Trang trong tổng số 98 trang (973 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Nguyễn Chân

義 柱 橋 口 占
                 范 廷 琥
           雲 擁 蜃 樓 橫 兩 岸
           日 移 虹 影 印 長 沙
           塵 中 誰 是 題 橋 客
           拂 袖 歸 來 駟 馬 車

      NGHĨA TRỤ KIỀU KHẨU CHIẾM (*)
            PHẠM ĐÌNH HỔ
  Vân ủng thận lâu hoành lưỡng ngạn
  Nhật di hồng ảnh ấn trường sa
  Trần trung thuỳ thị đề kiều khách
  Phất tụ qui lai tứ mã xa.(**)

           Dịch nghĩa ;

  NHẨM BÀI THƠ VỀ CẦU NGHĨA TRỤ
         PHẠM ĐÌNH HỔ
Mây ôm lầu ảo vắt ngang đôi bờ
Mặt trời dời bóng cầu vồng in lên bãi cát
Trong đám bụi trần ai là khách đề thơ lên cầu
Phất tay áo dong xe tứ mã trở về.
------------------------
(*) Cầu bắc qua sông Nghĩa Trụ ở huyện Văn Giang, Hưng Yên.
(**) Điển tích : Tư Mã Tương Như, đời Hán, thuở hàn vi, khi đi qua cầu
ở phía tây Tràng An có đề vào chân cầu :” Nếu ta không ngồi xe, cưỡi
ngựa thì không trở lại cầu này”.
- PHẠM ĐÌNH HỔ (1768-1839), người Hải Dương, bạn của nữ sĩ  HỒ
XUÂN HƯƠNG, đi thi nhiều làn chỉ đỗ Tú Tài. Làm quan đời nhà NGUYEN  chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, Tế Tửu Quốc Tử Giám, Thị giảng Học Sĩ. Có nhiều tác phẩm về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí.

         NHẨM BÀI THƠ VỀ CẦU NGHĨA TRỤ
                PHẠM ĐÌNH HỔ
          Mây ôm lầu ảo ngang sông.
    Bãi xa cát trắng cầu vồng bóng soi.
          Chân cầu thơ khắc, ai người:
    Rong xe tứ mã về chơi cầu này!

      Mây ôm lầu ảo vắt ngang sông.
      Cát trắng bãi xa bóng cầu vồng.
      Thơ khắc chân cầu ai đó tá?
      “Quay về bốn ngựa thẳng xe dong!”

    POÈME MENTAL SUR LE PONT NGHIA TRU
               PHAM DINH HO
Les nues couvrent le palais fictif reliant deux rives.
L’arc-en-ciel jète sur le lais son ombre qui dérive.
Qui a laissé sur le pilier de ce pont son écrit:
“Sans doute sur la carrosse je reviendrai  ici!”

        ПОЭМА ПРО СЕБЯ О МОСТЕ НГИА ЧУ
                ФАМ ДИНЬ ХО
   Покрывают мнимый дворец на реке облака.
   Набросает свою сень на нанос радуга.
   Кто оставил свои стихи на опоре моста,
          Которые заявили бодро:
   “Повернюсь здесь на тройке несомненно!”
             (Вольный перевод)

          NGUYỄN CHÂN 28.03.2012
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Chân

經 義 柱 橋 次 原 韻
                 范 廷 琥
           又 從 義 柱 溪 頭 過
           鷗 爪 依 依 篆 白 沙
           吟 罷 舊 題 還 自 笑
           窮 途 猶 自 步 當 車

        KINH NGHĨA TRỤ KIỀU THỨ NGUYÊN VẬN
                  PHAM ĐÌNH HỔ
          Hựu tòng Nghĩa Trụ khê đầu quá
          Âu trảo y y triện bạch sa
          Ngâm bãi cựu đề hoàn tự tiếu
          Cùng đồ do tự bộ đương xa.

                 Dịch nghĩa :

       LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẠ NGUYÊN VẦN
                  PHẠM ĐÌNH HỔ
      Lại theo đầu ngòi Nghĩa Trụ mà đi qua
      Móng chim âu rành rành hằn trên cát trắng
      Nhẩm câu thơ đề trên cầu khi trước lại cười mình
      Cùng đường còn tự bước, đua với xe.
 

           LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẬ NGUYÊN VẦN
                      PHẠM ĐÌNH HỔ
               Lại qua Nghĩa Trụ đầu ngòi
          Móng chim vẫn đậm trên doi cát vàng
               Nhẩm câu thơ cũ cười khàn
          Cùng đường chạy bộ đua quàng với xe!

             Nghĩa Trụ đầu sông lại trở về
             Dấu chim trên cát vẫn chưa nhoè
             Thơ xưa nhẩm lại cười trong bụng
             Chạy bộ đường cùng rỡn với xe!

     RÉPONSE AU POỀME MENTAL SUR LE PONT NGHIA TRU
                    PHAM DINH HO
   Ici, au pont Nghia Tru on vient de s’en retourner
   Les traces des mouettes restent encor sur le sable
   On se rémémore aux anciens vers et rit sous cape:
   À l’impasse à concourir avec la carrosse on se met!

                 NGUYỄN CHÂN 29.03.2012

             ОТВЕТ НА ПОЭМУ О МОСТЕ НГИА ЧУ
                      ФАМ ДИНЬ ХО
               Хожу опять вдоль этой реки.
               Следы чаек на песках ещё видны.
               Повторю старые стихи, щутя над собой:
               В тупике хочется ещё
               Пешком вступить в гонку с тройкой!

           NGUYỄN CHÂN 30.03.2012 (Вольный перевод)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Chân

經 義 柱 橋 次 原 韻
                 范 廷 琥
           又 從 義 柱 溪 頭 過
           鷗 爪 依 依 篆 白 沙
           吟 罷 舊 題 還 自 笑
           窮 途 猶 自 步 當 車

        KINH NGHĨA TRỤ KIỀU THỨ NGUYÊN VẬN
                  PHAM ĐÌNH HỔ
          Hựu tòng Nghĩa Trụ khê đầu quá
          Âu trảo y y triện bạch sa
          Ngâm bãi cựu đề hoàn tự tiếu
          Cùng đồ do tự bộ đương xa.

                 Dịch nghĩa :

       LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẠ NGUYÊN VẦN
                  PHẠM ĐÌNH HỔ
      Lại theo đầu ngòi Nghĩa Trụ mà đi qua
      Móng chim âu rành rành hằn trên cát trắng
      Nhẩm câu thơ đề trên cầu khi trước lại cười mình
      Cùng đường còn tự bước, đua với xe.
 

           LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẬ NGUYÊN VẦN
                      PHẠM ĐÌNH HỔ
               Lại qua Nghĩa Trụ đầu ngòi
          Móng chim vẫn đậm trên doi cát vàng
               Nhẩm câu thơ cũ cười khàn
          Cùng đường chạy bộ đua quàng với xe!

             Nghĩa Trụ đầu sông lại trở về
             Dấu chim trên cát vẫn chưa nhoè
             Thơ xưa nhẩm lại cười trong bụng
             Chạy bộ đường cùng rỡn với xe!

     RÉPONSE AU POỀME MENTAL SUR LE PONT NGHIA TRU
                    PHAM DINH HO
   Ici, au pont Nghia Tru on vient de s’en retourner
   Les traces des mouettes restent encor sur le sable
   On se rémémore aux anciens vers et rit sous cape:
   À l’impasse à concourir avec la carrosse on se met!

                 NGUYỄN CHÂN 29.03.2012

             ОТВЕТ НА ПОЭМУ О МОСТЕ НГИА ЧУ
                      ФАМ ДИНЬ ХО
               Хожу опять вдоль этой реки.
               Следы чаек на песках ещё видны.
               Повторю старые стихи, щутя над собой:
               В тупике хочется ещё
               Пешком вступить в гонку с тройкой!

           NGUYỄN CHÂN 30.03.2012 (Вольный перевод)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24


http://s1062.photobucket.com/albums/t482/trinhphucnguyen1924/Winter.jpg


NGHĨA  TRỤ  KIỀU KHẨU  CHIÊM
                              Phạm  đình  Hổ

PHIÊN  ÂM :
                      Vân ủng thận lâu hoành lưỡng ngạn
                       Nhật di hồng ảnh ấn trường sa
                       Trần trung thùy thị đề kiều khách
                        Phất tụ quy lai tứ mã xa

DỊCH  NGHĨA:

                       Mây ôm cầu ảo vắt ngang đôi bờ
                      Mặt trời dời bóng cầu in lên bãi cát
                       Trong đám bụi trần ai là khách đề thơ lên cầu
                       Phất tay áo trở về dong xe tứ mã

DỊCH  THƠ:

                       Mây ôm cầu ảo vắt đôi bờ
                       Trời dịch bóng cầu bãi cát xa
                       Ai khách bụi trần thơ một áng
                       Dong xe tứ mã khải hoàn ca

                                                       Trịnh Phúc Nguyên  dịch thơ

POEME PAS ENCORE ECRIT  SUR LE PONT NGHIA TRU

                       Le pont nuageux illusoire ẹnjambe le fleuve
                       Le soleil projette son ombre sur le sable
                      Quel visiteur d’ici-bas y a inscrit le poeme
                      Je serai de retour en carosse à quatre chevaux
                                                       Tr.  Trịnh Phúc Nguyên
 (/I)(/color)(/size)(/b)(/quote)
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24

quote]
KINH NGHĨA TRỤ KIỀU THỨ NGUYÊN VẬN

                                               Phạm Đình  Hổ

Hựu tòng Nghĩa  Trụ  khê đầu quá
Âu trào y y triện bạch sa
Ngâm bãi cựu đề hoàn tự tiếu
Cùng đồ do tự bộ đương xa

DỊCH  NGHĨA:

Lại theo đầu ngòi Nghĩa Trụ mà đi qua
Móng chim âu dành dành hằn trên cát trắng
Đọc xong câu thơ đề trên cầu khi trước lại cười mình
Cùng đường còn tự bước đua với xe

DỊCH  THƠ:

HỌA NGUYÊN VẦN: LẠI  QUA  CẦU  NGHĨA  TRỤ

Đầu ngòi Nghĩa  trụ lại đi qua
Cát trắng chim âu in móng to
Đọc lại thơ mình thêm tự thẹn
Cùng đường còn bước ruổi theo xe

                                            Trịnh Phúc Nguyên  dịch thơ

DE  RETOUR  EN TRAVERSANT LE PONT  NGHIA  TRU

         (Poème de réplique aux mêmes rimes)

Je traverse le pont à l’embouchure du fleuve
Les griffes de mouettes s’impriment sur le sable
Je me moque de moi-même ,lísant le poème
Acculé à l’impasse,osant rivaliser avec le carosse

                                Tr.  Trịnh phúc Nguyên
         [/color]
[/b][/size][/quote]
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24


PHAN  THỊ  THANH  NHÀN

HƯƠNG  THẦM

Cửa sổ hai nhà cuốiphố
Không hiêủ vì sao không khép bao giờ
Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa

Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận

Họ ngồi yên không biết nói chi
Mắt chợt nhìn nhau rồi lại quay đi
Nào ai đã một lần dám nói ?
Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối

Anh không dám xin
Cô gái chẳng dám trao
Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao
Không giấu đươc cứ bay dịu nhẹ

Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu
-“Anh vô tình anh chẳng biết điều
Tôi đã đến với anh rồi đấy”…

Rồi theo từng hơi thở của anh
Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực
Anh lên đường
                       Hương sẽ theo đi khắp

Họ chia tay
                 Vẫn chẳng nói điều gì
Mà hương thầm thơm mãi bước ngươì đi

                                                      1969









PHAN  THỊ  THANH  NHÀN

PARFUM  CACHÉ

Les fenêtres de deux maisons d’une rue
On ne sait pourquoi,ne sont jamais fermées
Ils étaient deux camarades de même classe
Le pamplemoussier répand sa fragrance.

Cachant une touffe de fleurs dans son mouchoir
La jeune fille hésite,passe chez son voisin
Là,une personne demain s’en ira au front.

Ils restent assis, en silence,sans mot dire
Leurs yeux soudain se cherchent,soudain se détournent
Qui donc oserait jamais prendre la parole?
Cependant,le parfum des fleurs trouble leur coeur.

Il n’ose pas demander
Elle n’ose pas donner
Mais le doux parfum des fleurs,qu’on ne peut cacher
Continue à se répandre autour d’eux

Comme la touffe de fleurs silencieuse,
Elle demande au parfum d épancher son amour:
-Oh!ínsensible que tu es,mon cher ami,
Ne sais –tu pas que je suis venue,me voici!

Dès lors,à chaque souffle qu’il respire
Le parfum pénètre jusqu’au fond de son coeur
Il part
        le parfum le suivra partout

Ils se sont quittés
                            toujours sans mot dire
Mais le parfum caché embaume toujours les pas du partant.

                                                     Tr. Trịnh Phúc Nguyên
  
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Chân

寨 頭 春 渡
                      阮 豸
              渡 頭 春 草 綠 如 煙
              春 雨 添 來 水 拍 天
              野 徑 荒 涼 行 客 少
              孤 舟 鎮 日 擱 沙 眠

                   TRẠI ĐẦU XUÂN ĐỘ
                 NGUYỄN TRÃI
       Độ đầu xuân thảo lục như yên
       Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên
       Dã kính hoang lương hành khách thiểu
       Cô chu trấn nhật các sa miên.
                  
                  Dịch nghĩa :

            BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI
                NGUYỄN TRÃI
    Nơi đầu bến đò cỏ xuân xanh như khói
    Lại thêm mưa xuân nước vỗ trời
    Đường quê hoang vắng ít người qua lại
    Một con thuyền lẻ loi suốt ngày ngủ trên bãi cát.

             BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI
                 NGUYỄN TRÃI
         Xanh rờn đầu bến cỏ xuân,
    Lại thêm mưa bụi nước ngân lưng trời.
         Đường quê thưa thớt bóng người,
    Suốt ngày gối bãi, đò côi ngủ tràn.

       Xanh rờn đầu bến cỏ xuân tươi
       Mưa bụi đem giăng nước khắp trời.
       Khách vắng, đường quê hiu quạnh quá,
       Suốt ngày gối bãi ngủ thuyền côi.

          LE PRINTEMPS SUR L'EMBARCADERE
                AU BOUT DU HAMEAU
                   NGUYEN TRAI
Les herbes du printemps verdoient sur l'embarcadère.
De la bruine, le ciel parait tout mouillé
Peu de passagers sur le sentier désolé,
Sur la berge ensablée dort la barque solitaire.

      ПРИЧАЛ ВБЛИЗИ ХУТОРА ВЕСНОЙ
              НГУЕН ЧАЙ
Как дым зеленит вешняя трава на причале
Изморось как будто брызгает воду в небе
Тропинка с заброшенным мостиком безлюдна
Целый день на песках сиротливо спит лодка.          

NGUYỄN CHÂN 06.09.2008 (ВП20.05.2012)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nguyễn Chân

題 伯 牙 鼓 琴 圖
                        阮 豸
                鐘 期 不 作 鑄 金 難
                獨 抱 瑤 琴 對 月 彈
                靜 夜 碧 霄 涼 似 水
                一 聲 鶴 唳 九 皋 寒

             ĐỀ BÁ NHA CỔ CẦM ĐỒ
              NGUYỄN TRÃI
     Chung kì bất tac chú kim nan
     Độc bão dao cầm đối nguyệt đàn
     Tĩnh dạ bích tiêu lương tự thuỷ
     Nhất thanh hạc lệ cửu cao hàn
                      
              Dịch nghĩa ;

        VỊNH TRANH “BÁ NHA GẢY ĐÀN”
               NGUYỄN TRÁI
Khó đúc tượng vàng để tạo lại một Chung Kì
Một mình ôm đàn ngọc đánh dưới trăng
Đêm nay bầu trời trong xanh tươi mát như nước
Một tiếng hạc kêu lạnh lẽo nơi cảnh chín chằm.


         ĐỀ TRANH “BÁ NHA GẢY ĐÀN”
                NGUYỄN TRÃI
       Chung Kì, khó đúc tượng vàng
    Lựa cung, lẻ bạn ôm đàn dưới trăng
       Nước, trời đêm lặng, mát trong
    Hạc kêu một tiếng giá băng chín chằm

       Tượng vàng đổi lại Chug Kì, khó
       Lẻ bạn ôm đàn gảy dưới trăng
       Đêm lặng, trời xanh trong tựa nước
       Hạc kêu một tiếng lạnh muôn chằm.

                SUR LE TABLEAU
        “BA NHA JOUANT DE LA MUSIQUE”
                  NGUYEN TRAI
Même un buste en or ne peut remplacer Chung Ki
Solitaire, il joue du luth sous la Reine de nuit.
Nuit calme. L’azur frais reflète l’eau toute entière
Un cri de flamant neuf marécages réfrigère.

       О КАРТИНЕ «БА НЯ ИГРАЕТ МУЗЫКУ»
                  НГУЕН ЧАЙ
    Золотым бюстом не заменяется Тюнг Ки
    Одиночно под луной друг играет на лютни
    Тихая ночь, прохладны воздух и вода
    Кричит журавль, девять болот охлаждаются
     
     NGUYỄN CHÂN 26.10.2008 (ВП 24.05.2012)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24


PHẠM  TIẾN  DUẬT

TRƯỜNG  SƠN  ĐÔNG-TRƯỜNG  SƠN  TÂY

Cùng  mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây

Một dẫy núi mà hai mầu mây
Nơi nắng nơi mưa khí trời cũng khác
Như anh với em,như Nam với Bắc
Như đông với tây một dải rừng liền

Trường Sơn tây anh đi,thương em
Bên ấy mưa nhiều con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Hết rau rồi ,em có lấy măng không?

Em thương anh bên tây mùa đông
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Biết lòng anh say miền đất lạ
Chắc em lo đường chắn bom thù

Anh lên xe trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Em xuống  núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt mối riêng tư

Đông sang tây không phải đường thư
Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Đông Trường Sơn,cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo
Tây Trường Sơn bộ đội áo mầu xanh

Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đòan quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối dài vô tận
Đông Trường Sơn nối tây Trường Sơn

[/color]]/b][/size]]/i][/quote]






TRƯỜNG  SƠN  ĐÔNG – TRƯỜNG SƠN TÂY (*)TRUONG SON EST – TRUONG  SON  OUEST
Nous lions le hamac dans la même forêt
Mais aux deux bouts lointains nous sommes séparés
En cette saison,le chemin au front est beau
A Truong Son Est,languissant,je pense à l’Ouest.

Une montagne mais deux couleurs de nuage
Ici-soleil,là-pluie;climats différents
Comme toi et moi,comme le Nord et le Sud
Comme les deux versants d’une même montagne.

Je parcours Truong Son Ouest,compatissant à toi
Là.la pluie inonde le chemin de transport du riz
Dans la forêt vierge, pleine de moustiques
Tu dois rabattre les manches de ta vareuse
Plus de légumes, vas-tu chercher des pousses(**)?

Tu compatis à moi,en hiver ,à l’Ouest
Ruisseaux à sec, papillons survolant les rocs
Tu sais, je m’enivre des terres inconnues
Et certes,tu t’inquiètes pour nos chemins
Coupés par les bombardements des ennemis

Je monte sur le camion, il pleut à verse
L’essuie-glace court,chasse ma nostalgie
Tu descends la montagne, le soleil rayonne
Tu écartes les branches, chasse tes ennuis

Route Est-Ouest n’est pas chemin du courrier
C’est pour transporter des munitions et du riz
À Truong Son Est, la jeune fille “prête à servir”,en vareuse verte
À Truong Son Ouest,le soldat,prêt à combattre, aussi vareuse verte

De ton lieu jusqu’au mien, se succèdent sans fin
Des troupes et des troupes, allant jusqu’au front
Comme des chaines de l’amour,se succédant à l’infini
Et Truong Son Est va rejoindre Truong Son Ouest.

                                  Tr. TRỊNH  PHÚC  NGUYÊN
NB(*)TRƯỜNG SƠN=longue chaine montagneuse au centre du VietNam
                                     Autrefois ,appelee Cordillere annamitique
     (**)pousses= pousses de bambou

Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

trinhphucnguyen24


TÚC  DIEN  HÀ  HUYỆN TRỊ
DẠ  MỘNG  TIÊN  THẤT  CẢM  THÀNH

                                   Phạm  Đình  Hổ

Khách lộ tương tầm nhược hữu nhân
Hoàng  Giang giang thượng thủy liên vân
Tử sinh nhất niệm nguyên phi gián
Trịnh trọng tư quân bội cảm quân

Dịch nghĩa:

NGỦ  Ở TRỤ SỞ HUYỆN DIÊN HÀ
ĐÊM MỘNG THẤY NGƯỜI VỢ QUÁ CỐ
Cảm xúc thành thơ

                                   Phạm  Đình  Hổ

Chốn tha hương tìm nhau như có duyên
Trên sông Hoàng nước liền với mây
Vẫn cho rằng chuyện sinh tử
            chẳng ngăn cách được đôi ta
Trân trọng nhớ nàng,càng bội phần thương nàng























ĐÊM  MỘNG  NHỚ  NGƯỜI  VỢ QUÁ  CỐ
             (Nơi trụ sở huyện  Diên Hà)

                                         Phạm đình  Hổ

                       Tìm bạn tha hương ấy số duyên
                       Sông Hoàng bát ngát nước mây liền
                       Dẫu rằng sống chết không chia cắt
                       Mộng thấy nàng bên bao nhớ thương…

EN  SONGE , SE SOUVENANT DE FEUE  L’ÉPOUSE
           (Au siege du district Diên Hà )

                       C’est le destin qui nous unit à l’étranger
                       Sur le fleuve Jaune,nuages et eaux se confondent
                       Quoique mort ou vie ne puissent nous séparer
                       Tant je pense à toi, tant je sens mon coeur serré.

                                                         Tr. Trịnh Phúc Nguyên
Vui buồn ký ức thời quân ngũ
Thanh thản tâm hồn lúc nghỉ hưu
Đường cong cuộc sống dài bao nữa
Vẫn cứ yêu đời chẳng quanh hiu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 98 trang (973 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [35] [36] [37] [38] [39] [40] [41] ... ›Trang sau »Trang cuối