Trang trong tổng số 133 trang (1325 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

(kỳ 3 trên báo Thanh Niên)

Link: http://www1.thanhnien.com...nhoa/2008/2/29/227923.tno

Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động
Cập nhật cách đây 5 giờ 52 phút
Hoàng Hải Vân

Chắc chắn văn hoá thời kỳ Hùng Vương đã rất phát triển với chữ viết và luật pháp, vấn đề chỉ còn là tìm được di chỉ khảo cổ.

Việc tồn tại của Việt luật (mà Mã Viện "điều tấu"), theo giáo sư Lê Mạnh Thát, cho phép chúng ta giả thiết rằng tiếng nước ta vào thời điểm đó (thời Hai Bà Trưng) đã phát triển đến một mức độ chính xác nhất định và có một hệ thống chữ viết đủ rõ ràng để ghi chép các quy định của luật pháp.  

Vấn đề là Việt luật hiện nay không còn, điều đó không có gì là lạ, vì chính Hán luật cũng không còn. Chúng ta cũng chưa tìm được chữ viết trong các di chỉ khảo cổ học. Điều đó cũng không có gì lạ và chưa tìm được không có nghĩa là nó không có, bởi ngay đến chữ viết thời Lý - Trần mà vẫn không tìm được trên các di chỉ khảo cổ học khai quật tại Hà Nội, trừ bia Lý Thường Kiệt và vài tấm bia ít ỏi khác tìm được ở rất xa ngoài Thăng Long. "Lịch sử Lý - Trần rực rỡ như vậy mà không còn một tấm bia nào ở thủ đô hết, chúng (nhà Minh) nhất định không để lại một vết tích nào của lịch sử. Đến nỗi, ông Hoàng Xuân Hãn phải đề nghị một hướng mới là tìm nó dưới nước, tức là khảo sát dưới hồ Tây", thiền sư Lê Mạnh Thát bức xúc. Nói thế để thấy kẻ thù thâm độc như thế nào trong mưu đồ triệt hạ văn hóa của dân tộc ta, triệt hạ tận gốc để dân ta không biết gốc tích của mình.  

Truy lại chữ viết của tổ tiên vì vậy mà trở nên thiên nan vạn nan. Nhưng không phải không có cách. Giáo sư Lê Mạnh Thát nói đầu thế kỷ trước, người Pháp đã khai quật một ngôi mộ cổ ở Bắc Ninh, phát hiện một thứ chữ viết trên gốm, "giống chữ Hán nhưng người Hán không đọc được", nghĩa là một thứ chữ viết theo kiểu Hán nhưng không phải chữ Hán, đó rất có thể là chữ Việt.

Theo ông, chúng ta hiện có hai nguồn tư liệu cơ bản:  Nguồn thứ nhất là Lục độ tập kinh cùng các dịch phẩm khác của Khương Tăng Hội là Cựu tập thí dụ kinh, An ban thủ ý kinh chú giải và Tạp thí dụ kinh do một tác giả vô danh thực hiện. Ông đã khảo cứu một cách công phu tường tận ngữ âm tiếng Việt còn lưu giữ trong những tập kinh này. Chẳng hạn, để diễn tả ý niệm "trong lòng", Lục độ tập kinh có hai dạng cấu trúc. Dạng thứ nhất tập trung ở quyển 7 có 7 trường hợp dùng "tâm trung" (cấu trúc ngữ âm tiếng Trung Quốc), dạng thứ hai có 8 trường hợp rải đều trên 6 quyển dùng từ "trung tâm" (cấu trúc ngữ âm tiếng Việt). Khảo sát tiếp Kinh Thi do Khổng Tử san định, trong 305 bài thì có 15 bài dùng "trung tâm". Sau Kinh Thi là Lễ ký do ảnh hưởng của Kinh Thi có 4 lần sử dụng "trung tâm". Và trong 300 năm đầu sau dương lịch, dạng "trung tâm" hầu như không được các học giả Trung Quốc dùng tới, nếu có vài trường hợp thì đều là ở dạng trích từ Kinh Thi hoặc nhái theo Kinh Thi mà thôi. Thế mà Lục độ tập kinh, với 91 truyện, có 8 lần sử dụng cấu trúc đó, tỷ lệ gần 1/10, cao hơn nhiều so với Kinh Thi (15/305). Trong 7 lần sử dụng dạng "tâm trung", có khả năng ban đầu cũng dùng dạng "trung tâm", sau bị điều chỉnh lại, là do nó chỉ tập trung trong quyển 7, là quyển chủ yếu trình bày về thiền, chắc chắn do nhu cầu tìm hiểu về thiền nên nó được lưu hành rộng rãi qua nhiều tay người đọc Trung Quốc và quá trình đó đã được nhuận sắc cho đến khi được khắc bản vào năm 927, trong khi cấu trúc dạng "trung tâm" tiếp tục tồn tại trong các quyển kia của Lục độ kinh. Trong Lục độ kinh còn có một số cấu trúc ngữ âm tương tự, ví dụ như cấu trúc "thần thọ" có nghĩa là "thần cây" chứ không phải "cây thần" như tiếng Trung Quốc...  

(còn tiếp)

Hoàng Hải Vân
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

(kỳ 4 trên báo Thanh Niên)

Link: http://www1.thanhnien.com...anhoa/2008/3/3/228408.tno

Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động
Cập nhật cách đây 14 phút
Hoàng Hải Vân

Thiền sư nổi giận

Ngoài việc phát hiện việc Lục độ tập kinh chữ Hán "không chấp hành" nguyên tắc ngữ âm tiếng Trung Quốc như trường hợp cấu trúc "trung tâm", trong khi dịch tập kinh này ra tiếng Việt hiện nay, giáo sư Lê Mạnh Thát còn phát hiện các trường hợp Khương Tăng Hội dùng "tá âm" hoặc dùng thuần túy tiếng Việt, chỉ phiên âm ra nó lập tức biến thành những câu tiếng Việt dễ hiểu. Ông lưu ý do Khương Tăng Hội "sinh ra, lớn lên và đào tạo thành tài ở nước ta" cho nên khi phiên dịch và trước tác dứt khoát không thể nào không chịu ảnh hưởng của tiếng Việt trên cả ba mặt ngữ vựng, ngữ pháp và cú pháp, song Khương Tăng Hội lại là người sử dụng tiếng Trung Quốc tới mức "nhuần nhuyễn của một diệu thủ" thì lẽ ra những ảnh hưởng đó phải bị hạn chế tối đa, thế thì tại sao Lục độ tập kinh tồn tại nặng nề và sâu đậm đến vậy những "tàn dư" của ngữ vựng, ngữ pháp và cú pháp tiếng Việt ? Chỉ có thể giải thích là tập kinh đó đã được dịch ra chữ Hán bằng một nguyên bản tiếng Việt.

Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát: "Khi đối chiếu cấu trúc "trung tâm" trong Lục độ tập kinh chữ Hán với ngôn ngữ của Trung Quốc, thầy viết rằng, "kiểm soát toàn bộ văn liệu" tiếng Trung Quốc (do người Trung Quốc viết) từ đầu thế kỷ thứ I sau dương lịch trở về sau cho đến thế kỷ thứ III, trong khoảng thời gian 300 năm, cấu trúc "trung tâm" chỉ được dùng đúng 3 lần, trong khi cấu trúc này được dùng phổ biến trong Lục độ tập kinh. Nói như vậy có nghĩa là để đối chiếu chỉ hai chữ "trung tâm", thầy đã phải đọc hết tất cả của Trung Quốc trong 3 thế kỷ?". Ông bảo: "Đúng vậy. Không đọc hết thì làm sao mà khảo sát, đối chiếu được!". Liên quan đến tiếng Việt trong Lục độ tập kinh, ông còn chỉ ra một nguồn tài liệu quan trọng thứ hai. Đó là sách Thuyết Uyển của Lưu Hướng, tồn tại từ năm 16 trước dương lịch mà "không có nhà nho nào là không biết". Đây là bộ sách duy nhất chép lại nguyên văn một tác phẩm văn học khác với tiếng Trung Quốc, đó là bài Việt ca. Thuyết Uyển không phải là một cuốn sách thường, nó là cuốn sách được viết để "dâng vua", cho nên tài liệu được nó sử dụng phải là những tài liệu được kiểm chứng, trong đó có tài liệu lấy từ "Trung thư", tức là một loại thư viện của hoàng gia. Điểm hết sức thú vị của bài Việt ca chép trong Thuyết Uyển là nó "ghi bằng chữ Hán mà người Hán không đọc được", phải "dịch ra tiếng Sở", tức là kèm theo một bản dịch tiếng Trung Quốc. Dù Lưu Hướng nói rõ đó là bài ca "do người Việt ôm mái chèo mà ca", nhưng hơn hai ngàn năm nay chưa một ai nghiên cứu giải mã bài ca này, ngoài sự cố gắng tìm hiểu của Quách Mạt Nhược (từng là Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc) cho rằng bài ca này là của người Choang vùng Quảng Tây Trung Quốc ngày nay, và một học giả người Nhật cho bài ca đó là của... Chiêm Thành. Giáo sư Lê Mạnh Thát đã dành nhiều thời gian, thông qua nhiều tài liệu để giải mã và bước đầu phục chế diện mạo tiếng Việt của bài Việt ca này (xem Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn của dân tộc ta, chương IV, sđd,Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TP.HCM, trang 41-47).

Như đã nói, mỗi lần tràn sang là mỗi lần kẻ xâm lược hủy diệt một cách tàn độc tất cả những gì có thể để cho văn hóa được lưu truyền, đặc biệt là việc tận diệt bia đá một cách có hệ thống sau khi "thu gom" hết sách vở, nhưng với những gì còn lưu lại của bốn ngàn năm văn hiến và những nỗ lực mới nhất của những nhà khoa học đầy tâm huyết và trách nhiệm với tổ tiên như Lê Mạnh Thát, chúng ta có cơ sở để khẳng định chắc chắn là chúng ta đã có chữ viết từ thuở các vua Hùng. Kẻ xâm lược quyết không cho người Việt biết đến "mặt chữ" của tổ tiên, nhưng dấu tích nó vẫn còn đó: trong kinh Phật, trong chính sách vở của Trung Quốc và còn lẩn khuất ở đâu đó nữa. Cùng với việc khảo sát trong lòng đất và "dưới nước" như hướng mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn đề nghị, hướng nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát rất cần được sự đồng hành, phối hợp của nhiều nhà sử học khác.
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

(kỳ 4 trên báo Thanh Niên)

Link: http://www1.thanhnien.com...anhoa/2008/3/3/228408.tno

Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động
Cập nhật cách đây 14 phút
Hoàng Hải Vân

Tôi hỏi ông: "Thầy nghĩ gì về ý kiến cho rằng có thể tìm vết tích chữ viết thời Hùng Vương trên mặt trống đồng?". Ông nói: "Có giả thiết như vậy, nhưng khảo sát những hoa văn trên trống đồng chúng ta không thấy chúng có liên quan đến chữ viết, vì chữ viết phải có quy luật về cấu trúc của nó. Suy đoán từ những giả định không có cơ sở sẽ khó có sức thuyết phục". Việc nghiên cứu ngôn ngữ cổ, nhất là ngữ âm cổ rất phức tạp. Chẳng hạn người Trung Quốc cũng như người Việt 2.000 năm trước phát âm như thế nào ngày nay chúng ta không biết được, để nghiên cứu nó giáo sư Lê Mạnh Thát đã phải dùng hệ phát âm tiếng Trung Quốc thời Hán của Karlgren, là công cụ mà các nhà Hán học đều thống nhất, rồi đối chiếu với những tài liệu đánh dấu sự biến đổi ngôn ngữ để truy lùi về thời điểm nghiên cứu, và cũng bằng phương pháp tương tự, ông đối chiếu những mối liên hệ giữa tiếng Trung Quốc, tiếng Việt và các loại ngôn ngữ khác trong vùng (chữ Phạn, Chăm, Khmer, tiếng nói các dân tộc Trung Quốc giáp giới với Việt Nam...) để phác thảo diện mạo tiếng Việt của bài Việt ca, bác bỏ kết luận sai trái của Quách Mạt Nhược và học giả người Nhật nói trên... (bạn đọc muốn tìm hiểu sâu hơn, xin xem các sách đã dẫn).


Thiền sư Lê Mạnh Thát - Ảnh: Ngọc Hải

Tiếp theo và cùng với chữ viết là lịch pháp. Lâu nay chưa ai biết dân tộc ta thời đại Hùng Vương sắp xếp ngày tháng như thế nào. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từng đoán: "Văn hóa Trống đồng của nước Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29-30 ngày cũng không hẳn là vô lý" (Lịch và lịch Việt Nam, Tập san Khoa học xã hội, Paris, 1982, trích từ Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, NXB Tổng hợp TP.HCM 2006, trang 71). Nay những phát hiện trong Lục độ tập kinh cho phép khẳng định được lời đoán của giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Những câu chuyện ghi trong tập kinh này cho thấy, nước ta thời Hùng Vương đã dùng hệ thống lịch chia năm ra 360 ngày, phân bổ thành 4 mùa, mỗi mùa có 3 tháng và đã dùng đơn vị tuần, mỗi tuần 7 ngày. Đối chiếu với những tài liệu cổ Trung Quốc thì thấy hệ thống lịch nước ta khác với lịch Trung Quốc cùng thời, vì lịch Trung Quốc thời đó mỗi năm 366 ngày và một đơn vị tuần của họ có tới 10 ngày. Nó cũng không giống Ấn Độ, vì tuần của Ấn Độ thời đó có 15 ngày. Phát hiện này cho phép kết luận nước ta thời Hùng Vương đã có lịch pháp riêng của một nhà nước độc lập. Giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, để bảo lưu được một hệ thống lịch pháp như thế, các câu chuyện trong Lục độ tập kinh chắc chắn phải được lưu truyền "vào thời hệ thống lịch đó còn hiệu lực", tức là từ năm 43 trở về trước, bởi vì sau năm đó nhà Hán đã chiếm nước ta, một sự bảo lưu như thế dứt khoát không thể nào xảy ra dưới bộ máy đàn áp của Mã Viện...

Những kết luận của giáo sư Lê Mạnh Thát có thể và cần được các nhà sử học tiếp tục bổ sung, nhưng không có gì thái quá khi nói rằng với phát hiện đó trên nền tảng những thành quả quan trọng trong cuộc nghiên cứu lớn về thời Hùng Vương trong thời gian chống Mỹ, chúng ta có thể và phải dựng lại lịch sử thời đại Hùng Vương với những sự thật của nó. Nó một lần nữa chứng minh việc Nhà nước ta lấy ngày giỗ tổ Hùng Vương làm Quốc Giỗ là vô cùng đúng đắn.

Là nhà tu hành nhưng thiền sư Lê Mạnh Thát đã không kìm nén tức giận khi thấy người ta "thóa mạ làm nhục tổ tiên mình với kiểu ăn nói của Ngô Sỹ Liên: Nước ta hiểu thi, thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương. Bộ Việt luật còn đó. Bài Việt ca còn đó. Truyện trăm trứng còn đó... Thế mà cứ nhắm mắt nói càn nước ta thành ra nước văn hiến từ Sỹ Vương. Thật khốn nạn hết chỗ nói!". Sự nổi giận của vị thiền sư này rất cần được sự hưởng ứng của tất cả những ai còn coi mình là con cháu Lạc Hồng...

(còn tiếp)

Hoàng Hải Vân
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

(kỳ 5 trên báo Thanh Niên)

Link: http://www2.thanhnien.com...anhoa/2008/3/5/228773.tno

Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động

Hoàng Hải Vân


Không có cái gọi là thời kỳ "Bắc thuộc lần thứ nhất". Việc lập 9 quận, trong đó có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam thuộc Hán chỉ là sự "đoạt khống" đất đai nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành trướng của nhà Hán mà thôi.

Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan


Bọn Tàu tham lam thành cái bệnh di truyền cả ngàn năm.
Chúng không những sử dụng sức mạnh quân sự để cướp giết, ngay cả khi chưa cướp được trong tay thì cũng cứ cướp bằng mồm cái đã.
Cướp bằng mồm đất của Triệu Đà:
sử Trung Quốc còn chép rằng năm 202 (trước CN) Hán Cao tổ Lưu Bang, ông cố của Hán Vũ đế lấy các đất Tượng Quận, Quế Lâm, Nam Hải của Triệu Đà phong cho Ngô Nhuế, nhưng ba nơi đó là của Triệu Đà. "Đà chưa hàng, xa đoạt khống, lấy phong cho Nhuế vậy"
Đến khi nhà Hán diệt Triệu Đà (111 TCN) thì lại cướp bằng mồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam của các Vua Hùng... cứ cướp bằng mồm trước đã, để đó, đến 144 năm sau (năm 43) thì cho Mã Viện sang cướp thật.

Và bây giờ cái kịch bản xưa lại tái diễn.
- Trong chiến tranh Việt Nam, chúng giả đò tốt bụng viện trợ để người Việt đánh Mỹ. Khi Mỹ bỏ đi rồi, chiến tranh Việt Nam vẫn chưa thể kết thúc. Khi người Việt đang mải đánh nhau thì chúng xua quân cướp lấy Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974.
- Mười bốn năm sau, ngày 14 tháng 3 năm 1988 hải chiến Trường Sa: chiến sự diễn ra tại khu vực các đảo Gạc Ma, Cô Lin, và Len Đao. Trong trận chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988, Việt Nam bị thiệt hại 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 người tử trận, 11 người khác bị thương, 70 người bị mất tích. Sau này Trung Quốc đã trao trả cho phía Việt Nam 9 người bị bắt, 61 người vẫn mất tích và được xem là đã tử trận.
Việt Nam bảo vệ được chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao. Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma từ ngày 16 tháng 3 năm 1988 và vẫn giữ cho đến nay.
- Sau khi chiếm được lợi thế ở Biển Đông, bọn bành chướng bắt đầu dùng cách chiêu thức chiếm đóng bằng mồm.
Việc đầu tiên, năm 1996, chúng tuyên bố một đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Hoàng Sa. Đây là một hành động cực kỳ thâm độc. Với việc tuyên bố như vậy, chúng nghiễm nhiên hợp thức hoá việc chiếm đóng Hoàng Sa bằng quân sự năm 1974 (hành động vi phạm luật pháp quốc tế), đồng thời tạo ra một vùng nước có chủ quyền đầy đủ và tuyệt đối của chúng ngay sát nách khu vực biển miền Trung nước ta. Các hệ quả kèm theo của nó là rất rất nhiều (tham khảo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 - UNCLOS 82)
http://i193.photobucket.com/albums/z206/laoxichlo/VN-TQHoangSa1996.jpg

Bước tiếp theo, chúng ép chính phủ ta kí hiệp định chia lại Vịnh Bắc Bộ năm 2000, một hiệp định nhìn qua ai cũng thấy chúng ta thiệt thòi rõ. Tôi không nắm rõ chi tiết về luật hiến pháp của ta, cũng không rõ là quốc hội ta có thông qua hiệp định này trước khi nó trở thành có hiệu lực hay không.
Nhưng tôi nhận thấy một hiệp định biên giới quan trọng đến như vậy mà chỉ cần chính phủ thông qua, không cần sự chuẩn y của toàn dân là cực kỳ phi lý.
Thử đặt một câu hỏi: "Giả sử thành viên quốc hội của ta cũng được bầu chọn như thành viên hạ viện Mỹ thì sẽ có bao nhiêu phần trăm đại biểu quốc hội bỏ phiếu chống lại hiệp định ấy?" - Trả lời: "không 100% thì cũng phải 99%"
http://i193.photobucket.com/albums/z206/laoxichlo/VN-TQVinhBacBo2000.jpg

Vẫn kiên trì âm mưu bành chướng, cuối năm 2005, bọn Tàu lại công bố một tấm bản đồ khiến người ta tức muốn ói máu. Đó là tấm bản đồ vùng thềm lục địa của Trung Quốc tại biển Đông. Theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982, một quốc gia ven biển chỉ được phép tuyên bố vùng thềm lục địa đến giới hạn xa nhất là 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Vậy mà, với tấm bản đồ ấy, nơi xa nhất cách đường cơ sở của chúng hơn 900 hải lý. Nơi gần bờ biển Việt Nam nhất chỉ có 50 hải lý (khoảng 90km).
Đồng thời chúng còn thâm hiểm hơn nữa "lập lờ đánh lận con đen" bằng cách dùng từ "ranh giới" thay cho từ "thềm lục địa". (tham khảo quy chế pháp lý của vùng thềm lục địa theo Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982)
http://i193.photobucket.com/albums/z206/laoxichlo/VN-TQBienDong3.jpg

Chỉ hai năm sau tuyên bố ngang ngược trên, bọn bành chướng lại dấn thêm một bước thâm độc nữa, giống như một mũi dao đâm ngay giữa tim những người Việt yêu nước bằng tuyên bố thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam. Đây là một bước mở đường cho việc hình thành các khu dân cư dân sự trên các vùng hải đảo, rồi từ đó hợp thức hoá chủ quyền của họ phù hợp với luật lệ quốc tế.
http://i193.photobucket.com/albums/z206/laoxichlo/VN-TQBienDong4.jpg


Trong khi kẻ thù luôn luôn kiên trì rình rập để bành chướng, thì chúng ta dường như đang lơ là cảnh giác?????
Trước đây trong chương trình dự báo thời tiết luôn có mục dự báo thời tiết các vùng biển và khi ấy người ta luôn thấy hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa xuất hiện trên màn hình ti-vi. Một ngày mấy lần như vậy dù không cố tình nhớ thì cũng ngấm vào trong ý thức. Vậy mà gần đây, không hiểu vì sao người ta đã loại bỏ. Điều ấy có phải hàm ý rằng "hãy quên hai quần đảo ấy đi!". Năm hay 10 năm nữa sẽ tạo ra một thế hệ thanh niên ngây ngô hỏi là "hai quần đảo ấy ở đâu nhỉ?". Xin đừng trách họ, trước hết hãy xem lại mình.
Một việc nữa, đó là chuyện biểu tình, tại sao lại chống việc thanh niên biểu tình vì Hoàng Sa và Trường Sa nhỉ? Từ trước đến nay chưa có một cuộc biểu tình chống ngoại bang nào trên thế giới lại làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa hai chính phủ cả. Chắc chắn cuộc biểu tình sẽ không đẩy lui được âm mưu thâm độc bành chướng lãnh thổ của bọn ngoại bang. Nhưng chắc chắn nó sẽ có tác dụng nhắc nhở hữu hiệu nhất về ý thức dân tộc toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, có tác dụng hơn rất nhiều những bài học giáo điều vô vị.
Là người Việt, tuy khác nhau về ý thức hệ tư tưởng, nhưng có chung dòng máu Lạc Hồng, ai mà không đau xót khi ngày ngày nhìn cảnh bọn bành chướng ngoại bang gặm nhấm chúng ta từng chút một.
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

Kỳ 5 trên báo Thanh Niên: http://www2.thanhnien.com...anhoa/2008/3/5/228773.tno

Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động
Cập nhật cách đây 5 giờ 32 phút
Hoàng Hải Vân

Ông nói "một ngàn năm đô hộ giặc Tàu" như lời bài hát của Trịnh Công Sơn là cách nói đau buồn mà không chính xác. Cuộc đấu tranh của dân tộc ta từ sau khi cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng thất bại chưa bao giờ ngưng nghỉ. Bởi chưa đầy 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm lần thứ nhất đã nổ ra vào năm 100, dẫn tới việc người anh hùng Khu Liên lập khu tự do vào năm 138, làm hậu phương cho các cuộc khởi nghĩa về sau, cho đến thời Chu Phù, Sỹ Nhiếp
Đưa ra nhiều tài liệu dẫn chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, trong thực tế chính quyền Sỹ Nhiếp (từ 187), cũng như trước đó là Chu Phù (khoảng 180), là "chính quyền Việt Nam độc lập". Sử Trung Quốc chép rõ Chu Phù "vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia". Còn đối với Sỹ Nhiếp, sử Trung Quốc (Ngô chí) viết rằng: "(Sỹ Nhiếp) tổ tiên vốn người Mấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời". Ông cho rằng một người có tổ tiên 6 đời ở Việt Nam thì đã "Việt Nam hóa", trở thành người Việt Nam rồi.
Sau khi Sỹ Nhiếp chết (226), lúc ấy Tôn Quyền đã chiếm cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên nhân cái chết của Sỹ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta, lúc đó "là một nước độc lập dựa trên điển huấn và pháp luật của người Việt". Con Sỹ Nhiếp là Sỹ Huy nối nghiệp cha, chống lại Tôn Quyền, tuy nhiên do mất cảnh giác, nên đã thất bại, Sỹ Huy bị bắt và bị giết, Tôn Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền cai trị của Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ 18 năm sau, Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành lại chính quyền.
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

Kỳ 7 trên báo Thanh Niên http://www2.thanhnien.com...anhoa/2008/3/6/228910.tno

Mỗi một di sản của tổ tiên đều phải được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ tiên đều phải được gìn giữ.

Lịch sử Phật giáo Việt Nam
Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam

Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

ngocvan

Hoa Xuyên Tuyết đã viết:
Hôm nay, mình đọc được một bài viết hay. Mình mới nghĩ ra lập cái topic này để mọi người cùng vào đọc... Đọc, nghe, nghĩ và cùng nói ra ý tưởng của mình.

Mọi người đưa những bài báo, bài viết hay vào đây nhé, nhưng lưu ý đưa dần từng vấn đề, tránh việc chưa nói xong ý này, lại nhảy ra ý khác, hi hi, khó theo dõi. Nguội một đề tài hẵng chuyển nhé!

Và ở đây, vì những lý do tế nhị, xin mọi người không đưa ra những vấn đề tôn giáo và chính trị.

Các bác, các chú, anh chị và các bạn.. ủng hộ topic nhé :)
ngocvan
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

ngocvan

Hoa Xuyên Tuyết đã viết:
... Đọc, nghe, nghĩ và cùng nói ra ý tưởng của mình.

... không đưa ra những vấn đề tôn giáo và chính trị.
Em có một suy nghĩ, về chữ viết trong tiếng Việt

Người ta dạy con trẻ tập viết khi chúng mới vào lớp một
Viết chữ cho đúng ô li, dòng theo dòng, cao thấp, đủ nét
Nhiều bé vốn không có hoa tay, viết không được đẹp
Về nhà bố mẹ bỏ tiền ra mời thầy, để tập, để nắn nót

Ngày xưa các cụ ta viết chữ nôm chữ hán
Ngày nay tiếng Việt ta viết theo chữ cái La tinh
Trước, các cụ viết theo chữ tượng hình
Cho nên các cụ có môn thư pháp

Ngày nay, học đòi, hay là sáng tạo, không biết
Chữ La Tinh cung thư thư, pháp pháp
Thế là nét chữ đâu còn nắn nót
Nét nó bay, nét nó lượn
Nét chẳng còn ra nét, nét khi mất, khi mờ
Khi vòng vèo, lên trên, xuống dưới

Có những bức tranh rất đẹp
kế bên có lời tự, câu thơ
Em cứ đứng ngẩn, đững ngơ
trước bức tranh rất đẹp
Nhưng căng cả mắt, nhíu cả mày
vẫn không đọc được câu bên

Có một lần có bốn chữ
Viết về người phụ nữ nói chung
Đó là: Công, Dung, Ngôn, Hạnh
Được bay, được lượn theo thư pháp
Thế là Công thành CONG
Không những chữ bị cong mà cái dấu ô cũng cong
Dung thì thành Rung
nhìn vào chữ
người em không những rung mà còn run
Ngôn đọc ra là NGÓN
không biết ngón gì
HẠNH thì thành ra là Hanh
dấu nặng được sáng tạo thành gì em không gán được là gì gì nữa!!!

Chả nhẽ bây giờ phụ nữ lại thành ra CONG RUNG NGÓN HANH

Có nhiều người tung hô lối thư pháp này
Em nghĩ thư pháp chỉ dành cho chữ tượng hình
Cho chữ hán thì đó là nghệ thuật,là sáng tạo là gì cao siêu hơn thế nữa
Chứ chữ viết Latinh...
Sao các nước phương tây
những nước dùng chữ viết đó, họ chưa bao giờ dùng thư pháp?
Hay là họ không sáng tạo như ta?
Chắc là họ không học đòi nhố nhăng
không bắt chước nhố nhăng

Làm gì cũng phải có khoa học
Mỹ thuật, văn học, nghệ thuật
cũng không vượt ra ngoài khoa học

Nghe đâu Truyện Kiều cũng được chép lại bằng lối thư pháp
Có nhiều người tung hô, khen
Than ôi, Cụ Nguyễn Du sống lại, Cụ bảo sao đây?
"Mua vui cũng được một vài trống canh"
Chép theo thư pháp e rằng
-"Cam go" chắc cũng được vài ba năm!

Cô thầy cầm tay học trò
Bảo ban, uốn nắn để cho nét mềm
Chữ đẹp là chữ chân phương
Thẳng, ngay, đủ nét, chữ thường chữ hoa

Ngày xưa cầm hoạ thi ca
Công Dung Ngôn Hạnh ấy là tài danh
Những câu các cụ để dành
Cho con cháu biết học hành, chăm ngoan

Xa xưa chữ Hán, chữ Nôm
Tiếng Việt viết lối La Tinh chưa hề
Giá như đã có rồi thì
Các cụ có ...


Giờ đây con cháu
sáng tạo quá trời
Có ai nghĩ lại
hay mãi vậy thôi...

là ý nghĩ của em. Em biết nhiều người phản đối.
lũ con nít lười học, lười tập viết chúng nó cũng phản đối em cho coi.
Nhưng ...
Nhưng có ai đồng tình không?
Nói thật ra em rất ghét lối viết tiếng Việt cong queo, khó đọc, mà cứ khen nhau dài dài.
Thư pháp với chữ tượng hình thì TUYỆT VỜI.

Còn với chữ viết theo chữ cái La Tinh
Tiếng nói tượng thanh
Thì đừng cong queo
đừng đậm nhạt
đừng thư pháp
vì rất khó đọc
và nhất là những câu đáng kính
những lời vàng son
những câu thành hiền
nếu thư pháp
thì trở thành bất kính mất

đừng nói một đường: hãy viết chữ cho đẹp, chân phương
lại làm một đường; uốn éo, cong queo, luồn lách

đừng nói hay: nên thẳng thắn, nắn nót, trong sáng
lại làm một nẻo: chìm nổi, nguyệch ngoạc, lù mù

đừng nói hay
làm khác
con trẻ nghe, xem
và chúng nó biết nhận thức
và nhận xét...
ngocvan
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Phong Lan

(sưu tầm) Báo Tuổi Trẻ Cười suýt bị đóng cửa!

Ngày xửa ngày xưa, báo TS Cười rất đắt hàng, không ngừng tăng trang, tăng bài, nhuận bút một trang báo cao hơn cả một năm lương công chức. Hai Cù Nèo, Đồ Bì, Hoàng Thiếu Phủ, Nhốp, Dad, Nguyễn Tài... suốt ngày ngập đầu ngập cổ, mấy lần suýt bị vợ bỏ vì ít thời gian ở nhà quá.

Cả tòa soạn hễ đi ra ngoài là phải hóa trang thành người khác, hoặc bịt mặt kín mít, vì nếu để nhận ra, mọi người bu lấy để xin chữ ký, chụp hình lưu niệm, đi không nổi. Cả tòa soạn bị bệnh rộng mồm, vì hay cười quá.

Mỗi người đã đi chỉnh hình (mồm nhỏ lại) ít nhất hai lần, song đâu vẫn hoàn đấy. Cùng lúc đó, các đại gia bị bêu tên trên TTC mất ăn mất ngủ. Họ cấm cả vợ - (chồng), con cái, cấp dưới... xem, đọc TTC.

Mỗi lần TTC ra số mới, họ lại thuê mấy tay "anh chị" mua tất cả để... đốt. Song chính những tay anh chị được thuê sau mấy lần tò mò đọc thử, đâm ra nghiện TTC, không những không đốt, lại còn phân phát cho mỗi người một tờ. Vò đầu bứt tai mãi, các đại gia bèn nảy ra một sáng kiến: Họ tổ chức hội nghị kín, biểu quyết một kế hoạch cực kỳ táo bạo.

Vào giờ G, tất cả các đại gia đồng loạt kéo nhau đến TTC, mặt đằng đằng sát khí, mang hết cả dấu má, quyết định bổ nhiệm, thăng chức... đòi làm việc với tòa soạn.

Các vị yêu cầu:

1) Yêu cầu các vị trong tòa soạn TTC thay thế chỗ họ đang làm, và ngược lại.

2) Trong thời hạn ít nhất 5 năm, nếu các vị trong tòa soạn (khi đã thay thế chỗ của họ) mà để xảy ra tham nhũng, tiêu cực trong ngành mình quản lý thì tòa soạn TTC buộc phải giải tán, Ban Biên tập bị bêu mặt cho thiên hạ xử tội.

3) Trong thời gian hoán đổi, tài sản của hai bên cũng hoán đổi, mỗi bên toàn quyền định đoạt.

Tòa soạn TTC sau khi tham vấn ý kiến của đa số độc giả, được độc giả nhất trí, đã thuận tình, cũng không yêu cầu thay đổi điều khoản gì trong hợp đồng.

Kể từ đó, xã hội trở nên bình yên, mức sống tăng lên cả về vật chất lẫn tinh thần. Học sinh được học trong những điều kiện tuyệt vời, thầy cô hơn cả mẹ hiền. Học xong, các em tự động nộp đơn xin học các trường công nhân, dạy nghề, hay đại học, tùy theo năng lực và sở thích. Cả đất nước qui hoạch và xây dựng đẹp như một thiên đường du lịch.

Đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú, mà vẫn giữ vững bản sắc. Chợ búa văn minh lịch sự, chẳng có chuyện mặc cả, nói thách, cân điêu, bán thiếu. Bệnh viện mọc lên tận trong những làng bản heo hút, xa xôi, với đội ngũ bác sĩ, y tá, chuyên gia hàng đầu châu Á, nhiều nước phải học tập.

Chẳng ai hiểu "thủ tục hành chính rườm rà" nghĩa là gì. Tối ngủ, chẳng ai phải khóa cửa... Trong tình hình đó, tòa soạn TTC khan hiếm bài trầm trọng, từ chỗ tháng 2 số, chỉ còn tháng 1 số, rồi 2 tháng 1 số, cuối cùng là 1 năm 2 số, mà vẫn đói bài kinh khủng.

Chỉ mỗi chuyên trang “Thế giới của nàng” là còn nguyên, còn lại thì... các tranh vui, biếm họa, truyện cười chủ yếu dịch của nước ngoài, “Quán Mắc cỡ” trở thành nơi giải đáp thắc mắc của các em học sinh về câu chữ trong văn viết, “Gặp nhau tám giờ” trở thành nơi đăng câu đố về công chức, công việc, “Ghi-nét ngược” chuyên đăng các sáng chế phát minh xuất sắc nhất song cũng khó tưởng tượng nhất...

Trong vòng mấy năm, báo chỉ tăng được một chuyên trang: “Chuyện cười thiếu nhi”. Do đời sống văn hóa tinh thần cũng tăng, các độc giả "ruột" của TTC trước đây đâm ra nhớ TTC ngày xưa kinh khủng. Họ không thể nào quên những nụ cười mà chỉ có TTC mang lại cho họ. Họ liên tục gọi điện đến tòa soạn, yêu cầu TTC phải nâng cao chất lượng bài vở, nếu không sẽ tẩy chay.

Tòa soạn TTC giờ đây đìu hiu vắng vẻ, mỗi vị một góc, bụng ngày xưa phề phệ giờ teo tóp, bộ com-lê rúm ró vì rộng mà chẳng có tiền thay mới, vì thu nhập khiêm tốn quá (mỗi tháng phát hành nhiều nhất 10.000 số). Ban Biên tập TTC vò đầu bứt tai mà không sáng tạo ra cái gì mới để báo có thể tăng trang, tăng giá. Các vị trong tòa soạn chỉ được uống bia trong mơ, ôm em út trong mộng...

Và các bà xã cũng muốn bỏ các vị, vì... nghèo quá! Rồi đến một ngày... TTC phải đóng cửa, vì báo phát hành bán không ai mua, mời dân mua làm giấy gói xôi cũng không được... Cả tòa soạn (mới) lại quyết tâm thực hiện một nghị quyết nữa, họ lại yêu cầu các vị trong tòa soạn TTC (cũ) chấm dứt hợp đồng, vì dù sao, trong hợp đồng đó cũng không có điều khoản nào cấm họ... đơn phương chấm dứt hợp đồng.

Các đại gia còn có một lý do hết sức xác đáng nữa: Tòa soạn TTC, những người hoán đổi vị trí của họ trong thời gian qua, chẳng qua là... kế thừa những thành quả tốt đẹp mà họ đã gây dựng. Chứ nếu đi lên từ số 0 như họ thì... cũng sẽ như họ đã từng làm mà thôi. Thế đấy, đó chính là lý do vì sao TS Cười suýt đóng cửa!

CẬN THỊ (Hòa Bình)

(Tuổi Trẻ Cười)
Có ai còn nhớ kẻ xích lô
Lãng mạng phong lưu thích đưa đò
Tóc bạc râu dài chừ thấm mệt
Nhìn thấy cháu đẹp chẳng dám ho ... he ... he
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 133 trang (1325 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối