tiên, thi năm 1909 bị hỏng, khoá tiếp theo thi năm 1912 cũng hỏng nốt. Khoá này, ở trường thi xảy ra một sự việc rất thảm thương. Một người học trò cũng đã hỏng thi mấy khoa trước rồi, đến khoa này thì bị ốm nặng, nhưng anh ta vẫn cố vác lều chỏng vào thi. Ngày hôm đó, bị mưa bão suốt ngày, anh ta lên cơn sốt nặng và lăn đùng ra chết ngay trong chiếc lều ngập lụt của mình.
  Xem bảng không có tên, cậu ấm Hiếu cùng với một số đông anh em thi hỏng vào quán trước cổng trường thi, uống rượu giải buồn. Mọi người không khỏi nghĩ đến cái chết thương tâm của anh học trò nọ rồi lại nghĩ đến số phận hẩm hiu của mình. Một người trong bọn biết ấm Hiếu có tài làm thơ, nên đứng lên nói:
- Bác ấm rất tài thơ, thử tức cảnh cho anh em nghe một bài cho đỡ buồn.
 Ấm Hiếu không đợi để nói đến hai lần, liền ngâm:

Văn hay chẳng đỗ thì đừng,
Gió mưa khỏi chết nửa mừng nửa thương.
Cái nghiệp bút nghiên cay đắng đủ trăm đường,
Bảng vàng mũ bạc anh nhường mặc ai.
Muốn lên bà khó lắm em ôi!


 Mọi người nghe xong đếu phá lên cười. Bài thơ đã cắt đi một phần cái gánh nặng chung của những người hỏng thi. Nhưng sau đó ít lâu, khi cậu ấm Hiếu đi ngang qua phố Hàng Bồ, thì vừa vặn gặp "ý trung nhân" họ Đỗ vừa khóc… vừa bước chân lên xe kéo về nhà chồng, một người vừa mới đoạt được cái "ấn tri huyện" nhờ thi đỗ khoa ấy.

2/ Rau sắng chùa Hương:
 
 Tương truyền Tản Đà rất thích ăn rau sắng, nhất là loại rau sắng chùa Hương. Nhiều lần ông đã ca tụng thứ rau dân dã này trong thơ của mình.
 Khoảng năm 1922, ông đương ở Tản Đà thư điếm ở Hàng Gai Hà Nội, hoàn cảnh rất túng quẫn. Đến dịp hội chùa Hương (18 tháng 3), mà ông không đi được; nhớ hội chùa, nhớ rau sắng, ông bèn ngâm bài ca tự tình:

Muốn ăn rau sắng chùa Hương,
Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa.
Mình đi ta ở lại nhà,
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.


 Sau đó bài thơ được phổ biến trên báo. Cuối tháng 3 ấy, ông bỗng nhận được một bưu kiện không có tên người gửi. Mở ra thì là một bó rau sắng chùa Hương còn xanh tươi, kèm theo một mảnh giấy con đề bốn câu thơ rằng:

Kính dâng rau sắng chùa Hương,
Tiền đò đỡ tốn, con đường đỡ xa.
Không đi thời gửi lại nhà,
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm.

 (Ký tên: Đỗ Tang nữ)

 Nhà thơ vừa cảm động, vừa lấy làm lạ không biết món quà của ai. Với trí óc đầy mơ mộng, ông gọi gọi ngay kẻ gửi quà là "Người tình không quen biết". Không biết gửi lời cảm tạ về đâu, ông đành làm một bài thơ đăng vào mục "Truyện thế gian" như sau:

Mấy nhời cảm tạ tri âm
Đồng bang là nghĩa, đồng tâm là tình
Đường xa rau hãy còn xanh
Tấm lòng thơm thảo, bát canh ngọt ngào
Yêu nhau xa cách càng yêu
Dẫu rằng suông nhạt, mà nhiều chứa chan!
Nước non khuất nẻo ngư nhàn
Tạ lòng xin mượn "Thế gian" đưa tình.

 (Nguyễn Khắc Hiếu bái phục)

3/ Người tình không quen biết:

  Một lần Tản Đà đáp xe lửa xuống Hải Dương thăm bạn. Nhà thơ ngồi đối diện
với một người phụ nữ khá xinh tươi và linh lợi. Tàu chạy chậm chạp, nhà thơ mở cặp lấy quyển Khối tình con của mình mới in ra đọc cho bớt buồn ngủ. Người thiếu phụ trông thấy, khẩn khoản hỏi mua lại quyển sách. Thi sĩ không bán mà đưa tặng ngay quyển sách cho người yêu thơ. Người phụ nữ cảm ơn mãi mà vẫn không biết mình đang nói chuyện với chính tác giả quyển thơ.
  Ít lâu sau, ông bạn Hải Dương mời nhà thơ đến phố Đông Kiều nghe hát nói. Lúc cô đầu ra tiếp, nhà thơ nhìn mặt thấy ngờ ngợ quen quen nhưng chưa tiện hỏi. Còn nàng thì đoan trang cất tiếng hát:

Khách hà nhân giả (1)
Cớ làm sao suồng sã dám đưa thơ.
Chốn tiên cung ai kén rễ bao giờ?
Chi những sự vẩn vơ mà giấy má….


(1) Khách là ai thế. Bốn câu này trong bài "Trời mắng"

  Nhà thơ giật mình, tự hỏi cô này lại lại hát bài của mình, ngay lúc giáo đầu. Sau bài hát, nhà thơ lại gần hỏi chuyện, nhìn rõ thì ra cô ta là người đã được tặng quyển Khối tình con trên xe lửa. Nhà thơ vui mừng và thích thú, vì thơ mình có người đọc. Vui mừng và thích thú hơn nữa là giai nhân trước mặt lại chính là cô đầu Hiếu mà nhà thơ đã mơ tưởng bấy lâu.
 Ông liền đọc luôn bài ca "Người tình không quen biết" mà ông đã gửi bâng quơ
cho cô, khi nghe nói ở Hải Dương có một đào nương nổi tiếng tên là Hiếu, trùng
tên với chính mình.
 Bài ca như sau:

E thì nhời, nhắn thăm ai ngẫn ngự, e thì nhời,
Chung tên biết tiếng, nhưng người chưa quen.
Ngọn Đông trào nhờ dì Gió đưa duyên.
Bờ xa bến lạ cho thuyền tới nơi.
Hỏi giai nhân tài tử mấy người.
Tính chi chữ "Hiếu" trên trời có hai?
Gặp nhau khi cũng bật cười.


 Đọc xong, hai người cùng bật cười nhưng là cái cười cảm động đến chảy nước mắt. Sau đó hai người tri kỷ tình tự cả đêm.

(Còn tiếp)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 5 trang (42 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ›Trang sau »Trang cuối