Trang trong tổng số 100 trang (1000 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

Sự thật về Thác Bản Giốc

(Tiếp theo)

Việc Trung Quốc nắm được ưu thế trong kinh doanh du lịch ở khu vực Thác Bản Giốc không cần đến Việt Nam đã mặc nhiên bác bỏ luận điệu của các nhà ngoại giao khi cho rằng “trong việc phân chia, ta vẫn được phần nhiều hơn vì được toàn bộ phần thác phụ cộng với một nửa phần thác chính”. Thật ra, cách lập luận này của ông Vũ Dũng (Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) vào năm 2009 chỉ là một sản phẩm của thuật ngụy biện nhằm lừa dối dư luận. Nếu xem xét Thác Bản Giốc như một thắng cảnh đẹp, một tài nguyên thiên nhiên thì vấn đề chính không phải là giữ được phần nhiều hơn (toàn bộ thác phụ cộng với một nửa của thác chính), bởi vì phần bị mất đi (nửa thác chính) tuy ít hơn, nhưng cộng với toàn bộ bờ bên trái sông Quây Sơn lại chính là phần đẹp nhất, phần quan trọng nhất của thắng cảnh. Bài toán chủ quyền không chỉ đơn thuần là một bài toán cộng trừ như ông Vũ Dũng (và những người lãnh đạo ở phía sau) đã “tính toán”. Đó là chưa kể đến giá trị của bờ bắc (tả ngạn) sông Quây Sơn xét về mặt quốc phòng, giá trị mà không có bài toán số học nào có thể lấp liếm được, như chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau.

2. Tại sao phải chia một phần Thác Bản Giốc cho Trung Quốc?

Trong một cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Thu Uyên (phóng viên của trang mạng VASC Orient) [3] vào đầu năm 2002, ông Lê Công Phụng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) đã phát biểu như sau:

“Ông LCP: Về thác Bản Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch được nhiều người ưa chuộng. Đây là điều mà chúng tôi rất khó hiểu, bởi lẽ trong công ước giữa nhà Thanh và Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có 1/3 thôi; và theo thực trạng cột mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì chúng ta cũng chỉ được 1/3 thác.

VASC Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?

Ông LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông, một dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.

VASC Orient: Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?

Ông LCP: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm thước. Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.

Trước tình hình như vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong đàm phán phải hợp lý, thỏa đáng phù hợp với mặt pháp lý. Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh – Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả. Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được. Lẽ ra theo thực tiễn thì chúng ta chỉ được 1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng ta và bạn đã thỏa thuận thác Bản Giốc được chia đôi, mỗi bên được 50%. Hiện nay cả 2 bên đang tiến hành khai thác du lịch phía bên mình.

Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc” [4].

Tóm lại, theo ông Lê Công Phụng, do phát hiện một cột mốc “nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối” cách Thác Bản Giốc “khoảng mấy trăm thước”, cho nên đoàn đàm phán của Việt Nam mới phải tính toán lại chủ quyền đối với Thác Bản Giốc.
Tấm bản đồ 186 C về khu vực tranh chấp cồn Pò Thoong được công bố trên báo Diễn đàn của Việt kiều tại Pháp vào năm 2002 (xem ảnh 7). Được giới thiệu là “tài liệu mật” rò rỉ từ Thường trực Bộ Chính trị ĐCSVN, tài liệu này nhằm giải thích lý do tranh chấp giữa hai bên. Vì “phát hiện” ra cột mốc 53 cho nên dựa theo “luật pháp quốc tế”, đường biên giới phải chạy ở phía nam cồn Pò Thoong dựa vào trung tuyến của dòng chảy chính và như thế, toàn bộ cồn Pò Thoong phải thuộc về Trung Quốc; phía Việt Nam chỉ được 1 phần 3 của thác chính.
Theo giải thích chính thức đăng trên Tạp chí Cộng sản thì sau nhiều lần đàm phán gay go, hai bên đã đạt thỏa thuận: “Đường biên giới đi từ mốc 53 (cũ) lên cồn Pò Thoong rồi đến điểm giữa của mặt thác chính. Như vậy, toàn bộ thác phụ và 1/2 thác chính quy thuộc Việt Nam. Hai bên cũng thoả thuận sẽ bàn bạc việc hợp tác phát triển tiềm năng du lịch tại Thác Bản Giốc” [5].
Nhìn vào tấm bản đồ do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố (ảnh 8), chúng ta thấy đường biên giới được vạch từ cột mốc số 835 (là cột mốc mới thay cho cột mốc 53 trước đây) đi qua cồn Pò Thoong (trong ảnh ghi là cồn Pò Đon) đến điểm giữa của thác chính (thác ba tầng) và sau đó đường biên giới chạy theo trung tuyến của dòng sông Quây Sơn. Để giải quyết tranh chấp theo cách phân chia phức tạp đó, từ cột mốc 835 còn sinh ra thêm nhiều cột mốc phụ: cột mốc phụ 835/1 nằm sát bờ sông, cột mốc phụ 835/2 nằm trên cồn Pò Thoong và hai cột mốc phụ ở hạ lưu: 836 (1) nằm ở tả ngạn trên lãnh thổ Trung Quốc và 836 (2) nằm trên doi đất thuộc lãnh thổ Việt Nam (giữa thác chính và thác phụ).
Nhưng tại sao cồn Pò Thoong lại bị chia cắt theo công thức “1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4 thuộc về Trung Quốc”? Ông Nguyễn Hồng Thao, Phó giáo sư Tiến sĩ, thành viên đoàn đàm phán, giải thích như sau: “Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam” [6].

Điều đó có nghĩa là: đáng lẽ “theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế” thì cồn Pò Thoong (rộng khoảng 2,6 hec-ta) hoàn toàn thuộc về Trung Quốc, nhưng do “ta đã đấu tranh quyết liệt và bạn đã nhân nhượng”, cho nên hai bên mới điều chỉnh đường biên giới để Việt Nam còn sở hữu được 1 phần 4 cồn. Nhưng điều kỳ lạ là trên cồn Pò Thong còn có “dấu tích Trạm thủy văn xây dựng vào những năm 1960”. Trạm thủy văn này do ai xây dựng; kẻ xây dựng đó là kẻ lấn chiếm hay là kẻ sở hữu cồn Pò Thong? Không thấy ai giải thích rõ điều này.

Có một chi tiết cho thấy cách tư duy và lập luận rất kỳ lạ của các nhà ngoại giao ViệtNam: phần thác chính (ba tầng) được gọi là “thác thấp”, phần thác phụ (ba dòng) lại được gọi là “thác cao”. Độc giả có thể nhìn vào ảnh 9 để thấy giữa “thác cao” ở phía trái và “thác thấp” ở phía bên phải, bên nào cao hơn bên nào?

3. Ai là chủ nhân thật sự của Thác Bản Giốc?

Như trên đã dẫn, ngay cả ông Lê Công Phụng cũng cảm thấy khó hiểu: “Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc”. Điều làm chúng ta ngạc nhiên là nếu thật sự cảm thấy “khó hiểu”, tại sao các nhà ngoại giao lại không tham khảo ý kiến của giới trí thức?

Nếu xét về tài liệu thì chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là của Việt Nam. Chỉ xin dẫn chứng một số tài liệu sau đây:

1) Trước hết là tài liệu của nhà địa lý học Lê Bá Thảo. Trong cuốn sách Thiên nhiên Việt Nam đã dẫn (ấn bản 1977), tại trang 78, có đăng tấm ảnh chụp cảnh Thác Bản Giốc nhưng chỉ chụp thác chính, tức thác ba tầng.
Điều đáng chú ý là dòng ghi chú bên dưới: “Trên sông Quây Sơn ở ngay biên giới”. Nhìn vào tấm ảnh, chúng ta thấy ảnh được chụp từ một doi đất nằm ở hạ lưu của thác chính phía bên bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Đây chính là bằng chứng cho thấy ở tả ngạn của dòng sông phía dưới chân thác chính vẫn có một phần đất thuộc lãnh thổ ViệtNam. Ngày nay phần đất này đã chính thức bị cắt cho phía Trung Quốc cho nên người Việt không còn có thể đứng trên lãnh thổ của mình để chụp những tấm ảnh tương tự.

Cũng trong cuốn sách nói trên, có một bản đồ “Miền Đông-Bắc” đăng ở trang 41. Nhìn vào tấm bản đồ này, chúng ta thấy địa điểm Thác Bản Giốc nằm trong nội địa nước ta. Mặc dù đây chỉ là một tấm bản đồ vẽ tay, nhưng một khi tác giả (vốn là một nhà địa lý học nổi tiếng của miền Bắc) đã dám ghi vị trí của thác nước như thế, chắc hẳn ông phải dựa vào tài liệu địa lý chính xác cùng với sự kiểm tra thực địa. Vì vậy, có thể coi đây là một tài liệu đáng tin cậy.

2) Tác giả Trương Nhân Tuấn ở hải ngoại tìm được một cuốn sách xuất bản năm 1895 có tên là Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si (Ở Bắc Kỳ và trên vùng biên giới Quảng Tây) của Thiếu tá Famin – Phó Chủ nhiệm Ủy ban cắm mốc biên giới Trung-Việt năm 1894 [7]. Tại trang 12 và 13 có đoạn viết về Thác Bản Giốc:

“Trong phần phía Bắc (của khu quân sự thứ hai, Deuxième Territoire) [8], dòng sông xinh đẹp mang tên Qui-Thuận chảy ngang qua đó theo hướng Phủ Trùng Khánh. Đây là một phụ lưu trực tiếp của sông Tây Giang (Si-Kiang). Dòng sông này rộng 60 m, đi vào đất Bắc Kỳ bằng cửa Ai Lung và ra khỏi nơi đây (để vào đất Trung Hoa) tại một điểm gần đồn Trung Hoa có tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn cực kỳ phì nhiêu.

Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m. Cột nước khổng lồ rơi ầm ầm xuống một bồn nước thứ nhất, từ đó nó nảy lên thành những chùm tia nước sủi bọt trên những bậc thang đá vôi nhẵn bóng. Vào mùa mưa, thác nước này trưng ra một dáng vẻ tuyệt vời, tiếng động của thác nước có thể nghe được từ xa và dội vào những vách núi nghe như tiếng sấm, trong khi những đám mây hơi nước hình thành ở vùng lân cận và tan ra thành một đám mưa nhỏ thật sự”.
Trong đoạn văn này, cần chú ý đến câu: “Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m”. Câu này cho thấy “thác nước tuyệt đẹp” (tức Thác Bản Giốc) cách điểm dòng sông Qui Thuận (tức sông Quây Sơn) rời lãnh thổ Việt Nam khoảng 2 km. Nói cách khác, ở bờ trái (tả ngạn) của sông, có một dải đất dài khoảng 2 km thuộc lãnh thổ Việt Nam. Như thế trong khoảng 2 km tính từ Thác Bản Giốc, đường biên giới không thể là trung tuyến của dòng sông như “cách thức phân giới” mà các nhà ngoại giao của hai nước đã “sáng tạo” ra dựa theo Hiệp ước 1999.

(Còn tiếp)



Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012,
Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

GS. Nguyễn Minh Thuyết nói về “trí thức trùm chăn”

Bài đăng trên Bee.net.vn 31/01/2012 08:56:27

- Trong cuộc trả lời báo chí mới đây, GS Ngô Bảo Châu đưa ra quan điểm riêng về trí thức. Ông cho rằng, “giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội”.

Đã có nhiều ý kiến trái chiều liên quan đến quan điểm này. Chúng tôi có cuộc trò chuyện cùng GS. Nguyễn Minh Thuyết nhằm cung cấp thêm cho độc giả một góc nhìn nữa về trí thức.


http://bee.net.vn/dataimages/201201/original/images834920_Minh_Thuyet.jpg
GS Nguyễn Minh Thuyết



Phản biện xã hội không phải tiêu chí của riêng trí thức!

“Trí thức không nhất thiết phải là người đưa ra phản biện xã hội. Tuy nhiên, họ là những người hiểu biết, nhạy cảm thì việc đưa ra phản biện là điều cần thiết và cần được khuyến khích. Có điều, xã hội ta chưa cởi mở về tư tưởng. Xã hội đó là dở chứ không phải là hay. Phản biện đâu phải chỉ có chê? Nếu chỉ thích nghe khen thì không ổn”, GS Nguyễn Minh Thuyết.

Thưa ông, trong cuộc trả lời báo chí mới đây, GS Ngô Bảo Châu cho rằng không thể “coi phản biện xã hội như chỉ tiêu để được phong hàm “trí thức””, và “giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội”. Quan điểm của ông thế nào về điều này?

Trước hết, tôi cho rằng, chúng ta cần tôn trọng tự do ngôn luận của mỗi người. Thứ nữa, ý kiến bàn về trí thức hiện nay chỉ thể hiện những quan điểm cá nhân, thường xuất phát từ hoạt động, kinh nghiệm thực tế, thậm chí kỳ vọng của mỗi người; trong khi định nghĩa về trí thức rất khó vì trí thức là một tập hợp mở, chứ không phải là một giai cấp như nông dân, công nhân.

Tôi đồng tình với GS Châu rằng “trí thức là những người hoạt động trí óc”, nhưng nói thế cô đọng quá. Tôi hiểu trí thức là những người lao động trí óc chuyên nghiệp mà sản phẩm của họ mang tính sáng tạo cao. Trí thức là người có nhận thức sâu sắc, có tư duy độc lập, sáng tạo nên thường rất nhạy cảm trước các vấn đề. Hiếm có trường hợp nào mà trong lúc xã hội, nhân dân đòi hỏi có sự phản biện, xây dựng mà trí thức không nhận ra. Trí thức càng lớn thì càng quan tâm đến các vấn đề của xã hội, càng đưa ra những ý kiến sâu sắc, xác đáng, có tác dụng thức tỉnh xã hội.

Nói như ông thì trí thức nào cũng quan tâm đến vấn đề của xã hội?

Không hẳn thế. Vẫn có một bộ phận trí thức chỉ chú tâm vào công việc chuyên môn của mình mà ít quan tâm đến các vấn đề của đời sống, ít đưa ra những ý kiến phản biện xã hội. Đó là một thực tế. Nhưng không thể vì thế mà nói rằng họ không còn là trí thức nữa, nhất là khi những nghiên cứu của họ có ích cho xã hội.

Theo ông, phản biện xã hội có phải là một tiêu chí của trí thức?

Tôi cho rằng phản biện xã hội là một phẩm chất của những người có hiểu biết, có trách nhiệm với xã hội, chứ không nhất thiết là của trí thức. Như tôi đã nói, phần lớn trí thức với sự nhạy cảm của mình thường nhận ra những vấn đề bức xúc trong xã hội. Tuy nhiên, không phải trí thức nào cũng dám nói. Và việc nói lên ý kiến phản biện không phải chỉ có ở trí thức.

Tôi nhớ có một nông dân nói trên báo chí về vấn đề thu nhập bình quân hiện nay. Ông lấy ví dụ: nói bình quân 2 người ăn một con vịt nhưng có khi một người ăn cả con, còn người kia chẳng được miếng nào. Như thế, rõ ràng cách tính thu nhập bình quân nhiều khi không phản ánh đúng thực tế. Phản biện như vậy là sắc sảo, đâu chỉ có trí thức mới nói được?

Nhưng người dân thường kỳ vọng vào giới trí thức. Và giới trí thức là những người được đào tạo, có trình độ hiểu biết, cần xác định trách nhiệm xã hội của mình. Các cụ có câu “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.” Người dân thường còn thấy trách nhiệm của mình với đất nước thì những người được ăn học đến nơi đến chốn, đi nhiều hiểu rộng lẽ nào lại có thể thờ ơ với những gì đang diễn ra quanh mình, quan hệ tới đời sống dân mình, tương lai con cháu mình, vận mạng dân tộc mình?

Thời nào cũng có “trí thức trùm chăn”

Thế nhưng thực tế như ông vừa nói vẫn có bộ phận trí thức không lên tiếng phản biện. Theo ông thì vì sao?

Đó là những trí thức trùm chăn. Đến phản biện khoa học những trí thức này cũng còn dè dặt, nói gì phản biện xã hội! Không dám phản biện thường là do ngại đụng chạm, sợ ảnh hưởng tới quyền lợi của mình. Đó là hiện tượng thường thấy ở những nơi chưa cởi mở về tư tưởng. Nhưng nguyên nhân sâu xa là những trí thức trùm chăn không ý thức được trách nhiệm của mình với xã hội.

Đối tượng này có nhiều không, thưa ông?

Không riêng gì trí thức mà trong xã hội luôn có những bộ phận trùm chăn. Thời nào cũng có chứ không phải chỉ bây giờ. Con số này bao giờ cũng chiếm số đông. Như thời Pháp thuộc cũng có nhiều trí thức đi theo cách mạng, nhưng cũng rất nhiều trí thức đứng bên ngoài. Không phải tất cả những trí thức này không nhận ra lẽ phải. Nhưng họ không dám dấn thân, không đủ bản lĩnh nói lên tiếng nói phản biện hoặc hành động.

Trí thức không dám dấn thân, không đủ bản lĩnh để phản biện? Theo ông thì nguyên nhân là do đâu?

Có thể do năng lực, nhất là đối với các trường hợp chạy bằng, chạy chức.

Việc xã hội đặt kỳ vọng vào giới trí thức phải chăng là một gánh nặng?

Đúng thế. Là trí thức, nhất là khi đã có tên tuổi thì trách nhiệm với ngành, với xã hội rất lớn, rất nặng nề. Nhưng chính sức ép của dư luận, của xã hội cũng tạo thành động lực để người trí thức vươn lên, hoàn thành trách nhiệm của mình.

Phải đổi mới ở khâu thực thi

Ông nhìn nhận thế nào về những ý kiến phản biện của giới trí thức trong thời gian qua?

Thời gian qua, trước nhiều dự án, nhiều vấn đề xã hội, giới trí thức đã có những ý kiến phản biện rất sâu sắc, kiên quyết, kịp thời. Những ý kiến đó có tác động tích cực đối với nhân dân và với các cấp lãnh đạo, rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, như tôi nói lúc nãy, chúng ta chưa cởi mở về tư tưởng nên chưa thật sự tạo điều kiện để trí thức tham gia phản biện.

Theo ông, để giới trí thức ngày càng thể hiện vai trò phản  biện, cần phải làm gì?

Tôi cho rằng mặc dù chính sách cần tiếp tục được hoàn thiện nhưng cần phải đổi mới ở khâu thực thi chứ không phải ở chính sách. Thực tế, ở nước ta, khoảng cách từ văn bản nghị quyết, pháp luật đến thực thi thường rất xa. Ví dụ, Hiến pháp xác định nhiều quyền tự do của người dân nhưng thực thi như thế nào? Hay nói một chuyện đơn giản, pháp luật về giao thông quy định rất đầy đủ, nhưng nếu nạn tham nhũng, mãi lộ không chấm dứt thì làm sao thi hành pháp luật được?

Vâng, xin cảm ơn ông!

Bài: Thanh Thủy – Thu Huyền, Ảnh: Trần Hải
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

https://lh5.googleusercontent.com/-o6jgPIsUY0I/Tz8F4cG0DVI/AAAAAAAAIkM/M0Fb9h3H1Xk/s400/Protect_Your-_Intellectual_Property.jpg

Trí Thức Trùm Chăn

Co ro kiến thức, óc trùm chăn
Sợ gió, lo mưa, ngại khó khăn.
Thỏ thẻ im re che chắn ghế,
Trầm tư lưỡng lự giữ gìn bằng.
Già chờ mở lối mòn hai mắt,
Trẻ đợi đưa đường rụng hết răng.
Gặp bọn vắt chanh rồi bỏ vỏ
Làm sao có thể kịp ăn năn?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

Sự thật về thác Bản Giốc

Một điều đáng chú ý khác trong đoạn văn này: tên sông được ghi là Qui-Thuan (Qui-Thuận). Trong bài viết “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, dựa trên tài liệu của nhà Thanh, ông Trương Nhân Tuấn cho biết sông Long (tức Tả Giang) có một phụ lưu tên là sông Qui Thuận và ở sát biên giới Việt Nam có một châu tên là Châu Qui Thuận 歸順州 [9]. Điều này phù hợp với Đại Nam Nhất Thống Chí, vì sách này cho biết giáp với Phủ Trùng Khánh về phía bắc là “châu Qui Thuận thuộc phủ Trấn Yên nước Thanh” [10]. Chúng ta có thể phỏng đoán: tên của dòng sông bắt nguồn từ tên của địa phương (châu Qui Thuận) – nơi phát nguyên của sông. Trong các bản đồ cũ, tên phiên âm la-tinh của sông Quây Sơn là Kouei Chouan; nhưng trong các tài liệu của Trung Quốc ngày nay, tên của dòng sông Quây Sơn là Guichun, 歸春河, đọc theo âm Hán-Việt là “Qui Xuân hà”.

3) Trong số các bưu ảnh do nhà nhiếp ảnh Pierre Dieulefils chụp, chúng ta tìm thấy tấm ảnh mang số 832. Tấm ảnh này được ghi chú như sau: “TONKIN – Région de Cao-Bang – Cascade de Ban-Giot – Passage du gué par une compaghie de tirailleurs tonkinois” (BẮC KỲ – Vùng Cao Bằng – Thác Bản Giốc – Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông).
Nhìn vào tấm bưu ảnh, chúng ta thấy những người lính Việt dưới sự chỉ huy của một người Pháp đang lội qua sông từ phía bên kia (tả ngạn) vào mùa nước cạn. Thác trong ảnh là thác chính ba tầng chứ không phải thác phụ ba dòng. Điều này chứng minh bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) ngay dưới chân thác là đất của Bắc Kỳ (Việt Nam) chứ không phải đất của Trung Quốc, vì thế chỉ huy người Pháp và binh lính người bản xứ mới có thể đi tuần tra bên kia bờ sông và từ bên đó trở về.
3) Trong bài viết “Tấc đất tấc vàng” được công bố vào năm 2005 [11], ông Hàn Vĩnh Diệp – một đảng viên ĐCS, cán bộ hưu trí, người đã từng nhiều năm công tác ở vùng Cao Bằng trước năm 1975, kể lại:
“Năm 1965 chúng tôi được tham gia đoàn khảo sát thực tế để biên soạn sách giáo khoa – Tập đọc cấp I của Khu giáo dục Khu tự trị Việt Bắc. Hai khu giáo dục ngoài nhiệm vụ biên soạn sách giáo khoa vở lòng – cấp I tiếng Thái, Mèo, Tày – Nùng; còn phải soạn cả sách giáo khoa Tập đọc tiếng Việt. Một trong những điểm khảo sát đợt ấy là Kênh Copáo và thác Bản Giốc thuộc huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng. Kênh Copáo lấy nguồn nước từ một đầm trũng bên kia biên giới Trung Quốc (huyện Tỉnh Tây, Quảng Tây) cho các cánh đồng phía Bắc huyện Trùng Khánh. (…) Đến thác Bản Giốc, chúng tôi sang cả bên bờ Bắc sông Quây Sơn, vào sâu hơn một cây số vẫn là làng bản dân ta”.
4) Trong bài báo đăng trên Vietnam Net đã được trích dẫn, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao – thành viên đoàn đàm phán, đã tiết lộ: trên cồn Pò Thoong vẫn còn “dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960”.
Nếu xem lại “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, memorandum) năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy có đoạn: “Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc” [12].
Như vậy, trạm thủy văn này rõ ràng là do phía Việt Nam xây dựng, bởi vì trước năm 1976, cồn Pò Thoong vẫn còn thuộc về lãnh thổ Việt Nam và “chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó”. Đây chính là một bằng chứng hùng hồn về chủ quyền của ViệtNamđối với cồn Pò Thoong.
Việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và phá hủy trạm thủy văn ở nơi đó không thể che lấp được sự thật: trước đó ViệtNamlà chủ sở hữu của cồn này, và đương nhiên là chủ sở hữu của toàn bộ Thác Bản Giốc. Toàn bộ hồ sơ về việc thành lập và quá trình hoạt động của trạm thủy văn chính là một bằng chứng về chủ quyền của ViệtNam. Điều này chứng tỏ cột mốc 53 nằm sai vị trí, và việc nó bị dời đến địa điểm hiện nay là do phía Trung Quốc thực hiện sau khi đã chiếm cồn Pò Thoong.
Ngược lại, nếu khẳng định như ông Lê Công Phụng rằng cột mốc 53 đã tồn tại nơi đó (trước mặt cồn Pò Thoong) từ khi ký hiệp định Pháp-Thanh thì kẻ xâm chiếm cồn Pò Thoong, vi phạm hiệp định Pháp-Thanh chính là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi cho xây dựng trạm thủy văn vào thập niên 1960. Khi công bố điều này, không lẽ ông Lê Công Phụng muốn chuẩn bị cho tình huống Đảng cộng sản Việt Nam sẽ công khai xin lỗi Đảng cộng sản Trung Quốc về việc xâm chiếm cồn Pò Thoong vào thập niên 1960?
Tóm lại, từ chỗ là một thác nước hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam, sau hiệp ước 1999 một phần thác chính lại trở thành sở hữu của Trung Quốc. Từ chỗ toàn bộ bờ phía bắc tính từ phía trên thác cho đến tận chân thác đều là của Việt Nam, ngày nay toàn bộ bờ bắc – tính từ cột mốc 835 mới cho đến hạ lưu, lại nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. Sự thay đổi kỳ quặc này nhất định là có liên quan đến cái cột mốc số 53 gây bất ngờ nói trên.
Để hiểu rõ sự thật, chúng ta cần tìm hiểu cột mốc số 53, đúng hơn là vị trí của cột mốc 53. Phải chăng nó vẫn nằm ở vị trí đó từ khi có hiệp định Pháp-Thanh như các vị chức sắc Bộ Ngoại giao nước ta vẫn khăng khăng khẳng định? Hay nó là một thứ “cột mốc có chân” có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác theo thời gian?
4. Đâu là vị trí thật sự của cột mốc số 53?
Nhìn vào tấm bản đồ trích từ Bản đồ giao thông năm 2004 (ảnh 16), chúng ta thấy dòng chính của sông Quây Sơn chảy vào lãnh thổ Việt Nam tại một điểm gần cửa khẩu Pò Peo và rời lãnh thổ nước ta tại một điểm gần cửa khẩu Lý Vạn. Điều đáng chú ý là tại một điểm ở gần Thác Bản Giốc, dòng sông lại trở thành đường biên giới (có nghĩa là trung tuyến của dòng sông chính là đường biên giới). Điểm đó có liên quan đến cột mốc số 53, vì thế cột mốc này là căn cứ chủ yếu để xác định chủ quyền đối với Thác Bản Giốc. Nói cách khác, nếu cột mốc này bị dời đến một vị trí khác thì chủ quyền của ViệtNam đối với Thác Bản Giốc sẽ bị ảnh hưởng.
Trong khi sưu tầm tài liệu về Thác Bản Giốc, tác giả Trương Nhân Tuấn đã tìm được một số chứng cứ quan trọng liên quan đến vị trí của cột mốc số 53 [13]:

- Trước hết là biên bản Pháp-Thanh ký ngày 19-6-1894 trong đó xác định: cột mốc số 53 có tên là Pan-Ngô (Bách-Nga Khẩu百峨口 ), được cắm “ bên lề một con đường, ở phía Tây-Nam và trên phần nối dài của một khu rừng nhỏ” (Au bord du chemin et au SO et sur le prolongement d’un petit bois). Cột mốc số 54 có tên là Lung Trang (Lũng Tằng Sơn 隴曾山) được đặt tại vị trí “giữa chân của các núi đá và ranh giới của các ruộng lúa phía trước mặt Ban Mong” (Entre le pied des rochers et la limite des cultures en face Ban-Mong).

- Cuốn “Nhật Ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng-Ban đến Ðèo-Lương, nhân dịp đảm nhận việc cắm mốc (28-6-1894)”, trong đó có một đoạn xác định vị trí của các cột mốc, được trích dẫn như sau: “Après la porte de Dốc-Khánh la frontière est tracée à l’intérieur du massif rocheux, laissant au Tonkin de petit cirques peu importants débouchant dans Lung-Piac, près les deux cirques difficilement accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que traversent les chemins conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55) jusqu’à l’abornement, les habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient l’impôt aux Chinois. La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance constante. (…) A partir de la belle cascade de 50m qui se trouve un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré entre des mamelons élevés” (Đoạn văn này sẽ được dịch ở phần sau).
Câu hỏi đặt ra là: cột mốc 53 nằm ở thượng lưu hay hạ lưu của thác? Theo suy luận của ông Trương Nhân Tuấn thì  “cột mốc chỉ có thể ở phía hạ lưu của thác Bản Giốc”. Thế nhưng điều này lại mâu thuẫn với ý kiến của trung úy Détrie vì ông này  ghi nhận thác nước “nằm cách một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53” (qui se trouve un peu en aval de la borne 53), nghĩa là “cột mốc nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác nước”.

- Về bản đồ: có một tấm bản đồ tìm được trong một thư khố ở Pháp liên quan đến vùng này. Theo ghi chú của tác giả, đây là bản đồ có tỷ lệ 1/50.000 do Nha địa dư Đông Dương (Service géographique de l’Indochine) thực hiện. Thật ra, nếu so sánh tấm bản đồ này với các bản đồ của miền Nam Việt Nam phát hành trước năm 1975, chúng ta có thể thấy rõ đây không phải là bản đồ tỷ lệ 1/50.000.

(còn tiếp)

Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012,
Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

letam

                     TIN NÓNG GỬI ÔNG ĐỖ HỮU CA

  Xin cấp báo ông Đỗ Hữu Ca, giám đốc sở công an Thành phố Hải Phòng tin nóng sau đây:

Chiều hôm qua ( 17/2) chị Hiền về bệnh viện thành phố Hải Phòng theo đứa con bị kẹp vào bánh xe hôm tết để chuẩn bị thủ tục phẫu thuật vì nghi bị nhiễm trùng, chị Thương thì lên huyện có công việc, lợi dụng thời điểm ngôi nhà lều không còn người, ai đó đã đột nhập vào phá phách căn lều, đập nát cả bàn thờ, vứt cả di ảnh bố anh Vươn xuống hồ. Khi trở về, các chị đau đớn và phẫn uất nhìn thấy chỗ ở tạm của mình tan hoang.

Rõ ràng đây là hành động trả thù hèn hạ và đê tiện. Bọn phá căn lều tạm nhà anh Vươn không những chỉ để trả thù anh Vươn mà muốn sỉ nhục Sở công an, chính quyền Hải Phòng, rộng ra là chế độ ta. Đề nghị ông khẩn cấp triều tra làm rõ, việc này trong tầm tay ông.

Xin gửi ông những hình ảnh mới nhất lấy từ blog Nguyễn Quang Vinh. Từ chỗ ông về nhà anh Vươn không đầy bốn chục cây. Dân rất muốn nhìn thấy ông có mặt tại hiện trường lúc này, thưa ông.

http://quechoablog.files.wordpress.com/2012/02/cimg5393.jpg?w=500&h=375<br/>
Chị Thương lội xuống hồ, vớt bàn thờ lên

http://quechoablog.files.wordpress.com/2012/02/cimg5397.jpg?w=500&h=375<br/>
Cả lư hương cũng bị chúng nó đập tan nát

http://quechoablog.files.wordpress.com/2012/02/cimg5404.jpg?w=500&h=375<br/>

http://quechoablog.files.wordpress.com/2012/02/cimg54051.jpg?w=500&h=375
Căn lều dựng tạm cũng bị chúng nó phá nát

http://quechoablog.files.wordpress.com/2012/02/cimg5400.jpg?w=500&h=375
Chú chó què chân thoát chết trong vụ cưỡng chế biết rõ mặt chúng nó tới phá

http://quechoablog.files.wordpress.com/2012/02/img_00911.jpg?w=500&h=375


Chị Thương nói, chiều hôm qua, khi chị về huyện, thì số công an xã này vẫn đang trực tại trụ sở này, án ngữ ngay trước lối vào đầm hồ nhà chị. Chị có hỏi ai đã phá lều, phá bàn thờ nhà chị, tất cả đồng thanh: Không biết. Không biết. Không biết

Nguyễn Quang Lập
 Vui là chính - Chính là vui!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Tuấn Khỉ đã viết:
GS. Nguyễn Minh Thuyết nói về “trí thức trùm chăn”

Bài đăng trên Bee.net.vn 31/01/2012 08:56:27

- Trong cuộc trả lời báo chí mới đây, GS Ngô Bảo Châu đưa ra quan điểm riêng về trí thức. Ông cho rằng, “giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội”.

Đã có nhiều ý kiến trái chiều liên quan đến quan điểm này. Chúng tôi có cuộc trò chuyện cùng GS. Nguyễn Minh Thuyết nhằm cung cấp thêm cho độc giả một góc nhìn nữa về trí thức.


http://bee.net.vn/dataimages/201201/original/images834920_Minh_Thuyet.jpg
GS Nguyễn Minh Thuyết



Phản biện xã hội không phải tiêu chí của riêng trí thức!

Gửi bạn TK một chuyên đề dưới đây của Giáo sư Chu Hảo để tham khảo thêm

Dân chủ và trí thức(*)


Chu Hảo


I. Định nghĩa và giới hạn

Trong chuyên khảo này những khái niệm về Dân chủ, Đoàn kết dân tộc, Đồng thuận xã hội và Trí thức được đề cập đến và thảo luận trong khuôn khổ sự hiểu biết của tác giả và được giới hạn trong nội dung hẹp của chuyên đề.
1. Dân chủ là một khái niệm rất rộng, đôi khi cũng mơ hồ, nhưng trong chuyên đề này chúng tôi chỉ giới hạn ở mấy điểm cụ thể và cơ bản sau đây:
a) Dân chủ và Tự do là hai khái niệm gắn liền nhau, cái này có trong cái kia. Tuy vậy Tự do có thể là khát vọng bẩm sinh của con người; nhưng Dân chủ thì phải được dạy, được học, được thực hành mới dần dần có được. Vì những điều kiện lịch sử cụ thể so với nhiều dân tộc khác, dân tộc Việt Nam ta có một thiệt thòi lớn là chưa bao giờ được huấn luyện và thực hành dân chủ một cách nghiêm chỉnh.
b) Muốn “phát triển tự do cho mỗi người để đảm bảo tự do cho mọi người” thì phải có phương tiện (cơ chế, thể chế...) thực hiện các quyền tự do ấy chính là Dân chủ. Dân chủ đồng thời cũng là phương tiện đảm bảo quyền bình đẳng của con người: Bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng trong cơ hội mưu cầu lợi ích riêng phù hợp với lợi ích của cộng đồng. Vì những lẽ đó, trong lý thuyết cũng như trong thực tiễn, Dân chủ thường được coi là điều kiện tất yếu cho phát triển bền vững, thường được coi là tỷ lệ thuận với phát triển bền vững. Tuy nhiên Dân chủ chỉ là điều kiện cần chứ không phải điều kiện đủ, bởi có khi có dân chủ (với những đặc trưng nêu ở phần sau) mà chưa có phát triển (chủ yếu là về kinh tế) hay cao hơn là phát triển bền vững (về cả ba mặt: tăng trưởng kinh tế, công bằng văn hóa - xã hội và bảo vệ môi trường).
c) Thể chế hay Nền Dân chủ có những đặc trưng phổ quát sau:
- Phổ thông đầu phiếu là quyền được bầu cử của tất cả mọi công dân để lựa chọn người vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của đất nước (quốc hội chẳng hạn). ở đâu không có phổ thông đầu phiếu thì ở đó chưa thể có Dân chủ. Nhưng thực hiện phổ thông đầu phiếu (trực tiếp hay gián tiếp) cũng mới chỉ là điều kiện cần, chứ chưa đủ để thực hành dân chủ. ở nước ta, cuộc tổng tuyển cử năm 1946 của chế độ Việt Nam dân chủ công hòa, do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, có lẽ là cuộc phổ thông đầu phiếu dân chủ nhất từ xưa đến nay.
- Các cơ quan Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Về hình thức, hiện nay ở nước ta có sự tách biệt giữa các quyền ấy. Nhưng ở nước ta, bao trùm lên tất cả là quyền lực thực sự và trực tiếp của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Công thức “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” có thể là thích hợp trong bối cảnh lịch sử cụ thể của riêng nước ta, nhưng đã không được thể chế hóa và thực hành một cách đúng đắn. Nhà nước pháp quyền vẫn là một mục tiêu xa vời đối với đất nước ta.
Mức độ cao nhất của Dân chủ là chấp nhận thể chế đa Đảng (có Đảng cầm quyền và Đảng đối lập) hoạt động bình đẳng trong khuôn khổ luật pháp, đồng thời có các lực lượng xã hội đối trọng (mà quan trọng nhất là xã hội dân sự và các phương tiện truyền thông đại chúng) hoạt động độc lập (chứ không đối lập), và bình đẳng với Nhà nước. Trong điều kiện hiện tại của nước ta, do hoàn cảnh lịch sử để lại, thể chế chính trị một Đảng có thể còn kéo dài, nhưng vẫn có thể cải thiện được hiện trạng Dân chủ ở nước ta với ba điều kiện sau. Một là trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam chấp nhận sự đa dạng ý kiến và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ dân chủ tập trung (Dân chủ có tập trung, chứ không phải tập trung là chính và có chút dân chủ!) để đảm bảo cơ chế quyền lực “thuận”(tức là Đại hội Đảng là cơ quan quyền lực cao nhất, sau đó lần lượt đến Ban chấp hành trung ương và Bộ chính trị) chứ không “nghịch” như hiện nay. Hai là phải quyết tâm xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh. Ba là phải thực sự tôn trọng Hiến pháp về quyền tự do ngôn luận và báo chí.
2. Đoàn kết dân tộc  có ý nghĩa là gắn kết mọi người trong cộng đồng xã hội của toàn dân tộc thành một khối thống nhất, hoạt động vì một mục đích chung. Như vậy phải có một mục đích chung của tất cả các thành viên xã hội thì mới có đoàn kết dân tộc. Nhưng Mục đích chung ấy chỉ có thể có được trên cơ sở  Đồng thuận xã hội, tức là trên cơ sở thống nhất ý kiến của toàn dân.
Thế nhưng trong thực tiễn, không có sự đoàn kết thì khó lòng đạt được sự đồng thuận để thực hiện một mục tiêu chung. Vậy nên Đoàn kết dân tộc và Đồng thuận xã hội vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả lẫn nhau.
Vì vậy mục đích chung mới là điều quan trọng nhất, nó phải là nguyện vọng của toàn dân tộc, mục đích chung ấy phải được đặt ra trên nguyên tắc: đặt quyền lợi của toàn dân tộc lên trên hết, lên trên mọi ý thức hệ, mọi chủ thuyết và mọi lợi ích của cá nhân và của nhóm xã hội khác nhau. Trong thời đại hiện nay mục tiêu Dân giàu, Nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh  hoàn toàn đáp ứng đòi hỏi của Đồng thuận xã hội và Đoàn kết dân tộc.
Mặt khác khối Đại đoàn kết dân tộc, đặc biệt là trong thời bình, chỉ có thể được duy trì bền vững và phát huy được sức mạnh nếu thể chế dân chủ (như được tóm tắt ở mục 1.a) được vận hành tốt. Cũng như vậy, không có dân chủ thì chỉ có thể có sự đồng thuận xã hội tức thời, ngắn hạn chứ không thể có sự đồng thuận xã hội bền vững.
3. Trí thức như được đề cập đến trong Nghị quyết của Trung ương 7 khóa 10 theo ý kiến của riêng tôi là không rõ ràng. Cái mà Nghị quyết gọi là “tầng lớp trí thức” thực chất là tầng lớp lao động trí óc có bằng cấp từ cao đẳng và đại học trở lên.
Thật ra ngay từ khi từ tầng lớp trí thức (intelligentsia) xuất hiện lần đầu tiên ở Nga vào nửa đầu thế kỷ 19, đã mang một ý nghĩa khá rõ ràng: đó là những người không chỉ có học vấn hay trình độ chuyên môn cao, mà hơn hết phải là những người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị - xã hội nóng bỏng của thời cuộc. Cũng trong tinh thần cách mạng ấy Karl Marx đã coi trí thức là những người có đủ tri thức để quan tâm và có chính kiến riêng đối với các vấn đề của xã hội nên họ phải là những người: “phê bình không nhân nhượng những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính quyền hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính quyền nào ”
Với những hiểu biết trên đây, chúng ta có thể suy ra rằng tầng lớp trí thức của xã hội có thiên chức sau: Tiếp thu và truyền bá tri thức hoặc/ và văn hóa ; Tạo các giá trị mới của tri thức hoặc/ và văn hóa; Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội; Dự báo và định hướng dư luận xã hội.
Ngày nay trong cụm từ “Liên minh Công - Nông - Trí” tôi ngờ rằng chúng ta đã dùng từ “trí” để chỉ những người lao đông trí óc (kỹ sư, bác sỹ, nhà văn, họa sỹ,v.v...) chứ không phải là trí thức theo cách hiểu thông thường của thế giới hiện đại. Nước ta có hai tổ chức được coi (gần như mặc nhiên) là các hội của giới trí thức, đó là Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Liên hiệp các hội Văn học và Nghệ thuật Việt Nam. Thật ra không hoàn toàn như vậy. Đó thực chất là các hội của những người thực hành chuyên môn của mình chủ yếu bằng trí óc. Trong số rất đông đó chỉ có một số là trí thức thực thụ mà thôi. “Một số” này đã quy tụ lại (chủ yếu là thông qua diễn đàn, dư luận) thành một tầng lớp trí thức với đúng nghĩa của nó hay chưa vẫn còn là một vấn đề cần được thảo luận.
Rốt cuộc thì câu hỏi “Ai là trí thức ?” vẫn còn bỏ ngỏ, nhưng đối tượng của Nghị quyết Trung ương khóa 10 là tầng lớp lao động trí óc, tầng lớp “có học” chứ không phải là tầng lớp trí thức như cách hiểu theo thông lệ thế giới hiện đại như đã nói ở trên

(Xem tiếp phần sau)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

II. Vai trò của tầng lớp trí thức

Ở đây tầng lớp trí thức được hiểu như ở Mục I.3, tức là tầng lớp tinh hoa trong số hàng triệu người lao động trí óc có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên. Đây cũng chính là tầng lớp tinh hoa của Dân tộc. Từ giữa thế kỷ 19, cùng với sự sáng tạo ra từ Intelligentsia người Nga đã coi “tầng lớp trí thức” là cơ quan nhận thức của cơ thể xã hội. Tầm quan trọng của tầng lớp trí thức đối sự tồn tại và phát triển của một dân tộc đã được họ (người Nga) tôn vinh như bộ não của một con người, tuy có thể là hơi quá đáng, nhưng dù sao cũng phản ánh được một thực tế không thể phủ nhận được rằng: không có các cá nhân trí thức thì không thể có các bước đột phá trong nhận thức của loài người về thế giới tự nhiên và về bản thân mình. Và do đó đã không có các tri thức mới, loài người hẳn đã không tiến bộ như ngày nay. Cần phải nói rõ rằng: tiếp thu truyền bá và tạo ra các giá trị mới của tri thức hoặc/và văn hóa là công việc chính của những người lao động trí óc ở mọi trình độ từ thấp đến cao. Nhưng chỉ những cá nhân có đầu óc sáng tạo, dám nghi ngờ, dám phản biện mới góp phần tạo nên các bước đột phá về nhận thức. Họ là trí thức. Lịch sử các nền văn hóa nói chung hay nói riêng của các nền Văn học - Nghệ thuật, Khoa học - Kỹ thuật, Triết học – Tư tưởng... của các dân tộc đều gắn liền với các nhân vật kiệt xuất là các các nhân trí thức (dù đã tồn tại hoặc chưa tồn tại một tầng lớp trí thức thực thụ).
Ngày nay, loài người đã bước sang một thời đại mới, thời đại văn minh trí tuệ (sau văn minh Nông nghiệp và văn minh Công nghiệp) với nền kinh tế tri thức thì vai trò của tầng lớp trí thức càng trở nên quan trọng hơn. Trước hết là bởi vì khi tài nguyên Thông tin – Tri thức trở nên quan trọng hơn tất cả các loại tài nguyên khác thì lao động trí óc mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội hơn nhiều so với lao động chân tay. Số người lao đông trí óc ngày càng nhiều hơn số người lao động chân tay. Sau nữa là bởi vì lao động trí óc càng đông, càng có chất lượng và hiệu quả hơn, thì tầng lớp tinh hoa của nó - tầng lớp trí thức càng cần phải tỏ rõ vai trò phản biện và định hướng để góp phần liên kết và tổ chức tri thức phục vụ phát triển xã hội.
Ở Việt Nam chúng ta hiện nay vai trò của tầng lớp có học, đặc biệt là có bằng cấp trong giai đoạn Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa và hội nhập quốc tế được đánh đồng với vai trò của tầng lớp trí thức. Điều này được quán triệt trong Nghị quyết trung ương 7 về trí thức. Vấn đề được đặt ra là: ở nước ta hiện nay tuy có thể có những cá nhân trí thức (ở thời nào cũng có), nhưng họ đã điều kiện xã hội – kinh tế - chính trị để liên kết được với nhau (chủ yếu thông qua diễn đàn và giao lưu tư tưởng) thành một tầng lớp xã hội hay chưa? Và thực sự thì hệ thống chính trị của chúng ta có cần đến hoặc có chấp nhận hay không sự tồn tại của một tầng lớp trong xã hội dân sự dám thể hiện chính kiến của mình một cách công khai, thẳng thắn, cho dù chính kiến có thể bị chính quyền đương thời phản ứng một cách quyết liệt? Đó là những vấn đề cần được nghiên cứu thấu đáo và cẩn trọng, chứ không thể trả lời một cách hàm hồ.

III. Thực trạng tầng lớp trí thức và thể chế dân chủ

1. Quan niệm về trí thức như được trình bày ở Mục I.3 là phổ quát đối với các xã hội văn minh cận, hiện đại. Riêng ở nước ta, quan niệm này có lẽ chỉ thích hợp trong một giai đoạn phát triển ngắn ngủi, từ đầu đến giữa thế kỷ 20, khi xuất hiện tình huống giới trí thức mới (dùng chữ quốc ngữ) có cơ hội trở thành một tầng lớp xã hội khá độc lập với chính quyền về hoạt động nghề nghiệp và chính kiến. Ngoài giai đoạn này chúng tôi e rằng chưa bao giờ ở nước ta thực sự có một tầng lớp trí thức như cách hiểu thông thường của thế giới.
Thường ở ta trí thức được gán một cách không đúng cho những người “có học” chỉ xuất hiện ở xã hội Việt Nam ở buổi đầu công nguyên từ khi nhà Hán du nhập Nho giáo vào Việt Nam với mục đích giáo hóa và đào tạo quan lại bản xứ. Sau khi giành được độc lập vào năm 939 các triều đại phong kiến ngày càng tôn sùng Nho giáo; và đến đời nhà Trần (thế kỷ 13) thì Nho giáo đã được coi là hệ tư tưởng chính thống cho đến hết các triều Nguyễn (đầu thế kỷ 20). Suốt gần một nghìn năm ấy chỉ có một thứ được dậy và được học (một cách có hệ thống) là Nho giáo (khác với sự chuyên biệt hạn hẹp của Phật giáo và Đạo giáo). Các Nho sỹ sau khi đỗ đạt sẽ được bổ nhiệm làm các quan lớn nhỏ trong hệ thống cai trị của Nhà nước phong kiến. Các Nho sỹ thi trượt thì trở lại làng quê vừa dạy “chữ thánh hiền” như một kế sinh nhai, vừa “dùi mài kinh sử” đợi kỳ thi sau, đợi được đi làm quan để “cả họ được nhờ”!
Cái cơ hội “đổi đời” dường như duy nhất ấy đã tạo ra, một mặt là cái mà chúng ta vẫn thường tự ca ngợi là truyền thống hiếu học của dân ta, mặt khác, quan trọng hơn đã tạo nên sự lệ thuộc đến nô dịch của những người “có học” vào Nhà nước phong kiến. Và do đó, có thể nói rằng dưới các triều đại phong kiến ở nước ta chưa bao giờ tồn tại một tầng lớp trí thức theo cách hiểu đúng đắn của từ này. Các sĩ phu là những người “có học” có danh tiếng của các thời đại phong kiến, do vậy cũng chỉ gọi là các “quan văn” mang sứ mệnh “phò chính thống” mà thôi - họ không hẳn là trí thức (intellectuel), hoặc tầng lớp trí thức (intelligensia). Tuy vậy, cùng với tầng lớp Nho học bình dân ở thôn quê và các phật tử họ cũng góp phần hết sức quan trọng trong việc duy trì và phác triển nền văn hóa dân tộc.
Đến giữa thế kỷ 19 cùng với sự suy đồi của Triều Nguyễn, sự xâm lược của thực dân Pháp và bước đầu tiếp cận với nền văn minh công nghiệp phương tây, tầng lớp Nho sỹ ở nước ta đã phân hóa sâu sắc và xuất hiện những nhóm sỹ phu tiến bộ có đầu óc canh tân - tiền thân của nhóm trí thức đầu tiên của nước ta nửa đầu thế kỷ 20. Những nhân vật điển hình có thể kể đến là Vũ Tông Phan (1800 - 1851, cùng với Hội Hướng thiện); Nguyễn Trường Tộ (1828 -1871); Nguyễn Lộ Trạch (1852 - 1895); Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890); Phạm Phù Thứ (1820 - 1883)v.v...Đấy chính là những sỹ phu có đầu óc canh tân đầu tiên trong lịch sử nước ta, đặt nền móng cho cuộc vận động giải phóng dân tộc vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 dù là theo đường lối bạo lực, như các phong trào Cần vương (Phan Đình Phùng, 1844-1895), và Đông Du (Phan Bội Châu, 1867-1940); hay chủ trương tiến hành một cuộc cách mạng văn hóa - giáo dục như phong trào Duy Tân (Phan Châu Trinh, 1872-1920), và Đông kinh nghĩa thục (Lương Văn Can, 1854-1927).
Vào những năm đầu của thế kỷ 20, cùng với sự tàn lụi của chế độ phong kiến và sự thiết lập chế độ của thực dân, ảnh hưởng của tư tưởng Dân chủ tư sản và khoa học - kỹ thuật phương tây đã tràn vào xã hội Việt Nam thông qua Nhật Bản và Trung Hoa. Trong bối cảnh đó phong trào Duy Tân và Đông kinh nghĩa thục đã quy tụ được một tầng lớp sỹ phu trí thức bao gồm các nho sỹ cách tân (Huỳnh Thúc Kháng, 1876-1947; Trần Quý Cáp, 1870-1908; Đào Nguyên Phổ, 1861-1907 v.v...), và các trí thức mới dùng quốc ngữ và tiếng Pháp (Trương Vĩnh Ký; 1837-1898, Phan Khôi; 1887-1960; Nguyễn Văn Vĩnh1882-1936, Phạm Quỳnh; 1892-1945, Nguyễn Văn Tố; 1889-1947 v.v...). Đây chính là tầng lớp trí thức đầu tiên của nước ta.
Hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra cho một số người điều kiện có chỗ đứng khá độc lập với chính quyền, có thể sống bằng nghề lao động trí óc của mình chứ không nhất thiết phải ra “làm quan”, và tiếng nói của họ càng ngày càng có uy tín trong xã hội. Họ phần đông là người hành nghề tự do như bác sỹ, kỹ sư, luật sư, thầy giáo, nhà báo, nhà văn, hoạ sỹ, nhạc sỹ, và nghệ sỹ...Những phần tử ưu tú trong số đó chính là tầng lớp trí thức mới, và nhiều người đã đóng vai trò nòng cốt trong các tổ chức văn hóa hoạt động công khai. Đó là các hội, chẳng hạn Trí Tri, Khai trí Tiến đức, Truyền bá Quốc ngữ và Tự lực Văn đoàn v.v...Là các báo hoặc tạp chí, chẳng hạn Đông Dương, Nam Phong, Tiếng Dân, Tri Tân, Thanh Nghị, Khoa học v.v...Tình trạng này đã tiếp diễn cho đến năm 1945 khi cách mạng tháng 8 thành công Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ được tầng lớp trí thức ấy tham gia vào chính quyền cách mạng non trẻ của mình. Những nhân vật tiêu biểu như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Phạm Khắc Hoè, Vũ Đình Hòe ...(xuất thân từ các sỹ phu Nho học); Tạ Quang Bửu, Trần Đăng Khoa, Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Xiển, Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Huyên, ....(xuất thân từ tầng lớp trí thức “Tây học”) đã và sẽ luôn là tấm guơng mẫu mực về phẩm tính cao quý của người tri thức. Tiếc rằng từ đầu những năm 50 của đầu thế kỷ trước, ngay khi còn trong thời kỳ kháng chiến chống pháp, tầng lớp trí thức của chúng ta với những nhân cách văn hoá đẹp đẽ ấy, lại rơi vào một thời kỳ phát triển đặc biệt mà chắc còn cần phải tốn nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu một cách nghiêm túc sự tồn tại và vai trò của họ trong xã hội. Thời kỳ phát triển đặc biệt này có thể phân kỳ thành 3 giai đoạn 1945-1950 là thời kỳ cách mạng và kháng chiến nhưng hết sức “lãng mạn” của tầng lớp trí thức yêu nước, 1950-1965 là thời kỳ du nhập một cách hoàn chỉnh ý thức hệ đấu tranh giai cấp và phương pháp tư tưởng Maoist vào Việt Nam, qua các phong trào chính huấn tư tưởng, cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, phê phán nhân văn gia phẩm và chống “xét lại”; 1965-1975 là thời chiến mọi nhu cầu tinh thần và các giá trị văn hóa đều hướng vào mục tiêu giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước; 1976-1986 là thời kỳ quan liêu bao cấp, đặc biệt là về mặt tư tưởng; 1986 cho đến nay là thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Mỗi giai đoạn trên đây đều có hoàn cảnh chính trị - kinh tế - xã hội khá đặc biệt đối với sinh hoạt tinh thần – tư tưởng của tầng lớp có học. Sau giai đoạn giao thời 1945 – 1950, có lẽ tầng lớp trí thức trước cách mạng đã không tồn tại nữa. Từ năm 1950 trở đi tầng lớp có học ngày càng đông; các cá nhân trí thức thì lúc nào cũng tồn tại, có lúc hết sức hiếm hoi như giai đoạn 1950-1965; nhưng tầng lớp trí thức thì không tồn tại, ít nhất là cho đến trước đổi mới (1986). Từ năm 1986 đến nay tầng lớp có học có bằng cấp cao ngày càng đông nhưng phẩm tính tri thức thì chỉ thấy ở những cá nhân lẻ tẻ. Những cá nhân này ngày càng đông cùng với quá trình mở rộng dân chủ trong sinh hoạt xã hội, nhưng điều kiện để cho họ tự liên kết lại thành một tầng lớp có vị trí xác định trong xã hội dân sự thì chưa đủ.
Cần phải có những nghiên cứu nghiêm chỉnh về tầng lớp “có học” từ sau cách mạng tháng 8 cho đến nay để có được bức tranh hoàn chỉnh về trí thức Việt Nam từ khi có độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Muốn vậy ngoài việc thống kê đầy đủ sự biến động về số lượng và tính chất hoạt động của những người có học vấn nói chung, cần phải nghiên cứu hồ sơ của những trí thức tiêu biểu qua từng thời kỳ. Hồ sơ của những người như: Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di, Nguyễn Đình Thi...cũng như của Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường...sẽ nói lên được rất nhiều điều đáng quan tâm.

(xem tiếp phần sau)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

2. Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời đại nào cũng vậy, đều có tính cách chung là: Tôn thờ lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ; Độc lập tư duy; Hoài nghi lành mạnh; và Tự do sáng tạo. Tuy nhiên, mỗi dân tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có bản sắc riêng. Chúng ta thường nghe nói: trí thức Trung Hoa thâm thúy (thâm nho), trí thức Nhật khiêm tốn (đến khách khí), trí thức Nga sâu sắc đôn hậu, trí thức Mỹ thực dụng, trí thức Anh lạnh lùng tỉnh táo, trí thức Pháp hào hoa phong nhã, v.v... Vậy trí thức Việt Nam có đặc điểm gì? Chúng ta đã từng nghe nói đến tính cách “phò chính thống”; và tính cách “quan văn”, tựu chung lại là tính “thích được chính quyền sử dụng”. Có nhiều người nói là tính cách “tuỳ thời”, nghe có vẻ dễ chịu hơn chữ “cơ hội” hay là “hèn” mà một số bạn đồng nghiệp của chúng ta không ngại ngần khẳng định. Nguyên cớ gì mà phải “hèn”? Đã “hèn” làm sao có nhân cách? Thiếu nhân cách liệu có xứng đáng là trí thức? Nhiều ý kiến cho rằng bi kịch của giới trí thức Việt Nam chính là ở chỗ này! Nhưng như vậy có lẽ chưa được công bằng cho lắm! Bởi lẽ, còn có một thực tế khác nữa cần phải xem xét. Đó là tính cách uyển chuyển, kết hợp “hành” và “tàng” của Sỹ phu – Trí thức nước nhà. Điều kiện cho phép thì bung ra hoạt động; lúc khó khăn thì tạm ẩn dật chờ thời, có khi “tàng” ngay trong lòng cường quyền với tâm trạng “cấp lưu, dũng thoái” (trước giòng nước xiết, can đảm thoái lui). Thế nhưng gianh giới giữa thái độ đúng đắn này với cái sự hèn thật là mong manh; chỉ “tự mình, mình biết cho mình” chứ khó lòng mà phán xét từ phía ngoài. Vậy thực sự trí thức Việt Nam có phầm tính gì?
Phẩm tính cao quý nhất của ng trí thức là Tôn thờ lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ, không bị gò bó bởi ý thức hệ, dũng cảm đấu tranh cho lẽ phải, không khuất phục trước uy quyền và không bị tha hóa bởi danh lợi. Nếu trong một xã hội có nhiều người có học vấn cao đồng thời có những phẩm tính như vậy lại liên kết được với nhau (chủ yếu bằng diễn đàn và giao lưu tư tưởng chứ không phải bằng các hội đoàn) thành một tầng lớp, thì đấy là một xã hội dân sự lành mạnh, có nhiều tiềm năng phát triển.
Tạm gác sang một bên khái niệm “tầng lớp trí thức” như cần được làm rõ ở mục I.3, chúng ta hãy xem xét tầng lớp những người “có học” trong giai đoạn hiện nay phù hợp với đối tượng điều chỉnh của NQTW7 khóa 10. Trước Cách mạng tháng Tám, tầng lớp “có học”, như được xã hội đương thời công nhận, có thể bao gồm những người có học vấn từ trung học trở lên. Ngày nay, những người có bằng cấp từ Đại học, Cao đẳng trở lên được coi là tầng lớp “có học”. Con số này vào khoảng 2 triệu 6. Trong đó có bằng Tiến sỹ khoảng 16 nghìn, Thạc sỹ 20 nghìn, Giáo sư khoảng 1 nghìn 2 và Phó Giáo sư khoảng 7 nghìn. Lực lượng này nằm đông nhất là trong các cơ quan quản lý của Đảng và Nhà nước, sau đó là ở các trường học, bệnh viên, các lực lượng quân đội an ninh, và doanh nghiệp. Lực lượng này cũng được tập hợp trong một số Hội hoặc Liên hiệp hội như: Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam, Liên hiệp các Hội VH&NT Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam...
Những nét đặc trưng của tầng lớp này là gì? Ngoài những đặc tính được Đảng và Nhà nước và phần nào là xã hội thừa nhận là ưu điểm, là tích cực như: yêu và trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, với Đảng, với Chủ nghĩa xã hội; cần cù, thông minh, sáng tạo, v.v... thì những tiêu cực không thể phủ nhận được là hết sức điển hình. Đó là:
            a. Hời hợt trong tư duy và thiếu nghiêm túc trong nghiên cứu.
         b.Tính cơ hội, thực dụng và vụ lợi trong hành xử.
         c. Ưa thành tích và chấp nhận sự giả dối một cách dễ dàng.
         d. Thiếu tinh thần hợp tác và ít lòng vị tha.
3. Tất cả những mặt tiêu cực điển hình của tầng lớp có học nói trên đều xuất phát từ một nguyên nhân chính là sự mất dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng, trước hết trong nội bộ Đảng, rồi từ đó trong toàn xã hội. Sự mất dân chủ này đã bắt đầu từ đầu những năm 50 của thế kỷ trước, sau chiến dịch Biên giới, khi tư tưởng Mao Trạch Đông, luẩn quẩn trong vòng đấu tranh giai cấp, tràn vào Việt Nam theo con đường chính thống, được một bộ phận chủ chốt của Đảng tiếp thu và áp dụng một cách rốt ráo cho đến tận trước Đại hội VI. Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, phát huy dân chủ và tự do tư tưởng đã được Đảng đề sướng (qua chủ trương “cởi trói” của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh) và được toàn dân hân hoan đón nhận, nhất là tầng lớp “có học”, đặc biệt là giới văn nghệ sỹ “được cởi trói”. Nhưng tiếc rằng chỉ ít năm sau đó không khí dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng dần dần bị loãng hẳn đi cho đến trước Đại hội 10. Khi Đảng chủ trương lấy ý kiến của quần chúng đóng góp cho văn kiện Đại hội 10, bầu không khí dân chủ lại đuợc thổi vào một luồng sinh khí mới từ nhân dân. Tiếc rằng ngay sau Đại hội 10 cho đến nay, càng ngày càng có những biểu hiện đáng lo ngại về thực chất của nền dân chủ của chúng ta, về sự bóp nghẹt quyền tự do tư tưởng mà đã có một thời chúng ta định “cởi trói” cho nó.
Hai thí dụ điển hình sau đây có thể minh chứng cho sự lo ngại này:
a) Việc bắt giam một cách không bình thường và xử án một cách chưa có tính thuyết phục hai nhà báo của Thanh Niên và Tuổi Trẻ hồi giữa năm và cách chức các Tổng biên tập báo Đại Đoàn kết và Nhà xuất bản Đà Nẵng hồi cuối năm 2008, cùng với các vụ xử lý hành chính khác trong lĩnh vực báo chí và xuất bản ....đã làm cho bầu không khí tinh thần của toàn xã hội trở nên ngột ngạt.
Báo chí và xuất bản là mặt tiền, là thước đo của mỗi nền dân chủ. Chúng ta muốn xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì trước hết phải xây dựng được một nền báo chí và xuất bản dân chủ và công bằng. Sách và báo chí còn là vật mang, là phương tiện trường tồn của các nền văn hóa. Chúng ta muốn có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì một lần nữa, trước hết phải xây dựng được một nền báo chí và xuất bản tiên tiến và nhân bản. Những nhiệm vụ nặng nề ấy không phải của riêng ai mà của tất cả: Nhà nước, cộng đồng người viết và cộng đồng người đọc.
b) Thực hiện ý kiến chỉ đạo của chính phủ, Bộ KH & CN đã có Tờ trình Dự thảo Quyết định của Chính phủ về việc cấm các cá nhân được nghiên cứu một số lĩnh vực khoa học và công nghệ. Trong tờ trình này các lĩnh vực nghiên cứu về Khoa học xã hội và Nhân văn cấm không cho các cá nhân nghiên cứu là: Tôn giáo, Dân tộc học, Đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nướcv.v...Đây là một bằng chứng cho thấy sự vi phạm nghiêm trọng của cơ quan chính phủ đối với các quyền dân chủ và tự do của sơ đẳng con người. Các câu hỏi đặt ra là: Tại sao trong các lĩnh vực ấy chỉ có các tổ chức nhà nước còn các cá nhân và các tổ chức tư nhân lại không được nghiên cứu ? Công việc nghiên cứu chủ yếu là hoạt động tinh thần, diễn ra ở trong óc người ta thì làm sao mà cấm được ? Nếu người ta không công bố, hoặc không vi phạm luật báo chí và luật xuất bản thì kết tội gì cho người ta ?
Với một thể chế mà chúng ta tự coi là dân chủ như vậy thì làm sao có thể xây dựng được một xã hội dân sự lành mạnh, một đội ngũ trí thức có phẩm cách và một khối đại đoàn kết dân tộc và đồng thuận xã hội như ý chí của chúng ta được thể hiện qua các khẩu hiệu chính trị.

IV. Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành dân chủ.

1. Các bài học lịch sử.

Khẩu hiệu “Trí, phú, địa hào đào tận gốc, trốc tận dễ”, nghe nói có từ thời Xô Viết Nghệ tĩnh, nhưng hình như không có văn bản nào chứng tỏ đó là chủ trương chính thức của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên sau Cách mạng tháng 8, nhất là sau Đại hội lần thứ 2, nói chung khẩu hiệu này đã được thực hiện ở các mức độ khác nhau, trừ một số trường hợp được chính phủ Cụ Hồ trọng dụng, nâng đỡ ngay từ đầu hoặc có hoàn cảnh đặc biệt mà cách mạng không thể bỏ qua. Cùng với thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chúng ta đã trả giá đến tận ngày nay cho thái độ kỳ thị của cách mạng đối với các tầng lớp trí thức, công thương gia và địa chủ.
Thái độ kỳ thị này cũng giống hệt như thái độ của những người cộng sản Nga từ sau cách mạng tháng 10 đối với tầng lớp trí thức của nước họ. Ngay sau cách mạng tháng 10, hàng ngàn gia đình trí thức Nga đã buộc phải lưu vong ra nước ngoài. Số còn lại hầu hết đã trở thành đối tượng của cách mạng và dần dần không còn tồn tại như một tầng lớp xã hội nữa: Số muốn giữ nhân cách trí thức thì bị đàn áp không những về mặt tư tưởng mà thậm chí bị tù tội ở các khu cải tạo; số khác tự đánh mất mình bằng thái độ “chùm chăn” hoặc cơ hội chính trị. Trong cuốn sách “Về trí thức Nga”(ở mục Tài liệu tham khảo) các tác giả cũng phân tích khá sâu sắc sự hình thành về phẩm chất và thái độ chính trị của tầng lớp có học (mà có người gọi là “trí thức nửa mùa”) trong suốt thời kỳ Xô Viết cũ. Họ chỉ ra rằng nhà nước Xô Viết cũ đã thực hiện chính sách “cào bằng giá trị” và “đồng nhất xã hội” để không còn tồn tại tầng lớp tinh hoa – tầng lớp trí thức không đáng tin cậy dưới con mắt của tầng lớp lãnh đạo. Một số nhỏ cá nhân trí thức tiêu biểu đã chỉ được sử dụng như những bông hoa làm cảnh cho chế độ mà thôi!
Tình trạng này không khác mấy so với các biến cố đã xảy ra ở Trung Quốc đối với tầng lớp trí thức, nhất là trong cuộc cách mạng văn hóa hồi những năm 60 và cuộc vận động dân chủ hồi cuối những năm 80.
Tầng lớp trí thức ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ ở Đông Âu cũng như vậy, cũng hầu như tan rã sau những biến cố thăng trầm.
Câu hỏi được đặt ra là: Vì sao tất cả các nước theo xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của các Đảng Cộng sản đều có một kết cục như nhau đối với tầng lớp trí thức như vậy? Câu trả lời có thể là: Vì trong tất cả các nước ấy đã không thực sự có tự do ngôn luận và tự do tư tưởng. Tình trạng đó đã bắt đầu từ khi Lê Nin áp dụng nguyên tắc Tập trung Dân chủ trong Đảng Cộng sản Nga trước và sau cách mạng tháng 10 và trở thành truyền thống của các Đảng Cộng sản. Thay vì Dân chủ Tập trung, tức là trước hết phải thực hành Dân chủ, tôn trọng các ý kiến khác nhau kể cả khi tuân theo nguyên tắc: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưói phục tùng cấp trên v.v...các Đảng Cộng sản đã áp dụng nguyên tắc Tập trung là chủ yếu, Dân chủ chỉ là thêm vào. Sau khi nắm chính quyền, nguyên tắc Tập trung Dân chủ sai lầm này lại được áp dụng trong toàn bộ máy Nhà nước và các đoàn thể chính trị – xã hội.
Cơ chế mất dân chủ này đã xiết chặt cái “vòng kim cô” mất lập trường giai cấp và chệch hướng XHCN lên toàn bộ sinh hoạt tinh thần – tư tưởng trong nội bộ Đảng và toàn xã hội ở tất cả các nước đã áp dụng mô hình chủ nghĩa theo kiểu Xô Viết.
Cơ chế dân chủ ấy với cái “vòng kim cô” ấy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước ta đặc biệt từ khi giải phóng miền Nam: Đất nước đã thống nhất, nhưng lòng dân vẫn chưa quy tụ về một cõi, khối đại đoàn kết dân tộc không được như chúng ta mong muốn, nhiều khi không có sự đồng thuận xã hội trong những vấn đề quan trọng của đất nước.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

2. Quan điểm và định hướng

Trong quan điểm và định hướng nhất thiết chúng ta phải khẳng định rằng: Muốn củng cố và phát huy đưa sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc thì phải có được sự đồng thuận xã hội trong những vấn đề cốt lõi của phát triển; Sự đồng thuận xã hội lại chỉ có thể đạt được khi mọi thành viên xã hội đều được tham gia thảo luận một cách công khai và bình đẳng, tức là phải thực hành chế độ dân chủ.
Đồng thuận xã hội phải được đặt trên nền tảng mục đích chung của dân tộc là xây dựng một quốc gia “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Mục đích chung ấy là quyền lợi của dân tộc, phải được đặt lên trên hết, trên mọi chủ thuyết, mọi ý thức hệ và mọi lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau.
Dân chủ không phải là sản phẩm chỉ của phương Tây (dù là Hy lạp cổ đại hay Tây âu và Bắc mỹ hiện đại) mà là sản phẩm của cả nhân loại, trong đó có phương Đông. Phật giáo hết sức đề cao Đối thoại và khoan dung cốt lõi sâu xa của Dân chủ. Dân chủ là một chế độ, trong đó mọi công dân thực có quyền được nhận xét, phê phán và chất vấn trực tiếp các cấp lãnh đạo (ở nước ta là của Đảng và của Nhà nước). Đúng như lời của Nelson Mandela nói: “Bất cứ ai muốn phát biểu có thể được nói. Đó là Dân chủ trong hình thức thuần tuý nhất. Có thể không tránh khỏi tình trạng dẳng cấp giữa vị trí quan trọng của người này với người kia, nhưng dù là lãnh tụ hay dân thường, tướng tá hay thày thuốc, buôn bán hay nông dân, đại chủ hay tá điền, người nào cũng được nói ....chính đó là nền tảng của Dân chủ: Tất cả mọi người đều được tự do phát biểu ý kiến của mình và tất cả đều bình đẳng như là công dân ”
Định hướng quan trọng nhất mà chúng ta cần là phải làm rõ nội dung công thức “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói: “Về công thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, chúng ta cũng đã từng đưa ra từ rất lâu, ngày nay cũng vẫn được nhắc lại như cũ. Nếu không làm rõ nội hàm của những mối quan hệ đó thì vẫn lâm vào tình trạng nói một đằng làm một nẻo. Chúng ta tiếp tục lúng túng và khó tránh khỏi sẽ lại phạm vào những sai lầm trong việc đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân, trong khi thường xuyên nói đến công thức kể trên như một cách để nói, chứ không phải nói để làm, nói vậy mà không phải vậy. Thực chất nội dung của công thức đó chính là đảm bảo quyền Dân chủ trong Đảng, xây dựng được Nhà nước pháp quyền vững mạnh, phát huy quyền tự do Dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp của Nhà nước CHXHCN Việt Nam”
Rút kinh nghiệm từ những bài học lịch sử , căn cứ vào những quan điểm và định hướng kể trên, để nâng cao chất lượng thực hành Dân chủ đối với đội ngũ trí thức (hay là “có học”như nói ở trên) cần thiết phải có các giải pháp sau đây:
3.1. Trước hết phải thực hành Dân chủ ở trong nội bộ Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, trên thực tế Đảng lãnh đạo và chi phối toàn bộ hoạt động của xã hội. Nếu trong Đảng mà không thực sự có Dân chủ thì ngoài xã hội không thể có Dân chủ.
Trước hết trong Đảng phải thực sự tôn trọng nguyên tắc Dân chủ Tập trung chứ không phải Tập trung Dân chủ. Đại hội đại biểu của Đảng là cơ quan quyền lực cao nhất, sau đó đến Ban chấp hành Trung ương rồi Bộ Chính trị. Nguyên tắc này lâu nay bị vi phạm, thường là Bộ chính trị quyết định những vấn đề quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước.
Trong nội bộ Đảng mọi đảng viên nên đều phải được phát biểu và bảo vệ chính kiến của mình song song với nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cần phải tôn trọng và tạo mọi điều kiện để ý kiến của thiểu số được thảo luận một cách công khai và bình đẳng.
Việc bổ nhiệm Đảng viên vào các vị trí lãnh đạo trong hệ thống Nhà nước phải được tiến hành một cách dân chủ hơn. Không áp đặt tiêu chuẩn cấp uỷ Đảng vào tiêu chuẩn lãnh đạo các cấp nhà nước. Một vị trí lãnh đạo nhà nước có thể tiến cử hai Đảng viên có ý kiến khác nhau về chủ trương về cách thực hiện để quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước lựa chọn,v.v....
3.2. Phải từng bước xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh
- Trong điều kiện chế độ chính trị có một Đảng lãnh đạo, những khiếm khuyết do chế độ toàn trị gây ra có thể được khắc phục, điều chỉnh một cách hữu hiệu bằng xã hội dân sự. Xã hội dân sự lành mạnh là đối trọng, chứ không phải là đối lập với Nhà nước. Sự đồng thuận xã hội được giải quyết chủ yếu thông qua xã hội dân sự .
- Trước mắt phải xây dựng được một Luật về Hội. Các hội nghề nghiệp và quần chúng là thành phần quan trọng nhất của xã hội dân sự . Quyền tự do thành lập Hội được ghi trong Hiến pháp phải được thể hiện đầy đủ trong Luật về Hội.
3.3. Phải thực sự tôn trọng quyền tự do ngôn luận của công dân như được ghi trong Hiến pháp.
Tự do ngôn luận là quyền được bình đẳng phát biểu công khai ý kiến của mỗi công dân. Đó là cốt lõi của Dân chủ, không có tự do ngôn luận thì không thể có đồng thuận xã hội một cách thực sự.
- Báo chí và xuất bản sách là công cụ chủ yếu để thực hiện tự do ngôn luận. Luật về Báo chí và Xuất bản cần được cải thiện hơn nữa, hướng tới chấp nhận nền báo chí và xuất bản tư nhân và mỗi cá nhân tự chịu trách nhiệm về các ấn phẩm của mình.


Hà Nội, tháng 1 năm 2009
Chu Hảo

--------------------------------------------------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo:
1. N.M Voskpesenskaia và N.B Davletshina, Chế độ Dân chủ Nhà nước và xã hội (Phạm Nguyên Trường dịch), NXB Tri thức, Hà Nội 2009.
2. Nhiều tác giả (Nga) Về Trí thức Nga, (La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch), NXB Tri thức, Hà nội 2009.
3. Việt Phương, Dân chủ , Tài liệu tham khảo cá nhân, Hà nội 9-2008
4. Trần Hữu Dũng, Dân chủ và phát triển, Thời đại mới, Số 10 tháng 3 năm 2007
5. Võ Văn Kiệt, “Đóng góp ý kiến vào báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi năm đổi mới”. 2006.

(*): Chuyên đề thuộc Đề tài KX.04 - 27/06 – 10

Xin lỗi Tuấn Khỉ và các bạn vì... "mất mạng" liên tục nên mãi mới post xong chuyên đề KX.04 nói trên.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Tuấn Khỉ

Cảm ơn Đồ Nghệ! Tuấn Khỉ xin trích riêng một đoạn:

"Vậy trí thức Việt Nam có đặc điểm gì? Chúng ta đã từng nghe nói đến tính cách “phò chính thống”; và tính cách “quan văn”, tựu chung lại là tính “thích được chính quyền sử dụng”. Có nhiều người nói là tính cách “tuỳ thời”, nghe có vẻ dễ chịu hơn chữ “cơ hội” hay là “hèn” mà một số bạn đồng nghiệp của chúng ta không ngại ngần khẳng định. Nguyên cớ gì mà phải “hèn”? Đã “hèn” làm sao có nhân cách? Thiếu nhân cách liệu có xứng đáng là trí thức? Nhiều ý kiến cho rằng bi kịch của giới trí thức Việt Nam chính là ở chỗ này! Nhưng như vậy có lẽ chưa được công bằng cho lắm! Bởi lẽ, còn có một thực tế khác nữa cần phải xem xét. Đó là tính cách uyển chuyển, kết hợp “hành” và “tàng” của Sỹ phu – Trí thức nước nhà. Điều kiện cho phép thì bung ra hoạt động; lúc khó khăn thì tạm ẩn dật chờ thời, có khi “tàng” ngay trong lòng cường quyền với tâm trạng “cấp lưu, dũng thoái” (trước giòng nước xiết, can đảm thoái lui). Thế nhưng gianh giới giữa thái độ đúng đắn này với cái sự hèn thật là mong manh; chỉ “tự mình, mình biết cho mình” chứ khó lòng mà phán xét từ phía ngoài. Vậy thực sự trí thức Việt Nam có phầm tính gì?

Phẩm tính cao quý nhất của ng trí thức là Tôn thờ lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ, không bị gò bó bởi ý thức hệ, dũng cảm đấu tranh cho lẽ phải, không khuất phục trước uy quyền và không bị tha hóa bởi danh lợi. Nếu trong một xã hội có nhiều người có học vấn cao đồng thời có những phẩm tính như vậy lại liên kết được với nhau (chủ yếu bằng diễn đàn và giao lưu tư tưởng chứ không phải bằng các hội đoàn) thành một tầng lớp, thì đấy là một xã hội dân sự lành mạnh, có nhiều tiềm năng phát triển."


Chu Hảo
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (1000 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [10] [11] [12] [13] [14] [15] [16] ... ›Trang sau »Trang cuối