Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Thơ tự do
Thời kỳ: Hiện đại

Đăng bởi demmuadong vào 26/05/2009 09:27

Chiến thắng quân về đeo súng giặc,
Xóm làng khoan nhặt khúc dân ca.
Anh đi chiến trận xa nhà.
Năm mười hai tháng, tháng ba mươi ngày...
Vui mừng sao Tết năm nay
Đóng lại đôi ngày ăn Tết quê em.

Quê em lắm gò ít ruộng,
Quê em bát ngát nương chè,
Trên đường rợp bóng hàng tre,
Lúa nếp thơm hương,
Nước lành giếng ngọt.
Phụ lão i tờ chăm chỉ học,
Nhi đồng trống nhịp hát vui.
Quê em tăng gia nương ngô mới vỡ khắp đồi.
Mưa rào ướt sắn ướt khoai
Ướt tàu lá cọ.
Hửng sáng trâu đi rền tiếng mõ,
Xế chiều hoa đó ngả nghiêng rung.
Anh đi xuôi ngược trăm vùng
Nơi đâu chẳng phải quê chung đất nhà?
Quê chúng ta làng chúng ta...
Những em ta nhỏ
Những mẹ ta già:
Thôn ta trụ sở
Đặt kề gốc đa;
Sân ta ríu rít
Dăm bảy con gà;
Vườn ta đất hẹp
Bí bầu trổ hoa
Tin về thắng trận
Chòi vang tiếng loa.
Hoan hô hoan hô
Những người thắng trận!
Những người thắng trận
Về đây với ta.

Hôm ấy anh về ra suối giặt,
Xóm làng khoan nhặt khúc dân ca;
Em họp ngay trung nữ, lão bà
Cùng thanh nữ nhi đồng ra trụ sở.
Quần áo rách phân công trung nữ vá,
Nồi bánh chưng thanh nữ chúng em lo.
Một thùng gạo nếp em vo,
Thịt mỡ ngon lành em gói.
Thiếu nữ nhi đồng đi lấy củi,
Đêm qua em vớt bánh kịp giao thừa.

Sáng nay mồng một Tết khắp thôn ta
Kết lá chăng hoa mừng anh chiến sĩ.
Nguyên đán anh về tạm nghỉ
Vui chung với cả thôn nhà,
Em làm đại biểu đứng ra
Năm mới mừng anh khoẻ mạnh,
Qua suốt năm mười hai tháng
Anh đi giữ nước giữ làng,
Tấm lòng như thép như gang,
Lưng vóc vững vàng như núi,
Em tặng chút quà năm mới
Gọi là chiếc bánh chưng xanh,
Bánh của thôn nhà yêu mến gửi,
Em nói thay lời em chúc anh.

Ngày mai anh ra đi
Súng nặng bên vai,
Lòng riêng không vướng bận.
Em xin chúc anh
Nổ súng là thắng trận,
Bao nhiêu viên đạn bấy quân thù.

Thôn chúng ta có dứa mùa hạ:
Thôn chúng ta có hồng mùa thu,
Em chăm lấy quả thơm ngon
Đợi ngày anh trở lại.
Tiếng hát trên đồi dưới bãi
Nhớ mong người chiến sĩ lá che vai.

Người đi, trấn thủ khuy cài,
Bánh chưng gói mỡ đưa vài chiếc theo.


Phú Thọ, 1950