Trang trong tổng số 1 trang (6 bài viết)
[1]

Ảnh đại diện

dangvanhoan

VIỆT NAM, TÍCH SỬ BỐN NGHÌN NĂM
1- VUA HÙNG DỰNG NƯỚC VĂN LANG:
Ngược dòng lịch sử nước Nam-
Bốn ngàn năm trước huy hoàng vẹn nguyên:
Hùng Vương dựng nước đầu tiên-
Văn Lang - Quốc tổ, một thiên sử hùng;
Biết bao dông tố, bão bùng?
Rừng rậm, thú dữ,… vô cùng gian nguy;
Thiên tai hiểm độc lạ kỳ,
Còn lưu truyền thuyết, nhớ ghi đời đời.
Bao phen động đất, long trời,
Thuỷ Tinh gieo hoạ, khi vơi, khi đầy;
Sơn Tinh quyết chiến - Ra tay -
Kiên cường, quật khởi, lòng ngay, trí bền…
Đương đầu, chống chọi thiên nhiên;
Lại thêm thù giặc thường xuyên rập rình:
Giặc “Man”, “ Mũi đỏ” động binh,
Giặc “Ân” tàn bạo… dân tình lầm than.
Mỗi khi Tổ quốc nguy nan,
Anh hùng, hào kiệt, giang san rạng ngời.
Tấm gương oai dũng tuyệt vời;
Chàng trai làng Gióng thay Trời, cứu dân:
1
Sinh ra đã được ba năm,
Chẳng cười, chẳng nói, chỉ nằm chõng tre…
Bỗng xôn xao khắp làng quê,
Vua Hùng sai sứ giả về truyền tin:
-“ Giặc Ân bạo ngược, khùng điên
Đang gieo tang tóc khắp miền non sông;
Nào ai tài trí vô song?
Ra tay cứu nước, tiến công diệt thù”
Dóng nghe - Tan lớp mây mù;
Bỗng ngồi bật dậy, xin trừ giặc Ân.
Lớn nhanh như một thiên thần;
Cơm, cà, nước lã,… toàn dân đưa về;
Sinh ra từ chốn làng quê,
Tình làng, nghĩa xóm bộn bề ân sâu;
Ăn càng nhiều, lớn càng mau:
Bảy nong cơm dẻo, có đâu dư thừa?
Nước sông, cả khúc mới vừa;
Một hơi uống cạn,…sớm trưa đủ đày;
Khổng lồ, sức vóc đổi thay,
Hiên ngang, lẫm liệt,…ra ngay trận tiền;
Ung dung, ngựa sắt trên yên,
Vung cao roi sắt, quất lên đầu thù;
2
Áo giáp sắt phủ bụi mù,
Đánh đâu, thắng đấy, nghìn thu vang rền;
***
Tre đằng ngà nhổ bật lên,
Thay cho roi sắt, rạng thêm sử hồng:
Muôn dân nhất trí, đồng lòng,
Thô sơ vũ khí, lập công huy hoàng;
Xác thù gục ngã ngổn ngang,
Nước non trở lại bình an, mạnh giàu.
Các vua Hùng nối tiếp nhau
Kiên trì dựng nước, buổi đầu quang vinh.
Đời đời nặng nghĩa, nặng tình,
Cháu con giữ nước, hy sinh diệt thù.
Chiến công vang dội nghìn thu;
Sức Thần Phù Đổng có từ lòng dân.
3
2- AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ NƯỚC ÂU LẠC:
Triều Hùng sau cuối suy dần(1)
Lòng người Lạc Việt phân tâm, bất bình…
Láng giềng gần gũi, nghĩa tình
Có người Âu Việt, liên minh bao đời:
Quan hệ khăng khít răng môi,
Hôn nhân đằm thắm, cạn lời yêu thương…
Thủ lĩnh Thục Phán can trường
Đem quân lật đổ Hùng vương lụi tàn;
“Âu Lạc” hợp nhất giang san;
“An Dương Vương” hiệu vững vàng dựng xây.
Dân giàu, nước mạnh, đổi thay:
Biết dùng bò kéo, trâu cày vỡ hoang;
Đồ đồng xử dụng vững vàng,
Lại thêm đồ sắt, dễ dàng thành công.
Ngành nghề: Dệt, gốm, nuôi, trồng…
Đóng thuyền vượt biển…, non sông thịnh cường;
(1)- Cuối thế kỷ thứ ba trước CN, triều Hùng suy đốn: Vua suốt ngày chỉ uống rượu, ăn tiệc làm vui; Dân tình ngao ngán, tướng lĩnh bất mãn với vua
4
Quân binh tinh nhuệ, can trường;
Vài vạn -Thuỷ, bộ - cung thương luyện tài;
Tướng bộ: Cao Lỗ trổ oai;
Lạc Hầu- Tướng thuỷ- quản cai tập tành…
Tầm gần; Giáo mác…giao tranh;
Tầm xa: Cung nỏ giữ thành bình yên.
Nỏ thần: Sức mạnh- Tương truyền-
Bắn ra một phát, giết liền vạn quân.
Đồng bằng ngày một đông dân;
Kinh đô Âu Lạc cũng dần chuyển xuôi(2);
Loa Thành: Công, thủ vẹn mười,
Thuỷ, bộ cơ động, tiến lui, diệt thù.
***
Nhà Tần cử tướng Đồ Thư
Đem quân thắng trận(3) hòng trừ nước ta.
Quyết tâm bảo vệ sơn hà,
Quân dân Âu Lạc xông pha bất ngờ;
(2)-Kinh đô Âu Lạc từ Phong Khê ( Bạch Hạc) rời về Cổ Loa và xây thành Cổ Loa ( Loa thành) gian khổ suốt 18 năm mới hoàn thành
3-Năm 214 trước CN, tướng Đồ Thư đem 50 vạn quân tiến đánh vùng Đông nam và Nam TQ, chiếm được một số bộ tộc, lập thành 3 quận: Quế Lâm (Bắc Quảngn Tây) Tượng quận( Tây Quảng Tây), Nam Hải(Quảng Đông) rồi đem một bộ phận tiến đánh nước ta.
5
Kiên trì: Đêm đánh, ngày chờ
Tìm sơ hở địch, đánh cho tơi bời,
Trải qua hàng chục năm trời,
Giặc Tần bị diệt hơn mười vạn quân;
Đồ Thư chết trận âm thầm…
Kinh hoàng, lũ giặc lui quân, chạy dài.
Lần đầu thắng lợi tỏ oai,
Dân Nam kháng chiến dẻo dai, trí bền.
***
Triệu Đà- Tần tướng- nổi lên
Lập nước Nam Việt ở miền Phiên Ngung(4)
Tưởng mong cát cứ một vùng?
Sau theo Hán đế bạo hung phế Tần;
Từ lâu, nuôi sẵn dã tâm:
Miếng mồi Âu Lạc, mấy lần hóc xương.
Quân dân Âu Lạc kiên cường;
Loa thành sừng sững, khó đường tiến công.
Bẽ bàng, nham hiểm đầy lòng,
Triệu Đà thất trận, vẫn không chịu lùi,
(4)- Triệu Đà đánh chiếm ba quận: Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận của Nhà Tần, lập ra nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu, Quảng Đông bây giờ), xưng vua gọi là Nam Việt Vĩ vương.
6
Bèn dùng quỷ kế lủi chui,
Cầu hoà, do thám, tiến lui liệu dần:
Sai con- Trọng Thuỷ- xưng thần,
Cầu hôn, ở rể, núp quần Mỵ Châu;
An Dương vương có ngờ đâu;
Cả tin, nên mắc mưu sâu kẻ thù.
Duyên nồng, có mắt như mù,
Mỵ Châu khờ dại, nghìn thu hận tình;
Nuôi ong trong tay áo mình,
Quân vương đón kẻ bất minh vào nhà;
Nỏ thần, sơ ý lộ ra;
Nội tình, địch chẳng khảo mà tự xưng…
Những người tướng giỏi, tôi trung
Hết lời can gián, dửng dưng, chẳng màng…
Mắc lừa Trọng Thuỷ, nghi oan,
Vua tôi ly tán, giang san rối bời…
Triệu Đà ập đến tận nơi;
Tướng tài xa lánh, ai người cứu nguy?
Nỏ thần đã mất hết uy,
Loa thành trống rỗng, lấy gì bảo an?
Quân vương chạy xuống phương Nam;
Giặc thù đuổi sát, hò vang động trời;
Cao Lỗ vừa kịp đến nơi,
Cản đường, giết giặc, cứu người chạy đi.
7
Tiếc rằng quân ít, lực suy,
Hy sinh anh dũng, rạng uy trung thần.
Biển Đông đã cản bước chân;
An Dương vương trót lỡ lầm, chạy đâu?
Quay nhìn con gái phía sau,
Thấy lông ngỗng rải, hận sầu, vung gươm…
Thương thay: Công chúa Mỵ Nương
Nặng duyên chồng vợ, lầm đường, quyên sinh;
Ngây thơ, chuốc lấy oan tình,
Máu hoà nước biển, lòng minh ai hay?
Hận thù, chua chát, đắng cay,…
Quân vương tự tận! Biển đầy sóng xô;
Bao năm gây dựng cơ đồ,
Lơ là cảnh giác, mơ hồ địch ta,
Chiến công, sự nghiệp ra ma;
Đời đời, để lại, lời ra tiếng vào.
Từ nay: Thuế nặng, sưu cao
Ngoại bang thống trị, biết bao căm hờn?(5)
Đấu tranh quyết liệt, sống còn
Vì nền độc lập, giang sơn vẹn toàn.
(5)-Năm 179 trước CN, lần đầu tiên dân tộc ta bị đè nặngdưới ách thống trị của ngoại bang. Đây là năm bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần thư nhất, cũng là năm bắt đầu thời kỳ đấu tranhquyết liệt, dai dẳng của dân ta cho nền độc lập, tự chủ của đất nước.
8
- Đặng Văn Hoan -
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

dangvanhoan

3-HAI BÀ TRƯNG DƯƠNG CAO CỜ NGHĨA “ĐỀN NỢ NƯỚC TRẢ THÙ NHÀ”:
Mê Linh, tiếng trống xa vang;
Mùa xuân Canh Tý(6) rộn ràng lòng dân:
Bà Trưng làm lễ xuất quân;
Lời thề định hướng quyết tâm dựng cờ;
( Báo đền nợ nước, trước lo;
Thù chồng được trả - Chẳng mờ trăng thu);
-“Một, xin rửa sạch nước thù
Hai, xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba, kẻo oan ức lòng chồng
Bốn, xin vẹn vẹn sở công lênh này”
Hướng theo cờ nghĩa tung bay,
Anh hùng, hào kiệt đó đây tụ về.
Biết bao phụ nữ phòng khuê
Cầm quân đánh giặc, tràn trề uy danh:
- Bà Lê Hoa ở tỉnh Thanh,
- Bà Lê chân mộ nghĩa binh Đông Triều,
(6)- Mùa xuân Năm Canh Tý- Tháng 2, năm 40, nhằm lúc Nhà Hán đang lo dồn sức chống đỡ các cuộc nội dạy cuả nông dân TQ, Hai Bà Trưng quyết định khởi nghĩa; Lễ tế cờ tại cửa sông Hát ( Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Tây); Lời thề đanh thép đã thể hiện rõ mục tiêu của cuộc khởi nghĩa là trước đền nợ nước, sau trả thù nhà.
9
- Nhìn sang Hà Bắc, muốn theo:
Ả Di, ả Tắc, đầu chèo: Thánh Thiên,
Vĩnh Huy, Liễu Giáp, Diệu Tiên,
- Hải Hưng thờ phụng ngày đêm, lâu dài:
Bảo Châu, Nguyệt Độ, Nguyệt Thai,
- Ngoại đô(7): Nàng Tía, so tài Quốc Nương,
- Thiều Hoa ( Phú Thọ) can trường
- Mẫu thân - Man Thiện- sáng gương kiêu hùng (8),
Càng thêm vững dạ Bà Trưng,
- Cộng đồng tướng lĩnh mọi vùng non sông..
Ào ào khí thế tiến công;
Mê Linh chiến thắng, nức lòng muôn dân.
Khắp nơi rầm rộ ra quân,
Chung tay bóp nát dã tâm Hán triều.
Thành Luy Lâu có quá nhiều
Tội ác giặc Hán đã gieo tháng ngày;
Hai trăm năm để đến nay
Tan tành bởi sức dân đầy hờn căm;
(7)- Ngoại đô: Ngoại thành Hà Nội
(8)- Cụ Man Thiện, mẹ hai Bà Trưngđã liên kết các quan lang vùng Ba Vì, lập căn cứ ở làng Man Nguyễn để phối hợp với đội quân “ Tử đệ binh gia” của Hai Bà để đánh đuổi giặc Hán.
10
Thái thú Tô Định bất nhân
Phải đền nợ máu, vùi thân chốn này.
( Kẻ giết Thi Sách là đây!)
Thù chồng đã trả, càng say diệt thù.
Trời xuân tan bóng mây mù;
Chiến công Âu Lạc nghìn thu lưu truyền;
Nước non độc lập, bình yên;
Trưng Trắc, Trưng Nhị tô thêm sử vàng;
( Thông minh, dũng cảm, đảm đang,
Rạng ngời Phụ nữ Việt Nam anh hùng).
Nước Âu Lạc được chấn hưng,
Đổi thành Hồng Lạc, non sông rạng ngời;
Trưng vương- Trưng Trắc lên ngôi-
Ban truyền miễn thuế, đổi đời cho dân;
Khẩn trương sắp xếp quần thần,
Chăm lo xây dựng đội quân hùng cường…
Nghe tin Trưng Trắc xưng vương,
Quang Vũ, vua Hán, điên cuồng thị uy;
Lệnh truyền: Mã Viện đem đi
Hai vạn binh mã, tức thì tỏ oai (9)
(9)- Năm 42, vua Hán sai Mã Viện ( Mã Văn Uyên) tuổi gần 60, nhưng vẫn hung hăng, hiếu chiến đem 20 vạn quân, hai nghìn thuyền xe sang xâm chiếm nước ta.
11
Vốn là một lão tướng tài,
Hung hăng, hiếu chiến, chông gai trải nhiều…
Quân hùng, tướng giỏi đem theo
Mới ra quân, đã gặp một chiêu phủ đầu:
Thánh Thiên chờ đợi từ lâu,
Phục binh Hợp Phố bên nhau hạ đòn.
Viện lui quân, nhằm Quỷ môn(10)
Tiến qua Lãng Bạc(11) vẫn luôn kinh hoàng:
Tướng Tương Liệt, bà Bát Nàn,
Bà Lê Chân… cứ đâm ngang sườn thù;
Lại thên nước lụt, mây mù,
Thâm sơn, độc khí,…từ từ bủa vây
Đã làm Mã Viện chờn tay,
Nản lòng, rối trí, đêm ngày lo âu…
Tiếc rằng vì muốn thắng mau,
Trưng Vương dốc sức đối đầu chọi binh;
Kẻ thù dày dạn chiến chinh;
Ta còn non yếu, nên đầnh thua to;
( 10)- Quỷ Môn quan: Tức Ải Chi Lăng
(11)- Lãng Bạc: Tiên Du, Hà Bắc này nay
12
Lui binh từng bước - Đâu ngờ -
Cấm Khê là chốn hai Bà hy sinh;
Núi Vua Bà đất Hoà Bình
Ngàn năm mang nặng nghĩa tình quân dân.
Mã Viện đâu được yên thân?
Lửa hờn bùng cháy, lòng dân kiên cường;
Khắp nơi tiếp tục đao thương
Diệt thù rửa hận theo gương Hai Bà.
13
4- NHUỴ KIỀU TƯỚNG QUÂN - TRIỆU THỊ TRINH - ĐÁNH ĐUỔI GIẶC NGÔ:
Sống đời nô lệ xót xa;
Ngoại bang thống trị, yêu ma cầm quyền:
Bạo tàn, ác độc, cuồng điên,
Quan quân Nhà Hán ngang nhiên lộng hành:
Tăng quân, củng cố luỹ thành,
Trả thù, tàn sát nghĩa binh Hai Bà;
Ngổn ngang: Hàng vạn quân ta
Phơi thây - Khắp chốn, gần xa lệ tràn;
Non sông biển bạc, rừng vàng
Xác xơ, kiệt quệ, tan hoang, bần cùng…
Kẻ thù vơ vét trống đồng,
Xoá mờ truyền thống cha ông bao đời;
Những mong lung lạc lòng người,
Làm quên quốc nhục, đẩy lui tinh thần…
Sóng yên gần một trăm năm(12),
Lại như bão tố, ầm ầm nổi lên;
Một ngôi sao sáng trời đêm:
Tóc cài trâm báu, chân trên guốc ngà,
(12)- Từ năm 43 đến năm 137, phong trào tạm lắng xuống
14
Giáp vàng, voi cưỡi, xông pha
Thị Trinh, họ Triệu, quê nhà tỉnh Thanh(13)
Đã cùng Quốc Đạt- người anh-
Núi Nưa tuyển sỹ, mộ binh, tung hoành;
Những mong chém cá Tràng Kình,
Đánh tan Ngô tặc(14), chẳng đành khom lưng;
Trổ tài, thuần phục voi hung,
Dựng màn đá nói, hởi lòng muôn dân;
Núi Nưa, căn cứ xuất quân,
Phất cờ khởi nghĩa, tinh thần dâng cao(15);
Trị sở Cửu Chân lộn nhào;
Chiến thắng Tư Phố xôn xao lòng người;
Thanh danh dậy đất, vang trời,
Muôn dân, trăm họ các nơi theo về;
Lời ru con chốn làng quê,
Lòng dân yêu nước, còn nghe rành rành:
(13)- Bf Triệu sinh ngày 02-10 Bính Ngọ (226) ở làng Sơn Trung, Nông Cống (Nay thuộc vùng Núi Nưa, Triệu Sơn Thanh Hoá)
(14)- Nhà Hán sụp đổ, TQ hình thành ba nước Nguỵ, Thục, Ngô.Bọn phong kiến nhà Ngô chiếm cứ vùng Hoa Nam, nên thay thế Nhà Hán cai trị nước ta.
(15)- Mùa thu năm 247, Bà Triệu cùng anh là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa, lập căn cứ ở Núi Nưa, đánh thẳng vào Tư Phố, trị sở quận Cửu Chân, chiến thắng rực rỡ.
15
-“ Ru con, con ngủ cho lành
Cho mẹ gánh nước, rửa bành con voi
Muốn coi, lên núi mà coi
Có bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân”
Nghĩa binh, đủ mọi thành phần:
Thợ săn, chài lưới, nông dân,… lành hiền;
Dựng xây căn cứ Bồ Điền(16)
Quyết tâm giải phóng toàn miền châu Giao.
Nghìn năm sau, mãi tự hào:
Nhuỵ Kiều nữ tướng, thế vào chân anh-
Bởi Triệu Quốc Đạt hy sinh-
Lệnh quân nghiêm chỉnh, Thị Chinh vỗ về.
Tả xung, hữu đột, chở che;
Bất ngờ ẩn hiện, bốn bề tiến lui;
Xuất quân, thắng trận liên hồi;
Kẻ thù khiếp sợ, đứng ngồi không yên.
( Thứ sử, Thái thú… mấy tên
Bao năm ác báo, phải đền nợ dân).
***
(16)- Bồ Điền thuộc Hậu Lộc, Thanh Hoá
16
Chúa Ngô lo lắng âm thầm,
Bèn sai Lục Dận đem quân, toàn quyền;
Đến châu Giao, để giữ yên,
Vội lo củng cố những miền đóng quân;
Vung tiền, tìm kế mỵ dân;
Gọng kìm, nhằm hướng Cửu Chân quây tròn…
Quân ta anh dũng trả đòn,
Kiên cường đững vững, sống còn nơi đây;
Bồ Điền, tìm kế phá vây…
Giao tranh ác liệt, chẳng lay chuyển lòng;
Thi Trinh hy sinh anh hùng(17);
Tấm gương Bà Triệu sống cùng non sông:
Kiên cường, bất khuất, thuỷ chung…
Thắm tô truyền thống má hồng Việt Nam.
(17)- Ngày 26-2 Mậu Thìn (Tháng 3 năm 248), Bà Triệu hy sinh trên đỉnh Tùng Sơn.
17
- Đặng Văn Hoan -
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

dangvanhoan

5- LÝ NAM ĐẾ, TRIỆU VIỆT VƯƠNG VÀ NƯỚC VẠN XUÂN:
Lần theo sách sử sang trang,
Đầu thế kỷ sáu huy hoàng, khó quên:
Nhà Tề đổ, Nhà Lương lên;
Dân ta nô lệ, càng thêm tủi hờn.
Hướng theo cờ nghĩa Lý Bôn,
Tinh Thiều, Triệu Túc,… bốn phương thề nguyền;
Anh hùng, hào kiệt kết liên
Từ Long Hưng đến các miền xung quanh;
Nghĩa quân rời tỉnh Thái Bình
Kéo về đánh chiếm châu thành Thăng Long(18);
Ngời ngời khí thế tiến công;
Chính quyền đô hộ đi tong, cúi đầu;
Bạo tàn như Vũ Văn Hầu
Cuống cuồng hoảng sợ, mau mau lẩn chuồn,
Tan tành giấc mộng! Giặc Lương
Tiếc mồi ngon, lại điên cuồng kéo sang;
(18)- Lý Bôn, tức Lý Bí quê ở Long Hưng, Thái Bình, đầu xuân năm 542, phất cờ khởi nghĩa, kéo quân từ Thái Bình, đánh chiếm thành Thăng Long.
18
Hai lần thảm bại, kinh hoàng(19)
Thua đau, Lương đế trị oan tướng tài.
Sau bao gian khổ dẻo dai,
Lý Bôn xưng ĐẾ, sánh vai Bắc triều-
Hiệu: Lý Nam Đế, đủ liều
Khiến Nhà Lương phải bớt điều cuồng ngông.
Xuân về, rạng rỡ non sông;
Vạn Xuân, tên nước, hợp lòng muôn dân.
Lý Bôn lo tổ chức quân;
Thuỷ binh thành lập, góp phần vẻ vang.
***
Năm sau, giặc Lương lại sang;(20)
Toàn quân thiện chiến, tướng hàng siêu nhiên,
Theo đường biển, hướng Long Biên…
Lý Nam Đế tới Chu Diên chặn đường;
(19)- Một lần vào tháng4 năm 542, lần sau vào đầu năm 543, giặc Lương đều nếm đòn thất bại, 10 phần, chết tới 7, 8. Lương Vũ ĐẾ kết tội chết hai tướng giỏi cầm quân bị bại trận.Lý Bôn xưng ĐẾ, gọi là Lý Việt Đế( Lý Nam Đế) đổi tên nước thành Vạn Xuân (Vào màu xuân năm 544)
(20)- Năm 545, quân Lương lại kéo sang với những tên tướng giỏi như Dương Phiêu, Trần Bá Tiên
19
Quân ta cản địch kiên cường;
Cậy đông, liều chết, giặc Lương phá thành;
Trải qua nhiều trận giao tranh,
Mấy lần, Lý đế phải đành lui binh;
Phạm Tu anh dũng hy sinh;
Quân ta cầm cự, Gia Ninh giữ bền(21).
Giặc Lương tiếp viện, đông thêm,
Vỗ mặt, tập hậu,…cuồng điên liều mình;
Nào kỳ binh, nào chính binh,
Dạn dày, kinh nghiệm chiến chinh, cáo già;
Tưởng hồ Điển Triệt giúp ta;
Nhưng rồi lợi thế lại là giặc Lương (22);
Lý Nam Đế đã cùng đường,
Gọi Triệu Quang Phục để nhường quyền binh,
Vào động Khuất Lão giữ mình,
Tìm ra kế sách chiến chinh lâu ngày;
(21) Thành Gia Minh vùng Việt Trì,quân ta cầm cự được khoảng 4-5 tháng;
(22) Tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế kéo quân ra đóng ở hồ Điển Triệt (hồ tích Sơn, hay Đầm Vạc, Vĩnh Yên ngày nay). Do trong một đêm, một con nước nổi lên ở sông Hồng chảy mạnh vào trong hồ, nên giặc Lương đóng ở cửa sông đã đánh gấp vào, với lợi thế tiến công đã đánh tan quân Lý Nam Đế;
(23) “Trì cửu chiến” là kế đánh lâu dài theo lối đánh du kích: ngày ẩn náu, đêm bất ngờ tập kích tiêu hao dần sinh lực địch. Đợi thời cơ mới đánh lớn. Lý Nam Đế tìm ra kế “Trì cửu chiến” khi đã nhường binh quyền cho Triệu Quang Phục và sau đó ốm, chết ở động Khuất Lão vào tháng 4/548.
20
Phép “ Trì cửu chiến” là đây!
Tiếc rằng lại có kế hay muộn mằn(23).
***
Triệu Quang Phục lãnh đạo quân
Rút về Dạ Trạch-vùng đầm hoang vu(24)
Với bao lợi thế diệt thù:
Bùn lầy, rắn rết, sương mù cản ngăn…
Giặc Lương không thể tiến quân,
Lại lo nghĩa sĩ bất thần tiến ra;
Từng đoàn độc mộc xông pha…
Chiến tranh du kích hơn ba năm trời;
Lại thêm lực lượng nhiều nơi…
Khiến cho tướng giặc rối bời, hoang mang.
Nước Lương loạn lạc lan tràn;
Bá Tiên về nước, Dương Sàn lên thay…
Địch quân đột ngột lung lay;
Quân Triệu Quang Phục đến ngày phản công:
Đánh to, thắng lớn,…thoả lòng;
Muôn dân hồ hởi, cờ hồng tung bay;
(24)- Đầm Dạ Trạch thuộc huyện Khoái Châu, Hưng Yên.
21
Về Long Biên, cứ thẳng tay
Đánh đòn quyết định, giết ngay Dương Sàn.
Nước non trở lại bình an,
Giang sơn sạch bóng ngoại bang, trường tồn( 25).
Làm nên chiến thắng vang dòn,
Vì dân, Quang Phục vẹn tròn tấm gương;
Lên ngôi, xưng Triệu Việt Vương;
Kế “ Trì cửu chiến” soi đường dài lâu.
(25)- Năm 550, Triệu Quang Phục dành độc lập, nước Vạn Xuân tồn tại hơn 60 năm.
22
6- MAI HẮC ĐẾ ( Mai Thúc Loan) ĐÁNH QUÂN ĐÔ HỘ NHÀ ĐƯỜNG:
Đáng buồn thay, lũ mọt sâu;
Tên Lý Phật Tử có đâu tình người?
Hại Triệu Vương để cướp ngôi,
Cúi đầu, nhục nhã làm tôi Nhà Tuỳ;
Nhà Đường thay thế trị vì(26);
Dân ta nô lệ kém gì trăm năm?
Ngoại bang đô hộ bất nhân:
Bắt phu, bắt lính…muôn dân cơ hàn;
Tham lam, vơ vét bạc vàng,
Trái ngon, vật lạ,…chúng mang về triều.
Mai Phu - Làng biển, dân nghèo(27)
Có chàng trai trẻ vốn nhiều khó khăn:
Mẹ cha sớm mất, một thân
Đốn củi, ở đợ, kiếm ăn cùng đường;
Trai tài, trí ở bốn phương,
Kết giao hào kiệt, tích lương chờ thời,
(26)- Lý Phật Tử cướp ngôi của Triệu Việt Vương rồi đầu hàng bọn xâm lược Nhà Tuỳ năm 603; sau đó đến bọn phong kiến Nhà Đường thay nhau thống trị nước ta hàng trăm năm.
(27)- Mai Phu thuộc huyện Thiên Lộc, châu Hoan( Nay là vùng biển Thạch Hà, Hà Tĩnh) là quê hương Mai Thúc Loan
23
Quyết tâm đạp đất, đội trời;
Mai Thúc Loan - Một con người thông minh.
Sa Nam, căn cứ xuất binh;
Láng giềng, mấy nước, chân tình kết liên(28)
Đường đi cống vải - Trận tiền -
Bất ngờ đánh úp chính quyền Hoan Châu;
Đáng đời lũ giặc thua đau;
Dương Phi thèm trái, còn đâu nụ cười?(29)
Cả Hoan, Diễn, Ái…khắp nơi
Đồng loạt nổi dậy, biển sôi sóng kình.
Ba, bốn chục vạn nghĩa binh(30)
Dương cao cờ nghĩa, thắm tình quân dân.
Ba châu giải phóng toàn phần(31)
Thúc Loan xưng đế, tinh thần xa vang;
Đóng đô ở thành Vạn An…
Lời ca thuở ấy rõ ràng biểu dương:
(28)- Mai Thúc Loan không những liên kết các hào kiệt trong nước mà còn liên kết với các nước láng giềng như Chân Lạp, Lâm Ấp, Kim Lân ( Mã Lai) để phối hợp chống Nhà Đường.
(29)- Sách cũ viết:” Vải quả làng Quang Liệt là thứ quả mà Đường Minh Hoàng đã mua được nụ cười của Dương Quý Phi”.
(30)- Chiếm 1/5 dân số cả nước hồi ấy
( 31)- Ba châu gồm: châu Hoan, châu Diễn, châu Ái. Vì da mặt Mai Thúc Đế đen, nên gọi là Mai Hắc Đế.
24
-“ …Tiếng hô hưởng ứng bốn phương
Uy danh bách chiến khiến Đường phải kinh
Sông Lam, trăng lấp sóng kình
Núi Hùng sớm đã bặt hình sói lang”
Bản doanh, thành luỹ vững vàng;
Tiến quân ra Bắc, đánh tan giặc Đường.
Quảng Sở Khách phải vội chuồn
( Tên Đô hộ sứ vẫn luôn khoe mình).
Vua Đường được tin, thất kinh,
Sai Dương Tư Húc xuất binh điên cuồng-
Đã từng ngang dọc bốn phương-
Mười vạn quân tướng hùng cường đánh sang.
Quân ta dạ sắt, gan vàng;
Vẫn không giữ được Vạn An, đô thành.
Rừng sâu, tạm lánh giao tranh;
Thúc Loan vĩnh viễn giấc lành nơi đây.
Tồn hưng, tuy chẳng bao ngày,
Tấm gương phục quốc bấy nay lưu truyền.
25
- Đặng Văn Hoan -
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

dangvanhoan

7- PHÙNG HƯNG ĐƯỢC NHÂN DÂN TÔN XƯNG LÀ “ BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG”:
Nhà đường cai trị, lộng quyền;
Giữa thế kỷ tám, càng thêm bạo tàn:
Cao Chính Bình - Đô hộ quan-
Đặt bày thuế khoá trái ngang, nặng nề,
Thẳng tay hà hiếp dân quê…
Lửa hờn căm lại bốn bề bốc cao;
Đường Lâm sinh ra anh hào(32),
Phùng Hưng đánh cọp, mưu cao, sức hùng;
Với em - Phùng Hải- kiên trung,
Dân lành, hào kiệt khắp vùng xin theo.
Tống Bình (33) tưởng đã xuôi chiều?
Quân binh nổi dậy, hò reo ngút trời;
Phủ thành đô hộ rối bời;
Phùng Hưng, Phùng Hải đón thời, ra tay:
Đánh Đường Lâm, chiếm được ngay;
Phong Châu lập cứ, dựng xây thành trì…
Hơn mười năm vững danh, uy;
Bao phen phá giặc, chẳng suy cao trào;
(32)- Đường Lâm thuộc thôn Cam Lâm, huyện Ba Vì, Hà Tây.
(33)- Tống Bình tức Hà Nội.
26
Họp bàn: Có kế sách nào-
Xoay chuyển tình thế, dựa vào lòng dân-
Muôn người như một, đồng tâm:
Tiến công! Đốc xuất vạn quân lên đường,
Phủ thành, công phá kiên cường;
Đầu rơi đầy nội, giặc Đường thua to;
Chính Bình đóng chặt cửa đô,
Lại e quân sỹ bất ngờ nổi lên…
Nỗi lo chồng chất tăng thêm,
U sầu, lâm bệnh, chết hèn, chết đau;
Quân binh dưới trướng cúi đầu…
Ngoại bang, mộng bá, có đâu yên lành?
Phùng Hưng muôn thuở thơm danh:
Vì dân, vì nước đấu tranh quật cường;
Người người cảm phục, tiếc thương,
Tôn xưng; “ Bố Cái Đại Vương” anh hùng.
27
8- CUỘC BINH BIẾN DƯƠNG THANH ĐẾN HÀNH ĐỘNG GIÀNH QUYỀN TỰ CHỦ CỦA HỌ KHÚC:
Phùng An, con của Phùng Hưng
Yếu hèn, bất lực, không cùng trí cha,
Đã không giữ được sơn hà;
Nhà Đường lại cướp nước ta, trị vì;
Ba tên đô hộ đến, đi…
Dân ta bất khuất, ai quỳ mặc ai.
Lý Tượng Cổ được đặc sai(34)
Sang An Nam để quản cai tức thì;
Một nghìn bộ hạ cùng đi,
Hung hăng, nhưng lại ngu si, đáng cười:
“ Cao tay”, bày chuyện kiềm người:
Dương Thanh - Hào trưởng- vẹn mười uy danh;
Cổ cho vời đến Tống Bình,
Cho làm nha tướng, để mình dễ sai;
(34)- Năm 819, vua Đường chọn tên tay sai tin cẩn, nổi tiếng “Khắc nghiệt, hung bạo” đem theo một nghìn bộ hạ sang cai trị đất An Nam
28
Nhân khi có loạn bên ngoài;
Sai Dương Thanh kíp ra oai Đường triều(35)
Ba nghìn binh sỹ đem theo;
Buộc ông nhuốm máu, hết điều ngả ngiêng…
Ngờ đâu - Quả báo nhãn tiền-
Dương Thanh xuất trận, lại đem quân về
Đốc quân với thế chẻ tre;
Tống Bình rửa hận, bốn bề bủa vây;
Lý Tượng Cổ đã phơi thây,
Hơn nghìn bộ hạ hồn bay, xác chồng…
Vua Đường tức tối đầy lòng,
Vẫn làm ra bộ khoan dung, nhẹ nhàng;
Cử ông ra đảo Hải Nam;
Dương Thanh kháng lệnh, giữ an Tống Bình.
Vua Đường lại giả thuận tình,
Cử Quế Trọng Vũ thay mình liệu cơ
Sang làm đô hộ, đợi chờ…
Dùng mưu ly gián, bất ngờ ra tay.
(35)- Dương Thanh được Nhà Đường phong thứ sử châu Hoan;Nhưng chúng rất sợ ông. Lý Tượng Cổ vời ông về Tống Bình để dễ kiềm chế.
Nhân Quảng Tây có loạn dân Tày, Nùng, Mán nổi lên chống lại Nhà ĐƯỜNG; Lý Tượng Cổ sai Dương Thanhđem 3000 quân đi dẹp loạn.
29
Dương Thanh vốn tính thẳng ngay,
Bởi không cảnh giác, đến ngày hy sinh.
***
Lửa hờn trong đám Việt binh
Khiến quan đô hộn hãi kinh, kêu trời(36),
Nhằm Quảng Châu, chạy đứt hơi,
Lý Nguyên Gia suýt đi đời, làm ma.
Vũ Hồn mò sang nước ta(37),
Chưa ngồi ấm chỗ, cùng đà xéo ngay.
Đến khi Vương Thức sang thay
Lại lo mất mật, đêm ngày co ro.
Vua Đường ranh mãnh giở trò:
Cử thày địa lý sang lo yểm bùa
Cắt đứt long mạch “Đất vua”,
Còn đâu độc lập? Hãy chừa đấu tranh…
Dân ta, trong “Pháo đài xanh”
Kiên cường chống chọi, quyết dành tự do;
(36)-Quan đô hộ sau Quế Trọng Vũ là Lý Nguyên Giấpphỉ kêu rằng dân ta “ hay sinh lòng làm phản” ( Vì đám binh sỹ người Việt nổi dậy đánh đuổi chúng.
(37)- Kinh lược sứ Vũ Hồn sang nước ta năm 841 đã phải chạy ngay về Quảng Châu vì binh lính ở phủ đô hộ khởi loạn. Năm 858, kinh lược sứ Vương Thức lại bị mất mật khi đang nằm co ro trong thành có hào sâu, lại trồng cây táo gai dày đặc làm chiến luỹ.
30
Giặc Nam Chiếu đã thua to;
Vua Đường thấy thế, lai ngờ “Phát vương”(38);
Sai Cao Biền gấp lên đường
Đánh tan Nam Chiếu, cướp luôn chốn này(39).
Vốn quen bịp bợm xưa nay,
Cao Biền khoác lác, tỏ bày tài cao:
- Một phát tên, hai chim nhào;
- Ngồi trên diều giấy, bay cao lưng trời;
- Yểm âm binh hại muôn người;
-Đi tìm huyệt ĐẾ vẹn mười thành công…
Những trò ma quỷ viển vông
Đủ điều mê hoặc, những hòng doạ dân.
Biền lo sát hại công thần,
Diệt trừ hào trưởng có tâm giúp đời;
(38)-Sau những luỹ tre làng ( Những pháo đài xanh”, dân ta kiên trì đánh giặc Nam Chiếu(từ Vân Nam xuống), trong khi bọn đô hộ Nhà Đường ( Cả những tên tướng giỏi, thày phù thuỷ, thày địa lý…) đều ôm đầu chạy hết. Quân ta thắng lợi giòn giã, khiến vua Đường sợ nước ta lại phát đế vương nên sai Cao Biền sang tiếp đòn đánh quân Nam Chiếu và dựng lại ách thống trị Nhà Đường ở nước ta.
(39)- Năm 866, vua Đường phong Cao Biền chức Tiết độ sứ ( Từ đây, không còn gọi là đô hộ sứ nữa), sang cai trị nước ta
31
Tống Bình, thành cũ, đắp bồi,
Mở mang, nay đổi tên rồi: Đại La!
Biết bao chước quỷ, mưu ma
Để lo phòng chống dân ta vẫy vùng.
Dân Nam sáng tạo, anh hùng,
Biết bao truyền thống kiên trung lưu truyền:
- Bà hàng nước xỏ Cao Biền;
Âm binh “ dậy sớm” hoá viên đất tròn(40)
- Thành Đại La, sợ mất hồn:
Bởi thần Long Đỗ nổi cơn tam bành
Khiến cho tượng sắt tan tành;
Cao Biền hoản hốt, thất kinh phải chuồn(41)
(40)- Cao Biền giao cho bà hàng nước ở gần nơi Biền nuôi âm binh 100 thẻ hương và bảo bà mỗi ngày thắp một thẻ, đủ 100 ngày hàng nước sẽ phát tài. Nhưng bà chỉ đốt có ít ngày, rồi đem đốt hết nên âm binh đã “dậy non”, run lẩy bẩy và hoá ra đất hết. Do đó có câu: “ Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”
(41)-Cao Biền đắp xong thành Đại La, khi dạo chơi ở cửa Đông thành thì trời nổi cơn mưa to, gió lớn, Thần Long Đỗ hiện ra trong đám mây ngũ sắc. Biền sợ hãi, định lập đàn cúng yểm. Đến đêm, nằm mơ thấy thần Long Đỗ, Biền bèn họp chư tướng, kể lại và nghe theo lời bàn: Dùng 1000 cân sắt đúc tượng thần để làm bùa yểm. Vừa lập đàn, Biền đọc thần chú thì dông gió đùng đùng nổi lên, đất trời mù mịt, tượng sắt ngàn cân tan vụn ra, bay lên không trung; Biền sợ hẫi than:” Xứ này có thần kinh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ, ta phải về Bắc mất thôi” Sau đó Biền phải cuốn gói bỏ đi.
32
Dựng lên truyền thuyết lạ thường,
Cũng là tỏ trí kiên cường, thông minh;
Đấu tranh không sợ hy sinh,
Quyết tâm, bền bỉ, nghĩa tình sắt son;
Tự tôn, tự trọng… vẹn tròn;
Khát khao độc lập, sống còn vẻ vang.
***
Thế kỷ mười sắp sang trang;
Nhà Đường mục nát, xẻ đoàn cắn nhau;
Dân lành nổi dậy đối đầu;
Đường triều lay động, Hoàng Sào khởi binh…(42)
Bên ta, cũng chẳng yên bình,
Chính quyền đô hộ: Nội tình rối ren…
Khúc Thừa Dụ đã đứng lên(43)
Tiến quân đánh chiếm, dẹp yên Tống Bình;
Đường triều đang lúc loạn binh
Phải đành công nhận sự tình đã qua;
Tước phong Thừa Dụ ban ra:
“Đổng bình chưởng sự”- Chỉ là hư danh-
(42)- Ở Trung quốc, cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào (874- 884)làm lung lay đến tận gốc rễ nền thống trị Nhà Đường
(43)- Khúc Thừa Dụ là một hào trưởngtừ đất Hồng Châu (Ninh Giang, Hải Hưng) lãnh đạo nhân dân đánh thành Tống Bình và xưng tiết độ sứ năm 905
33
Bởi quyền tự chủ đã giành;
Nước non mình, lại do mình dựng xây…
Nhà Đường đổ, Hậu Lương thay(44)
Cùng năm Thừa Dụ xuôi tay, từ trần;
Khúc Thừa Hạo lên quản dân,
Xưng Tiết Độ sứ, cách tân nghiệp nhà:
Giữ quyền tự chủ như cha;
Cải cách chính sự, nhà nhà yên vui.
Lại là một việc đã rồi:
Hậu Lương buộc phải nhận lời ban phong(45)
Để rồi, sau đó đổi lòng;
Nhà Lương giở mặt, đã không giữ lời;
Chúng cho Lưu Ẩn đến nơi
Làm Tiết độ sứ đất trời An Nam(46)
(44)- Năm 907, ở TQ: Chu Ôn lật đổ Nhà Đường, lập ra nhà Hậu Lương
(45)- Khúc Thừa Hạo ( Con của Khúc Thừa Dụ)thực hiện cải cách hành chính, quân sự, thực hiện” Bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ kê khai hộ khẩu…, chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui” Nhà Hậu Lương buộc phải công nhận chức Tiết độ sứ của Khúc Hạo.
(46)- Nhà Hậu Lương thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ; Nhưng chỉ năm sau(908) đã trở mặt bằng cách choLưu Ẩn( Tiết độ sứ của Nhà Đường) kiêm chức “ Tinh hải quânTiết độ sứ An Namđô hộ”; Nhưng Khúc Thừa Hạo kháng cự quyết liệt và chuẩn bị đối phó khiến nhà Hậu Lương co vòi lại
34
Khúc Hạo lập trường vững vàng,
Kháng cự quyết liệt, sẵn sàng ra tay;
Nhà Lương lại co vòi ngay…
Vài năm sau- Đã đổi thay rất nhiều-
Lưu Nham lập Nam Hán triều;
Khi cha ( Lưu Ẩn) hồn xiêu, phách rời.
Khúc Thừa Hạo cũng qua đời;
Khúc Thừa Mỹ lại vẫn noi cha già:
Xưng “ Tiết độ sứ” nước ta(47)
Chăm lo xây dựng sơn hà phồn vinh.
Mộng bành trướng vốn đầy mình,
Chúa Nam Hán đã xuất binh bạo tàn,
Đánh xong Bắc, lại xuống Nam;
Bắt Khúc Thừa Mỹ, phá tan Tống Bình;
Nhằm châu Hoan, Ái tiến binh…
Cơ nghiệp họ Khúc: Thôi đành dở dang;
Thế nhưng trong thiên sử vàng
Chiến công giữ nước ngân vang đời đời.
(47)- Khi Lưu Ẩn chết, con là Lưu Nham lên thay, chiếm cứ cả vùng Quảng Châu, lập ra nước Nam Hán (917), một trong mười nước ở TQ bấy giờ. Cũng năm đó, Khúc Thừa Hao chết, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay, vẫn xưng là Tiết độ sứ.
35
- Đặng Văn Hoan -
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

dangvanhoan

9- VUA NGÔ QUYỀN VÀ CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG GIANG:
Mộng bành trướng đã thành rồi!
Giặc Nam Hán vẫn đứng ngồi không yên.
Chỉ bằng một trận xông lên,
Dương Đình Nghệ đã tô thêm sử vàng:
Con nuôi ( Danh nghĩa rõ ràng),
Chính là lực lượng ba ngàn nghĩa binh;
Anh hùng, hào kiệt liên minh;
Từ Ái Châu, bất thình lình tiến ra,
Đánh Giao Châu, chiếm Đại La…
Giặc chạy tán loạn, chết già nửa quân(48);
Lý Tiến trốn chạy thoát thân;
Nổi giận, chúa Hán quyết tâm rửa hờn;
Khổ thân Trần Bảo tài non:
Vây người! Lại bị quây tròn: Người vây;
Đánh vận động, dụng mưu hay,
Giết chết Trần Bảo ở ngay trận tiền,
Dương Đình Nghệ lại tiến lên
Quét sạch Nam Hán mọi miền non sông.
(48)-Dương Đình Nghệ ( Dương Diên Nghệ) quê ở Ái Châu( Thanh Hoá) một ngày tháng 3 năm 931, thừa lúc giặc chưa ổn địnhbộ máy đô hộ, và lòng dân đã thuận, bèn cấp tốc đem quân từ Ái Châu tiến ra đánh uý Giao Châu, chiếm được thành Đại La. Thứ sử Lý Tiến phải bỏ chạy.
36
Bất ngờ, liên tục tiến công,
Toàn dân đoàn kết, đầy lòng tự tin…
Đã cho chiến thắng vang rền;
Bài học đánh giặc khó quên vẫn còn. Để Nam Hán” ngậm bồ hòn”,
Bớt điên đảo, bớt ngó nhòm nước ta;
Dẻo mềm, sách lược nhìn xa,
Xưng “ Tiết độ sứ’ cũng là đương nhiên.
Xây nền tự chủ vững bền;
Không may, bị tướng dưới quyền cướp công(49)
(Phản thày, đâu dễ thoát vòng?
Kiều Công Tiễn sớm thân vong, tội đền)
***
Xứ Đường Lâm có Ngô quyền(50)
Nổi danh trí dũng, lực bền, sức sung,
Cùng Dương Đình Nghệ vẫy vùng,
Đánh quân xâm lược, lẫy lừng chiến công;
(49)- Dương Đình Nghệ chăm lo xây dựng nền tự chủ của đất nước mới giành lại được thì bị tên tướng dưới trướng là Kiều Công Tiễn sát hại, đoạt lấy chức tiết độ sứ năm 937
(50)- Ngô Quyền ở Đường Lâm, cùng quê hương với Phùng Hưng, là người “ có dáng đi như hổ, binh mưu, vũ lược không cái gì không tinh thông.
37
Nghe tin Công Tiễn bất trung,
Ngô Quyền giận giữu, quyết lòng không tha,
Từ châu Ái, kéo quân ra…
Công Tiễn hèn nhát, theo đà hại dân:
Cầu xin Nam Hán viện quân,
Cũng là bán nước, ôm chân kẻ thù;
Vết nhơ còn mãi nghìn thu.
Ngô Quyền tức tốc tiễu trừ kẻ gian:
Thành Đại La đã dẹp an,
Kiều Công Tiễn đã thân tan, hồn lìa(51)
Giặc Nam Hán cướp nước kia
Coi chừng cũng chuốc lấy bia miệng đời.
Hoằng Thao đem hai vạn người,
Mấy trăm thuyền chiến, rạch trời tiến sang;
Chúa Hán đóng Hải Môn quan
Để làm thanh viện ở đàng sau con.
Bach Đằng giang nổi sóng cồn(52)
Cuối năm giá rét, mưa tuôn dầm dề;
(51)- Tháng 11 năm 938, Ngô Quyền từ Ái châutiến quân ra Bắc đánh thành Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn, trừ được hoạ bên trong, ổn định tình hình cả nước
( 52)- Năm 938, sông Bạch Đằng đi vào lịch sử dân tộc với chiến công vang dội của Ngô Quyền đánh tan giặc Nam Hán
38
Hàng nghìn cây gỗ đốn về,
Lòng sông, cắm kín, đầu rê thượng nguồn;
Hàng hàng nhọn hoắt, ánh gươm
Bởi đầu bịt sắt, can trường chờ trông…
Dương Tam Kha, tả ngạn sông;
Xương Ngập mạn hữu, tấn công tạt sườn(53)
Đạo quân mạnh để chặn đường:
Ngô Quyền chỉ đạo, giặc lường được sao?
Thuyền giặc vượt biển tiến vào;
Trời còn mớ sáng, triều cao, thuận buồm…
Nguyễn Tất Tố - Người địa phương-
Chỉ huy nhử địch, ngọn nguồn hiểu sâu;
Vừa lùi, vừa quyết đối đầu
Để khi triều xuống, giặc đâu có ngờ:
Trận địa mai phục đợi chờ;
Nước sông dần thấp, cọc nhô đón thuyền;
Phản công- Thuỷ quân Ngô Quyền-
Xuôi dòng, vùn vụt xuống miền hạ lưu;
(53)- Dương Tam Kha là con Dương Đình Nghệ, chỉ huy quân bộ bên tả ngạn; Ngô Xương Ngập ( con của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy quân bộ bên hữu ngạn mai phục đánh tạt sườnđịch và tiêu diệt quân địch chạy lên bờ.
39
Quân mai phục cũng hoà theo,
Tạt sườn, đánh mạnh, thuỷ triều rút nhanh…
Hoằng Thao hoảng loạn, thất kinh,
Vội vàng ra lệnh rút binh, quay thuyền;
Những cây cọc nhọn chôn xiên;
Thuyền lớn của giặc- Ngửa ngiêng- xô vào;
Quân ta khí thế bốc cao:
Thuyền nhỏ luồn lách, gươm đao sáng loà;
Cửa sông đã chặn đường ra;
Đội thuyền mai phục của ta tiến vào…
Bach Đằng cuồn cuộn sóng trào;
Giặc chết hàng vạn, Hoằng Thao bỏ mình;
Thương con, vua Hán bãi binh;
Ý chí xâm lược tan tành từ đây.
Ngô Quyền- Đánh giặc- cao tay;
Nghệ thuậtn quân sự thêm dày, thêm sâu;
Chiến công vang dội toàn cầu;
Nghìn năm mất nước u sầu đã qua;
Một thời kỳ mới mở ra:
Chính quyền phong kiến quốc gia tự cường.
Ngô Quyền đại thắng, xưng vương(54)
(54)- Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương, lấy Cổ Loa làm kinh đô
40
Đề cao ý chí tự cường dân ta:
Đô thành lại chọn Cổ Loa
( Nơi An Dương đã gọi là kinh đô)
Vì độc lập, vì tự do;
Bạch Đằng giang vẫn sóng xô đời đời.
41
10- TỪ ĐINH BỘ LĨNH ĐẾN LÊ HOÀN: KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG XÂM LƯỢC LẦN THỨ NHẤT
Sáu năm ngắn ngủi giữ ngôi,
Ngô Quyền tạ thế, rối bời lòng dân:
Nước ta: Mười hai sứ quân;
Tập đoàn phong kiến chia phần diệt nhau.
Bắc triều nào có khác đâu?
“ Ngũ đại thập quốc” (55) đối đầu phân tranh…
Đến khi Nhà Tống tung hoành,
Giang sơn một mối, đã giành giật xong;
Nước ta- Dân cũng thoả lòng-
Bởi Đinh Bộ Lĩnh chiến công huy hoàng:
Dẹp loạn, thống nhất giang san,
Lên ngôi hoàng đế, chấn an dân tình;
Đô Hoa Lư ở Ninh Bình;
Nước Đại Cồ Việt quang vinh vững vàng(56)
(55)- “ Ngũ đại thập quốc” tức thời “ Năm đời mười nước” xâu xé lẫn nhau
(56)- Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế( Gọi là Đinh Tiênn Hoàng) đổi tên nước là Đai Cồ Việt, lập đô ở Hoa Lư (Ninh Bình)
42
Mười hai năm được bình an;
Thay cha bị hại, Đinh Toàn nối ngôi;
Vẫn đang ở tuổi ăn chơi!
Dương Thị thái hậu lựa lời khuyên con;
Chọn người lo việc nước non;
Lê Hoàn, tài đức vẹn tròn, đảm đang(57).
Tống vương biết tin nước Nam
Mất Đinh Bộ Lĩnh, liền bàn khởi binh…
Dân ta không sợ hy sinh;
Chỉ e tuổi nhỏ, vua Đinh dại khờ…
Đồng lòng; “vạn tuế!” tung hô,
Áo bào, Dương hâụ khoác cho Lê Hoàn.
***
Nhà Tống, binh mã sẵn sàng;
Viết thư, ngạo mạn, dụ hàng vua ta.
Lê Hoàn mở thư xem qua,
Giận quân cướp nước điêu toa, phỉnh phờ;
Gắng kìm mình đợi thời cơ
Sai người viết biểu, giả vờ xuống thang;
(57)- Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh và con cả là Đinh Liễn bị ám hại, chú bé 6 tuổi, con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn nối ngôi;
mẹ là Dương Vân Nga được tôn lầ Hoàng thái hậu, Thập đại tướng quân Lê Hoàn đứng ra giúp vua cáng đáng việc nước
43
Quân ta tranh thủ thời gian
Chuẩn bị kháng chiến, đập tan mộng cuồng.
Vốn khao khát mộng bá vương,
Quân Tống- Thuỷ bộ- hai đường kéo sang(58)
Hung hăng, thuyền chiến một đoàn,
Lưu Trừng hướng Bạch Đằng giang, tiến vào;
- Vẫn còn nhớ chuyện Hoằng Thao;
Lần này, thuyền nhẹ, lẽ nào không hơn?-
Già đời thuỷ chiến, chưa khôn;
Lưu Trừng cứ tưởng xơi ngon chuyến này…
Quân ta ẩn hiện, đó đây,
Bất ngờ đánh trả, diệt bầy sói lang;
Vờ thua, giăng bẫy, đón đàng,
Hai lần quyết chiến đánh tan giặc thù…
Thuỷ binh giặc bị loại trừ;
Bạch Đằng giang lại nghìn thu vang rền.
***
(58)- Tháng 3 năm Tân Tỵ (981), quân Tống từ hai ngả thuỷ, bộ rầm rộ kéo sang xâm lược nước ta
44
Bộ binh giặc chậm như sên;
Toàn Hưng, Nhân Bảo làm nên trò gì?
E dè từng bước chân đi,
Qua Lạng Sơn, chúng ở lỳ Chi Lăng(59)
Bảy mươi ngày cứ chờ trông
Ngóng xem quân thuỷ tiến công thế nào?
Tịt mù, chưa biết tính sao;
Chần chừ, chẳng dám tiến vào vùng sâu.
Quân ta chờ đợi đã lâu;
Lập mưu để chúng đưa đầu “vào hang”(60)
( Nơi ta mai phục sẵn sàng);
Ải Chi Lăng, xác ngoại bang chất chồng;
Dính đao, Bảo cũng thân vong;
Toàn Hưng chẳng kém: Long đong chạy dài…
(59)- Hầu Nhân Bảo giữ tiền quân, Tôn Toàn Hưng giữ trung quân tiến theo đường bộ vào Lạng Sơn đến đóng binh ở miền Chi Lăng
(60)- Quân ta cho người trá hàng, tung tin là binh sỹ Việt sợ quân Tống đến đã bỏ trốn nhiều, quân Tống đi đường thuỷ đang thắng to, sắp tiến về kinh đô… để Hầu Nhân Bảo yên tâm tiến quân và rôi vào bẫy của ta
45
Tin thua, sét đánh bên tai;
Tống vương kinh hãi, mất oai, ngậm hờn;
Chiếu lui binh vội phê luôn…
Gọi tướng bại trận trút cơn lôi đình:
Toàn Hưng, Giả Thực: cực hình,
Nhiều tên: Giáng chức (61), oan tình, dám kêu?
Đòn đau, nhục nhã, Tống triều
Phải đành nuốt hận, càng nhiều trái ngang.
Quân ta thắng lợi, khải hoàn;
Non sông trở lại bình an, tự cường.
(61)- Giả Thực bị bêu đầu ở chợ Ung Châu, Toàn Hưng bị giam ngục, rồi chết chém, Khâm Tộ và một số tên tướng khác bị giáng chức.
46
- Đặng Văn Hoan -
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

dangvanhoan

11- QUÂN DÂN THỜI NHÀ LÝ KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG XÂM LƯỢC LẦN THỨ HAI:
Lời ca ngợi khắp bốn phương:
Lê Hoàn đánh giặc sáng gương Tiên rồng;
Lại lo xây dựng non sông,
Vì dân, vì nước, góp công, trổ tài…
Lê Long Đĩnh lắm trái sai;
Lòng dân ly tán, nhớ hoài Tiền Lê.
Lý Công Uẩn liệu vỗ về,
Mở đầu triều Lý, tính bề dựng xây;
Đô Hoa Lư chuyển về đây:
Thăng Long là đất rồng bay - Tuyệt vời!
Nước Đại Việt mãi rạng ngời…
Nhân Tông- bảy tuổi - nối ngôi(62) sau này;
(62)- Triều Tiền Lê bắt đầu từ Lê Đại Hành( Lê Hoàn)có nhiều cống hiến trong sự nghiệp đánh quân Tống xâm lược và xây dựng đất nước. Đến Lê Long Đĩnh lại bạo tàn, lòng dân ly tán. Đĩnh chết, triều đình đưa Lý Công Uẩn lê ngôi vua, bắt đầu triều Lý ( Năm 1009); Đến năm 1010, Lý Thái Tổ ( Tức Lý Công Uẩn) rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, năm 1054, đổi tên nước là Đại Việt. Năm 1072, Lý Thánh Tông từ trần, Lý Nhân Tông mới bảy tuổi lên nối ngôi.
47
Tống triều đợi mãi bấy nay,
Cơ hôị xâm lược giờ đây đã thành:
Hãy lo khuấy động chiến tranh
Tạo uy để đánh tan tành Hạ, Liêu(63)
Lại thêm của quý có nhiều;
Muốn vơ vét được, phải liều đánh sang.
Trước tiên, lập cứ vững vàng;
Ung, Khâm, Liêm đã sẵn sàng ra tay:
Quân, lương,vũ khí đủ đày;
Ba mũi dao nhọn đợi ngày đâm ta(64)
Lý triều đã sớm lo xa;
Giang sơn một mối, quốc gia hùng cường:
Tổ chức quy củ khác thường(65)
(63)- Hai nước Hạ, Liêu ở phía Bắc luôn uy hiếp, quấy nhiễu khiến quân Tống thảm bại, phải cắt đất cho hai nước đó. Vua Tống và Vương An Thạchđịnh đánh nước ta để tạo uy thế, đánh lại hai nươc Hạ và Liêu này.
(64)- Quân Tống tích trữ lương thực, vũ khí, tập trung binh lực vào ba thành Ung, Khâm, Liêm( chủ yếu là thành Ung) để làm bàn đạp tấn công nước ta.
(65)- Lý Thái Tổ phân chia các khu vực hành chính: Từ Lộ, đến Phủ, đến Huyện, rồi Hương, Giáp hoặc châu, Trại (Nếu ở miền núi), phong tước vương cho các hoàng tử để chấn trị các nơi trọng yếu, gả các công chúa cho các tù trưởng ở miền núi để thắt chặt quan hệ với các nơi hẻo lánh
48
Vũ trang nhiều cấp, trăm phương diệt thù(66)
Vừa lo sản xuất thừa dư,
Vừa lo đánh giặc thật cừ, thật hay(67)
Đầu triều, giúp vua hàng ngày:
Đaọ Thành, Thường Kiệt,là bày tôi trung,
Vẹn toàn tài, trí anh hùng,
Vì dân, vì nước, lại cùng phò vua;
Quên đi vướng mắc khi xưa(68)
Đồng tâm diệt giặc, đã thừa tiếng khen.
(66)- Tổ chức lực lượng vũ trang nhiều cấp: Cấp trung ương có quân Cấm Vệ, ít, nhưng tinh, là quân thường trực triều đình; Quân các Lộ cũng thuộc trung ương, nhưng ở các Lộ, Phủ, Châu,là lực lượng đông đảo nhất, cơ động từ nơi này đến nơi khác; Ở hương, Giáp có Hương binh, miền núi có Thổ binh tác chiến tại chỗ; Ngoài ra còn có quân riêng của các vương hầu, tù trưởng cũng cơ đông như quân các lộ…Địch đến đâu, cũng bị đánh; Đánh đêm, đánh ngày, đánh to, đánh nhỏ, chặn trước, thọc sườn, đánh thốc sau lưng…
(67)- Thực hiện chính sách “ Ngụ binh ư nông”( Gửi quân lính ở nhà nông), vừa đảm bảo yêu cầu quốc phòng, vừa duy trì lực lượng cần cho sản xuất, phát triển kinh tế.
(68)- Thái uý Lý Thường Kiệt (Tức Ngô Tuấn) và Thái sư Lý Đạo Thành vốn có hiềm khích riêng; Nhưng khi giặc Tống có ý định xâm lược nước ta, thì hai ông đã xoá bỏ hờn oán, kết hợp với nhau để giúp dân đánh giặc, cứu nước.
49
Quyết không sống nhục, sống hèn;
Đánh cho giặc Tống một phen kinh hoàng.
“ Tiễu trừ cọp, đến tận hang”
Lý Thường Kiệt đã họp bàn tỏ thông(69)
***
Đêm rằm tháng chín trăng trong,
Diệt binh Cổ Vạn, lập công trận đầu-
Thổ binh ta có kém đâu?-
Lại thêm một số trại, châu giặc hàng.
Đoàn thuyền Đại Việt hiên ngang;
Thành Khâm- Vĩnh Thái- cũng đành bó tay(70)
( Chủ quan, kiêu ngạo xưa nay
Là điều ngu muội của bày xâm lăng);
Kho lương, vũ khí… san bằng;
Quân ta thừa thắng, diệt phăng mấy đồn.
(69)- Lý Thường Kiệt chủ trương “Ngồi yên đợi địch không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc”. Cuộc “Đại triều bất thường” họp tại Thăng Long vào ngày đầu xuân năm Ất Mão(1075)
Bàn thực hiện ý định của ông.
(70)- Tướng Tống là Trần Vĩnh Thái tổng quản Thành Khâm chủ quan, kiêu ngạo mở tiệc chè chén, khi quân ta ập đến đã không kịp chống đỡ phải đầu hàng ngay.
50
Ba ngày sau, Lỗ Khánh Tồn
Với Thành Liêm, cũng mồ chôn mất rồi.(71)
Thành Ung Châu, địch rối bời:
Quân ta từ khắp mọi nơi tiến vào;
Vừa nghi binh giấu cao trào,
Vừa ban “ Lộ bố” xôn xao lòng người(72):
Tống dân hò hát, reo cười,
Trống chiêng, rượu thịt,... đón mời quân ta.
Bởi tầm nhìn rộng, trông xa;
Lý Thường Kiệt đã tạo đà, lập công.
Vòng vây khép kín đã xong;
Thành Ung quyết chiến ( Dốc lòng hai bên):
-Ta: vì kế hoạch chưa quên
Phá tan sào huyệt vững bền đối phương.
(71)- Chiến thắng ở Thành Khâm, quân ta san bằng các kho lương thực, vũ khí đầy ắp của địch, đồng thời đánh úp các trại Như Hồng, Như Tích, Đề Trạo( cũng thuộc Thành Khâm). Ba ngày sau Thành Liêm lại lọt vào tay ta; Chủ tướng giặc là Lỗ Khánh Tồn tử trận.
(72)- Ta cử một bộ phận tiến về châu Duy, châu Bạch để thực hiện đòn nghi binh bằng cách hư trương thanh thế khiến địch lầm tưởng ta đánh theo hướng đó và giấu ý định đánh Ung Châu. Đồng thời, ta ban : Lộ bố” vạch tôi ác của địch, và nói rõ ý đồ phá vỡ kế hoach xâm lược của địch để cứu vớt nhân dân khỏi lầm than do chiến tranh gây nên.
51
- Địch: Kìm ta, để tìm đường
Cho quân đánh úp, cướp luôn đô thành(73)
Lệnh công kích đã truyền nhanh;
Kẻ thù chống đỡ, giao tranh điên cuồng.
Quân ta dũng cảm, kiên cường,
Đổi thay chiến thuật, tìm phương công thành:
Khi máy bắn đá vận hành,
Mũi tên “ Khai hoả” để dành thế công;
Đội quân cảm tử xung phong,
Vượt từơng, liều chết, quyết không chịu lùi;
Khi trong lòng đất luồn chui,
Đào hầm, khoét ngách, tiến lui bất ngờ;
Khi tên tẩm nhựa đốt kho;
Quân doanh cháy trụi, giặc lo cuống cuồng;
Lại thêm dịch bệnh, tai ương…
Địch chết vô số, hết đường huênh hoang;
Tô Giám vẫn không chịu hàng;
Ta cho đổ đất, đắp đàng dần cao
(73)- Quân ta quyết phá tan thành Ung để thực hiện kế hoạch san bằng căn cứ xâm lược của địch. Quân địch quyết giữ vững thành Ung để kìm chân 10 vạn quân của ta hòng đem quân đánh úp chiếm nước ta rồi sau đó tiêu diệt cả 10 vạn quân ta đang còn bị kìm ở Ung Châu.
52
Ngang tường thành để xông vào
Quần nhau với địch, gươm đao sáng loà;
Cổng thành cũng đã phá ra;
Kỵ binh giặc bị voi ta xéo giày;
Giặc hàng, Tô Giám trắng tay
Lao vào lửa, tự hoá thây, ngậm hờn(74).
Bốn hai ngày quyết sống còn,
Thành Ung thành chốn vùi chôn xác thù
( Mười vạn tên địch có dư),
Căn cứ xâm lược đã trừ diệt xong.(75)
***
Âm mưu đánh úp đi tong;
Giặc sang Đại Việt, khó mong đường về.
(74)- Ngày 01- 3 - 1076( 23 tháng giên âm), ta công kích; Đắp đất thành đường lớn, cao dần đến ngang tường thành để xông lên, đánh giáp lá cà, đồng thời dùng các cây gỗ lớn phá cổng thành, ùa vào, chia nhiều mũi bao vây, cắt nhỏ đich ra để đánh. Tô Giám tung con bài cuối cùng là kỵ binh nhưng cũng bị bộ binh và voi chiến của ta tiêu diệt. Địch xin hàng, Tô Giám lao vào lửa tự vẫn.
(75)- Cuộc tiến công thành Ung kết thúc vào tháng3 năm Bính Thìn, ta tiêu diệt chục vạn địch, các căn cứ xâm lược của địch bị phá tan; Đòn đau đó ngấm mãi vào lục phủ, ngũ tạng của triều đình Nhà Tống.
53
Thế nhưng: Cay cú, u mê,
Vua Tống ngoan cố, không nghe đại thần
( Bao người thành thật can ngăn);
Tống vương vẫn quyết xuất quân phục thù
( Một tên khát bạc đần ngu
Đợi chờ may rủi, vài xu cũng bòn);
Ba mươi vạn lính,cố gom,
Vài trăm thuyền chiến vốn non tay chèo…
Quách Quỳ, hàm chánh tướng đeo;
Triệu Tiết, phó tướng, đường đèo núi sang.
Quân ta chuẩn bị sẵn sàng:
“ Thiên la, địa võng” vẫn đang đợi chờ;
Bám ráo riết, đánh bất ngờ…
Khiến quân địch phải lên bờ, xuống sông.
Điên cuồng, địch cậy quân đông;
Dần dà, chúng cũng chiếm xong mấy miền:
Khởi đầu, đánh chiếm Quảng Nguyên,
( Riêng địch bị bắt đã trên ba ngàn);
Chiếm Lạng Sơn, chiếm Quang Lang,
Qua ải Giáp Khẩu, muốn sang sông Cầu;
54
Ta ra đòn nhỏ nhưng đau
Khiến cho quân Tống bù đầu, hoang mang(76)…
Trên đường biển, giặc tiến sang:
“ Thường sơn xà trận” (77) dăng hàng tiến lên.
Quân mai phục Lý Kế Nguyên
Đã dìm đáy biển trăm thuyền Tống binh;;
Giặc lo thu lại đội hình;
Mỗi lần tiến, lại hãi kinh đời đời;
Sau mười trận chiến tả tơi,
Mân, Tiên, hai tướng tìm nơi ẩn mình(78).
(76)- Ngày 21 tháng chạp Đinh Tỵ (18 -01 - 1077) địch tới bờ sông Cầu. Dân ta thực hiện “vườn không, nhà trống’, địch luôn bị nếm các đòn nhỏ mà đau: Địch bị bắt, bị chết từng ít một, nhất là quân tải lương của địch, luôn bị ta đánh pghá. Thổ binh, Hương binh của ta khiến địch lao đao, khốn đốn. Nhất là ở Lạng Sơn, Quang Lang, quân áo chàn của phò mã Thân Cảnh Phúc ẩn hiện bất ngờ, khiến địch tổn thất rất lớn.
(77)- Đây là một thế trận của thuỷ quân
(78)- Hai tướng Hoà Mân và Dương Tùng Tiên cầm quân đường thuỷ sang đánh nước ta. Sau 10 trận giao chiến lớn nhỏ, bị thua, đã phải thu thập tàn quân trốn vào cửa Đông Kênh ẩn nấp và nằm lỳ ở đó cho đến hết chiến tranh
55
Quân dân Đại Việt thông minh,
Dựa vào lợi thế địa hình núi sông-
Như Nguyệt- chiến tuyến quốc phòng;
Tường thành cản địch, Thăng Long yên bình.
Quách Quỳ muốn đợi thuỷ binh;
Miêu Lý nuôi mộng, cố tình vượt sông:
Kết bè, ồ ạt tiến công;
Sông Cầu nhuộm máu, đỏ hồng trôi đi;
Kỵ binh, Vương Tiến chỉ huy;
Hoàng Kim ( phản bội), dẫn đi hàng ngàn;
Bến đò Như Nguyệt giặc sang;
Quân ta núng thế, địch tràn đến đông(79);
Kỵ binh giặc nhằm Thăng Long;
Quân ta có viện, phản công tức thời:
Bến Như Nguyệt bụi mù trời;
Hai bên quyết tử, không rời đi đâu.
Kỵ binh “đơn độc tiến sâu”
Bị ta chặn đánh, đòn đau bất ngờ.
(79)- Trên chiến tuyến Như Nguyệt , Dọc bờ sông Cầu tướng giặc Miêu Lý chỉ huy, cho chặt tre, gỗ, đóng bè mảng, lợi dụng đêm tối, bí mật làm cầu phao để mờ sáng tiến quân sang. Hai bên kịch chiến, giáp lá cà, trong khi đó, hàng nghìn kỵ binh giặc do Vương Tiến chỉ huy cũng xông sang( Có tên phản bội Hoàng Kim dẫn đường). Giặc chiếm được bến đò Như Nguyệt
56
Vương Tiến đã hết mộng mơ:
Nghìn quân bị diệt, vội lo kế chuồn(80).
Canh ba, trời lạnh thấu xương;
Địch quân không ngủ, chán chường, âu lo…
Bến Như Nguyệt lặng như tờ;
Bỗng nhiên vang vọng lời thơ tự cường;
Hai thần yêu nước họ Trương
Khiến quân Tống phải u buồn, hãi kinh
Trách vua quan Tống hại mình:
Chỉ còn đường chết, chiến chinh làm gì?(81)
Quân ta phấn chấn lạ kỳ,
Xông lên giáp chiến, tỏ uy anh hùng.
Quách Quỳ đầu óc rối tung,
Chuyển sang cố thủ- Đường cùng giữ quân.
(80)- Kỵ binh do Vương Tiến chỉ huy ra roi thúc ngựa tiến về Thăng Long, Khi cách Thăng Long 15 dặm, thì bất ngờ bị ta chặn đánh, bao vây. Sau một hồi kịch chiến, gần 1000 kỵ binh địch bị tiêu diệt, Vương Tiến cùng mấy chục tên liều chất phá vây, ngược về bến Như Nguyệt.
(81)- Hai vị thần Trương Hống và Trương Hát là hai anh em làm tướng của Triệu Quang Phục, có công giết giặc cứu nước, được tôn làm thần.Giữa đêm khuya, ở bến đò Như Nguyệt vang lên giọng nói sang sảng:” Bớ giặc Tống! Hai thần họ Trương bảo cho lũ bay biết: “ Nam quốc sơn hà nam đế cư - Tiệt nhiên định phận tại thiên thư - Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm - Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
57
Giặc đang yếu thế dần dần…
Chủ trương - Thường Kiệt- toàn quân đánh dồn.
Quách Quỳ bạt vía, xiêu hồn
Âm mưu “giăng bẫy” trả đòn quân ta;
Giả vờ; Khao Túc lơ là,
Dụ quân ta đến, sẽ ra tay liền.
Năm nghìn kỵ binh dùng thêm;
Phen này ăn chắc sẽ lên cơ đồ.
Cầm quân, nắm vững thế cờ;
Lý Thường Kiệt biết thời cơ đến rồi.
Lệnh phản công truyền khắp nơi;
Mấy trăm thuyền chiến ta rời Vạn Xuân,
Hoàng tử Chiêu Văn, Hoằng Chân,
Tiến lên Khao Túc, buồm giăng rợp trời;
Trên bờ Bắc, giặc tơi bời:
Quân ta đổ bộ để rồi tiến sâu.
Quách Quỳ điều quân Đáp Cầu
Đến đây “ Giương bẫy”, từ lâu đợi chờ;
Hai bên phản kích giằng co
Địch tung quân cứu, lại nhờ kỵ binh…
Hai hoàng tử đã hy sinh,
Khá nhiều thuyền đắm, quân mình tổn hao;
58
Tống quân thiệt hại cũng cao:
Riêng kỵ binh chết (ít sao?): Năm nghìn!
Taọ ra sơ hở - Khó tin-
Đáp Cầu, Như Nguyệt lặng im chết người:
Vượt sông, ta tiến tận nơi
Nhất tề công kích, toi đời ngoại bang;
Kỵ binh giặc đương mơ màng;
Đao kề tận cổ, còn làm được chi?...
Sau trận đánh úp lạ kỳ,
Địch mười phần, đã mất đi sáu phần;
Quân ta phấn chấn tinh thần,
Muốn mau diệt nốt lũ quân bạo tàn:
Gươm mài, giáo dũa…sáng choang;
Chăm voi, dưỡng sức,… sẵn sàng tiến quân…
Gánh gồng gạo, thịt, rượu tăm…
Động viên binh sỹ, muôn dân nức lòng.
Quyết làm rạng rỡ non sông,
Đánh cho giặc Tống hết mong đường về.
Quân ta thế mạnh chẻ tre;
Mười phần chắc thắng! Bỗng nghe tin đồn:
-“ Bàn hoà!”, cho giặc bảo tồn,
Rút quân về nước vẹn tròn, y nguyên.
59
Cốt sao: Đất nước bình yên
Mà ta vẫn giữ chủ quyền dài lâu(82).
Kẻ thù đã thấm đòn đau;
Dân ta nhân đạo, ân sâu, nghĩa bền…
Ngàn năm sau, mãi lưu truyền
Chiến công diệt Tống, giữ yên sơn hà!
Hết tập 1
Hoàn thành ngày 10 - 02 - 2016
( Tức mồng 3 tháng giêng Bính Thân)
(82)- Khi diệt được đại bộ phận quân địch, khiến bọn còn lại lâm vào thế “ Hàng thì sống, chống thì chết”, ta đã tha chết cho chúng về nước để “ Khỏi nhọc lòng tướng tá, khỏi tốn xương máu mà vẫn bảo toàn được tôn miếu”, non sông trở lại thanh bình, đất nước ta vẫn người Nam ở, chủ quyền vẫn người Nam giữ, đó chẳng phải là điều quý báu, tốt đẹp nhất hay sao?
60
ĐẶNG VĂN HOAN
Xóm Thanh Nhân, xã Giao Thanh,
huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định.
SĐT: 01232670177
Năm 2016
- Đặng Văn Hoan -
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 1 trang (6 bài viết)
[1]