Trang trong tổng số 1 trang (2 bài viết)
[1]

Ảnh đại diện

Vanachi

Tên bài thơ: Con thuyền đến đón
Tên nguyên gốc: The coming of the ship
Tác giả: Kahlil Gibran (Li Băng)
Nhóm bài: Nhà tiên tri
Gửi bởi hongha83
Ngày gửi: 19/04/2009 21:35
Xoá bởi: Vanachi
Lý do xoá: Theo yêu cầu của người dịch



Nguyên bản:
Almustafa, the chosen and the beloved, who was a dawn onto his own day, had waited twelve years in the city of Orphalese for his ship that was to return and bear him back to the isle of his birth.

And in the twelfth year, on the seventh day of Ielool, the month of reaping, he climbed the hill without the city walls and looked seaward; and he beheld the ship coming with the mist.

Then the gates of his heart were flung open, and his joy flew far over the sea. And he closed his eyes and prayed in the silences of his soul.

But he descended the hill, a sadness came upon him, and he thought in his heart:

How shall I go in peace and without sorrow? Nay, not without a wound in the spirit shall I leave this city.

Long were the days of pain I have spent within its walls, and long were the nights of aloneness; and who can depart from his pain and his aloneness without regret?

Too many fragments of the spirit have I scattered in these streets, and too many are the children of my longing that walk naked among these hills, and I cannot withdraw from them without a burden and an ache.

It is not a garment I cast off this day, but a skin that I tear with my own hands.

Nor is it a thought I leave behind me, but a heart made sweet with hunger and with thirst.

Yet I cannot tarry longer.

The sea that calls all things unto her calls me, and I must embark.

For to stay, though the hours burn in the night, is to freeze and crystallize and be bound in a mould.

Fain would I take with me all that is here. But how shall I?

A voice cannot carry the tongue and the lips that give it wings. Alone must it seek the ether.

And alone and without his nest shall the eagle fly across the sun.

Now when he reached the foot of the hill, he turned again towards the sea, and he saw his ship approaching the harbor, and upon her prow the mariners, the men of his own land.

And his soul cried out to them, and he said:

Sons of my ancient mother, you riders of the tides,

How often have you sailed in my dreams. And now you come in my awakening, which is my deeper dream.

Ready am I to go, and my eagerness with sails full set awaits the wind.

Only another breath will I breathe in this still air, only another loving look cast backward,

Then I shall stand among you, a seafarer among seafarers.

And you, vast sea, sleepless mother,

Who alone are peace and freedom to the river and the stream,

Only another winding will this stream make, only another murmur in this glade,

And then shall I come to you, a boundless drop to a boundless ocean.

And as he walked he saw from afar men and women leaving their fields and their vineyards and hastening towards the city gates.

And he heard their voices calling his name, and shouting from the field to field telling one another of the coming of the ship.

And he said to himself:

Shall the day of parting be the day of gathering?

And shall it be said that my eve was in truth my dawn?

And what shall I give unto him who has left his plough in midfurrow, or to him who has stopped the wheel of his winepress?

Shall my heart become a tree heavy-laden with fruit that I may gather and give unto them?

And shall my desires flow like a fountain that I may fill their cups?

Am I a harp that the hand of the mighty may touch me, or a flute that his breath may pass through me?

A seeker of silences am I, and what treasure have I found in silences that I may dispense with confidence?

If this is my day of harvest, in what fields have I sowed the seed, and in what unremembered seasons?

If this indeed be the hour in which I lift up my lantern, it is not my flame that shall burn therein.

Empty and dark shall I raise my lantern,

And the guardian of the night shall fill it with oil and he shall light it also.

These things he said in words. But much in his heart remained unsaid. For he himself could not speak his deeper secret.

And when he entered into the city all the people came to meet him, and they were crying out to him as with one voice.

And the elders of the city stood forth and said:

Go not yet away from us.

A noontide have you been in our twilight, and your youth has given us dreams to dream.

No stranger are you among us, nor a guest, but our son and our dearly beloved.

Suffer not yet our eyes to hunger for your face.

And the priests and the priestesses said unto him:

Let not the waves of the sea separate us now, and the years you have spent in our midst become a memory.

You have walked among us a spirit, and your shadow has been a light upon our faces.

Much have we loved you. But speechless was our love, and with veils has it been veiled.

Yet now it cries aloud unto you, and would stand revealed before you.

And ever has it been that love knows not its own depth until the hour of separation.

And others came also and entreated him.

But he answered them not. He only bent his head; and those who stood near saw his tears falling upon his breast.

And he and the people proceeded towards the great square before the temple.

And there came out of the sanctuary a woman whose name was Almitra. And she was a seeress.

And he looked upon her with exceeding tenderness, for it was she who had first sought and believed in him when he had been but a day in their city.

And she hailed him, saying:

Prophet of God, in quest for the uttermost, long have you searched the distances for your ship.

And now your ship has come, and you must needs go.

Deep is your longing for the land of your memories and the dwelling place of your greater desires; and our love would not bind you nor our needs hold you.

Yet this we ask ere you leave us, that you speak to us and give us of your truth.

And we will give it unto our children, and they unto their children, and it shall not perish.

In your aloneness you have watched with our days, and in your wakefulness you have listened to the weeping and the laughter of our sleep.

Now therefore disclose us to ourselves, and tell us all that has been shown you of that which is between birth and death.

And he answered,

People of Orphalese, of what can I speak save of that which is even now moving your souls?

(Bài viết được gửi tự động)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Bản dịch của Giải Nghiêm
Gửi bởi hongha83
Ngày gửi: 19/04/2009 21:35
Số lần sửa: 1
Lần sửa cuối: 19/04/2009 21:37 bởi hongha83



Almustafa, người thấm nhuần ân sủng, là bình mình soi sáng của thời ông, đã chờ đợi mười hai năm nơi thành phố Orphalese cho đến khi con thuyền trở lại, mang ông về hòn đảo quê hương.

Vào năm thứ mười hai, ngày thứ mười hai của tháng Ielool, tháng vụ mùa thu hoạch, ngài trèo lên đồi cao -không có những bức thành - nhìn ra biển, và bắt gặp con thuyền dần tiến lại - tiến lại, cùng với sương mù.

Ôi, những cánh cửa trái tim ngài đồng bật mở, và niềm vui bay bổng tận ngàn khơi. Ngài nhắm mắt, và âm thầm khấn nguyện - trong lặng yên an tĩnh của tâm hồn.

Nhưng trong lúc xuống đồi, một nỗi buồn chợt lại, ngài nhủ thầm: Làm sao để ra đi - trong bình an thanh thản chẳng ai bi? để tâm hồn không gánh một vết thương khi ta phải rời xa thành phố?

Ôi, trong những bức thành này ta đã trải: những chuỗi ngày dài đau khổ, những chuỗi đêm dài cô đơn; ai có thể chia tay với đau khổ, cô đơn - của bản thân mình - mà không nuối tiếc?

Trên những con đường này ta đã rải, tung ra bao nhiêu mảnh vụn tâm hồn, và bao nhiêu là con trẻ ta mong đang trần trụi hồn nhiên rong chơi giữa những ngọn đồi; ta làm sao lìa bỏ được các ngươi mà không thấy nặng lòng, đau xót!

Đây không phải là chiếc áo ngày hôm nay ta từ bỏ, mà là mảnh da ta lột ra bằng chính tay mình. Đây chẳng phải một suy tư ta để lại sau lưng, mà là một quả tim được tẩm ngọt ngào bằng nỗi khát khao chưa thoả mãn.

Nhưng ta không thể nào nấn ná lâu hơn. Biển cả gọi mọi loài về - nay biển đã gọi ta; ta phải lên tàu. Bởi nán lại – mặc khắc giờ cháy lụi trong đêm – cũng có nghĩa là đóng thành băng giá, và trói mình bó buộc trong khuôn.

Ta rất sẵn sàng mang tất cả đi theo. Nhưng tất cả, làm sao ta mang được?

Tiếng nói không thể chở theo chiếc lưỡi và đôi môi, dù mới được lưỡi môi chắp cánh. Tiếng nói ra đi - tìm đến tai nghe chỉ có một mình.

Và một mình, không có tổ đi theo, con ưng sẽ một mình bay qua mặt nhật.            

Đến chân đồi, ngài quay nhìn lại biển, thấy con thuyền tiến vào bến cảng, trên mũi thuyền là những chàng thủy thủ, những người trai của xứ sở quê ông.

Cõi lòng ông gọi họ, lời ông ngân:

Hỡi những người con của mẹ ta xưa, những con người cưỡi trên đầu sóng!

Trong giấc mơ tôi bạn dong thuyền bao bận. Và hôm nay, bạn đến cùng tôi - giữa khi thức tỉnh, nghĩa là trong một giấc mộng sâu hơn.

Vâng đi thôi, tôi đã sẵn sàng rồi, lòng háo hức đã căng buồm chờ gió.

Một hơi thở nữa thôi, tôi đưa vào không khí lắng yên này, một cái nhìn trìu mến nữa thôi, tôi sẽ một lần còn đoái lại.

Rồi tôi sẽ đứng giữa các anh, một người đi biển giữa những người đi biển.

Và biển rộng kia ơi, bà mẹ muôn đời không ngủ, tự thân Người là bình an và tự do cho những suối và sông.

Còn một khúc lượn quanh thôi con suối này sẽ lượn, còn một lời thì thầm thôi trong trảng trống giữa khu rừng. Và tôi sẽ đến cùng ngươi, một giọt vô biên đến cùng biển cả vô biên.

Trong khi bước, từ xa ngài đã vọng bao nhiêu là nam nữ đổ xô lên, rời nương nho rẫy lúa họ băng lên, đồng nhắm hướng cổng thành đi tới.

Rồi ngài nghe tiếng họ gọi tên mình, và loan báo từ đồng này sang đồng khác về con thuyền đang đến bến Orphalese.

Ngài tự nhủ:

Ngày chia tay có phải ngày hợp lại?

Hoàng hôn mình mới thực buổi bình minh?

Tôi sẽ tặng những gì cho người đã bỏ lại chiếc cày giữa luống trên nương, hay cho người đã ngừng lại bánh quay của máy ép nho để về đây gặp mặt.

Liệu trái tim tôi có trở thành cây trĩu quả - để tôi hái tặng cho người?

Và liệu khát khao tôi có chảy tuông như con suối tưới - để tôi rót đầy cốc họ hay không?

Tôi có phải là cây đàn hạc mà bàn tay của thiêng liêng nắn phím so dây, hay chiếc sáo mà qua tôi hơi thở Người tấu khúc?

Phải chăng tôi người kiếm tìm tịch lặng, châu báu nào tôi tìm được ở lặng yên - những châu báu mà tôi phát ban không đắn do so tính?

Nếu hôm nay là ngày gặt của tôi, thì trên những cánh đồng nào tôi đã từng gieo hạt, và mùa gieo ai có nhớ những khi nào?

Nếu thật sự đây là giờ tôi giương đèn tôi lên soi tỏ trong đêm, thì không phải ngọn lửa tôi cháy lung linh trong đèn ấy.

Trống rỗng, tối tăm, tôi sẽ dương đèn tôi lên đó
vị hộ thần ban đêm sẽ châm dầu, và thắp sáng đèn lên.

Những điều này ngài bày tỏ qua lời. Nhưng trái tim ngài biết bao nhiêu điều vẫn còn chưa nói. Bởi tự mình, Ngài không thể nào thốt nên điều mật nhiệm thâm sâu.

Ngài vào thành, mọi người ra đón, họ gọi ngài như đồng cất lên bằng một âm thanh.

Những bô lão trong thành đứng ra và nói:

Xin hãy khoan rời bỏ chúng tôi.

Ngài là ánh sáng giữa ban trưa trong chúng tôi sáng mờ chập choạng, tuổi xuân của ngài đã cho chúng tôi những giấc mơ để được ước và mơ.

Ngài không phải là người xa lạ giữa chúng tôi, cũng không phải là khách từ nơi xa đến, ngài là con, là thân thuộc của chúng tôi. Mắt chúng tôi sẽ khát khao nhớ guơng mặt ngài nếu phải một lần xa cách.

Những thầy tế nam và thầy tế nữ lại nói cùng ngài:

Xin chớ để những đợt sóng đại dương ngày hôm nay chia rẽ chúng ta, và những tháng cùng năm ngài sống giữa chúng tôi trở thành ký ức.

Ngài như một linh hồn đi giữa chúng tôi, chiếc bóng của ngài vẫn luôn là ánh sáng rọi lên trên gương mặt chúng tôi.

Chúng tôi yêu ngài biết bao nhiêu. Nhưng tình thương của chúng tôi không ngôn từ nào thốt lên cho được, với những chiếc mạng che nó đã được đậy che phong kín. Nhưng giờ đây tình yêu chúng tôi gọi ngài thật lớn, đứng trước mặt ngài nó bộc lộ toàn chân.

Ngần mé của mình chính tình yêu này cũng chưa rõ hết chiều sâu, cho đến lúc vào giờ ly biệt.

Và lần lượt những người khác đến, khẩn nài ngài.
Nhưng ngài chẳng đáp chi. Ngài chỉ cúi đầu; và những người đứng gần thấy lệ ngài rơi - rơi trên ngực.            

Ngài và dân thành đồng kéo đến quãng sân vuông trước ngôi đền thờ thánh. Từ chỗ thâm nghiêm bước ra một người đàn bà tên gọi Almitra. Bà chính là nhà nữ tiên tri.

Ngài nhìn bà với cái nhìn dịu dàng rất mực, bởi bà là người nhìn thấy ngài và tin tưởng đầu tiên, khi ngài mới ngụ một ngày ở thành phố Orphalese.

Bà gọi Ngài: Thưa Đấng Tiên Tri,  trong cuộc kiếm tìm đến chỗ vô biên, ngài đã tự lâu thăm dò tầm xa của con thuyền đưa về nơi ấy.

Và bây giờ con thuyền đã đến, ngài phải đi rồi.

Sâu sắc thay vọng hoài của ngài về mảnh đất thuộc về ký ức xa xưa, nơi cự ngụ của những ước ao còn cao hơn nữa; tình yêu của chúng tôi sẽ không ràng buộc, mà những nhu cầu của chúng tôi cũng không trì rịt ngài đâu.

Nhưng trước lúc rời chúng tôi xin ngài hãy dạy, ban cho chúng tôi chân nghĩa của ngài. Chúng tôi sẽ truyền lại cho con, và con chúng tôi sẽ truyền cho cháu, chân nghĩa này sẽ không mai một với thời gian.

Trong đơn độc ngài đã quán nhìn những chuỗi ngày chúng tôi từng trải, trong tỉnh táo của mình ngài đã lắng nghe những khóc cười trong giấc ngủ  của chúng tôi.

Vậy xin ngài bây giờ hãy mở bày cho chúng tôi về chính chúng tôi, và bảo cho tất cả chúng tôi về điều đã được hiển thị cho ngài về cái nằm giữa hai lằn sống chết.

Ngài đáp lời:

Hỡi người dân thành Orphalese, tôi nói được gì đây - lời nào có thể vãn hồi được những gì khiến tâm hồn các ngươi đang ngậm ngùi rưng rưng giao động?


Chú thích:
Nguồn: http://nhatientri.kahlilg...bran.googlepages.com/home

(Bài viết được gửi tự động)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài viết)
[1]