Thơ của Xuân Quỳnh viết trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước không giống như thơ của nhiều nhà thơ khác. Xuân Quỳnh không phải là nhạc trưởng như Tố Hữu, không tạo nên phong cách đặc trưng như Phạm Tiến Duật. Nhưng thơ của bà có những nét riêng, đó là những cảm xúc cá nhân trong lòng cảm xúc thời đại.

Bài thơ Chiến hào được viết năm 1966, khi đó bà đang làm ở báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt Nam. Những năm đó, cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc đang bắt đầu vào giai đoạn cam go khốc liệt, Đế quốc Mỹ đã leo thang bắn phá miền Bắc và tăng cường các chiến dịch lớn nhằm phá hoại các căn cứ quân sự, kho tàng của ta. Để đối phó với vũ khí mạnh, hiện đại có tính huỷ diệt và khả năng quân sự cao hơn hẳn, chúng ta phải có những biện pháp nhằm hạn chế thương vong, bảo tồn lực lượng và sẵn sàng chống trả quân thù, chiến hào là một biện pháp như thế.

Ta hãy xem tác giả quan sát chiến hào của quân ta như thế nào:
Mặt đất nứt chiến hào
Vạch đường ngang lối dọc
Nào chỉ riêng nơi nào
Khắp trên mình Tổ quốc

Ôi chiến hào chiến hào
Hằn sâu trên mặt đất
Dài như lòng căm thù
Vạch những đường bất khuất
Khắp mọi miền tổ quốc đều là trận địa, vì thế chiến hào có ở khắp mọi nơi, nhiều và dày đặc. Sức nóng của cuộc chiến tranh khiến cho “Mặt đất nứt chiến hào”, tác giả so sánh với một vật khi quá khô, quá nóng thì nứt ra phản ánh rất đúng mức độ khốc liệt của cuộc chiến tranh khi đó. Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả so sánh độ dài của chiến hào với lòng căm thù giặc và thể hiện tinh thần bất khuất của nhân dân ta.

Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, để chống lại súng đạn của kẻ thù trong khi ta chỉ có mã tấu, gậy tầm vông quân dân ta đã có cách đánh độn thổ. Nằm ém mình dưới hố, đợi kẻ thù đến gần đội đất chui lên để đánh một cách bất ngờ khiến kẻ địch không trở tay kịp. Chiến hào trong chiến dịch Điện Biên Phủ với chiến thuật “Đánh chắc, tiến chắc” đã hạn chế thương vong cho bộ đội, làm khiếp đảm quân thù.

Rồi tác giả đi hẳn xuống chiến hào để quan sát tiếp:
Ta bước trong chiến hào
Mùi đất còn mới mẻ
Mà đã thấy thân quen
Như những ngày thơ bé
Quen lối đi tới trường
Một mùi hương hoa lý
Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, vì thế chiến hào không phải bây giờ mới có. Chính vì thế mà tác giả không có cảm giác lạ lẫm khi ở trong đó mà còn cảm nhận được mùi đất mới như cánh đồng đang vụ cày, lối đi dưới chiến hào cũng không làm tác giả lo sợ rằng không biết dẫn về đâu mà thấy thân quen như con đường tới trường thơm mùi thơm hoa lí nhà ai đó. Cái tinh thần bất khuất ấy đã ngấm vào tận cùng cốt tuỷ con người Việt Nam.

Những con người đang chiến đấu dưới những chiến hào đó là ai, và lí giải cho những cảm nhận của mình ở đoạn thơ trên, tác giả chuyển sang quan sát con người- những người chiến sĩ:
Bởi người lính hôm nay
Dẫu tuổi đời rất trẻ
Nhưng tính tuổi anh hùng
Đã qua nhiều thế hệ
Tuổi đời của người lính còn rất trẻ, hôm qua có người còn đang đi học, có người đang cày dở thửa ruộng, có người còn đang gõ những nhát búa đầu tiên trong nhà máy... nhưng hôm nay, họ đã là chiến sĩ. Họ còn trẻ, nhưng trong dòng máu đã thấm đẫm truyền thống, ngấm vào máu thịt từ đời này sang đời khác. Trẻ mà anh hùng, mà mang theo truyền thống mấy ngàn năm.

Vì thế mà trong trận chiến họ đã lập được những chiến công:
Sau trận xáp mặt thù
Lá thư về viết vội
Chưa kể hết chiến công
Nhưng thay ngàn lời nói
Là bụi đất chiến hào
Chắc quê nhà hiểu nổi
Bởi đoạn chiến hào nào
Chẳng làng quê ta đó
Bát chè xanh nắng trưa
Bóng mẹ về lối nhỏ
Chiến hào ngước nhìn lên
Chuối vườn ai vừa trổ
Một giàn mướp hoa vàng
Một đầm sen trước ngõ
Trong lá thư gửi từ tiền phương có bụi đất chiến hào mà không kể hết chiến công. Lá thư đó đã là chiến công rồi, sau những trận chiến đấu ác liệt mà còn sống, còn viết thư về đã là anh hùng rồi. Thư của chiến sĩ nơi tuyến đầu ác liệt không kể về nỗi khó khăn, nguy hiểm mà là nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ, nhớ quê hương, nhớ những gì thân thuộc nhất. Ngước nhìn lên, cũng những khóm chuối, những giàn mướp, một đầm sen như ở quê nhà.

Rồi tác giả lắng nghe:
Tiếng gà gáy xôn xao
Gọi lòng về nỗi nhớ...
Đây quê hương quê hương
Lên chiến hào thử lửa
Ở đâu mà chả là quê hương vì ở nơi đâu cũng có tiếng gà gáy. Hẳn ta còn nhớ bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh. Người chiến sĩ chiến đấu vì tiếng gà, vì những gì thân thuộc nhất và vì người thân của mình. Quê hương lên chiến hào thử lửa. Người chiến sĩ chiến đấu ở đây nhưng quê hương mình cũng đang từng ngày, từng giờ chiến đấu với kẻ thù.

Rồi tác giả tự bạch, lời tự bạch hay cũng chính là tiếng nói chung của những chiến sĩ đang chiến đấu trong những chiến hào:
Ta đứng trong chiến hào
Nắng mưa mài trên mũ
Chân mấy bận thay giày
Mắt quen đêm không ngủ
Điều kiện chiến đấu thật khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đủ đường. Nhưng vẫn tin tưởng rằng:
Dù mười, hai mươi năm
Đất này còn giặc Mỹ
Tóc ta dẫu đổi màu
Tuổi ta không còn trẻ
Ôi chiến hào chiến hào
Vẫn cứ còn mới mẻ
Với những lớp người sau
Lại lên đường diệt Mỹ
Dù cho thời gian mười năm, hai mươi năm, nếu thế hệ này già đã có thế hệ con cháu tiếp tục chiến đấu. Nhưng chiến hào sẽ còn dài thêm mãi, còn dày đặc hơn nữa như tinh thần bất khuất, như lòng căm thù giặc, như lớp lớp sóng cồn quyết tâm quét sạch lũ bán nước và lũ cướp nước.

Quyết tâm đánh giặc giành lại hoà bình thống nhất của tác giả cũng chính là quyết tâm của dân tộc. Hồ Chủ tịch đã nói trong Di chúc viết 15-5-1965 có câu: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào có thể hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn... Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất”.

Khi đó đã là năm 1966, và chỉ 9 năm sau, vào mùa xuân năm 1975, đất nước ta đã hoàn toàn thống nhất, kết thúc cuộc kháng chiến thần kì với bao sự tích anh hùng.

Bài thơ khá dài với thật nhiều chi tiết, dàn trải nhưng thật sinh động với những quan sát rất thật, rất chi tiết bằng các giác quan.

Ai đã từng đến thăm địa đạo Củ Chi, địa đạo Vịnh Mốc mới thấy hết được sự kiên cường bám trụ chiến đấu của quân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ.

“Dưới chiến hào dân quân từng trận có em...” còn vang vọng mãi.