NỒI BÁNH CHƯNG VÀ MẸ

Truyện ngắn

Hơn mười năm trước, tôi là cậu học trò xứ Quảng ra Huế học. Cứ đêm đêm, nhất là vào mùa mưa, đạp chiếc xe lọc cọc đến Nhật Lệ ăn bánh chưng. Ngày ấy, với túi tiền còm của sinh viên, món ăn đầy hương vị quê nhà mà lại rẻ, chỉ có món bánh chưng.

Hàng bánh chưng O Tư ở Nhật Lệ ngon có tiếng ở Huế. Gọi là hàng nhưng thực ra chỉ là cái quán nhỏ, được che vài tấm tôn thòi lòi trước hiên ngôi nhà cũ kỹ, buồn buồn như đêm mưa xứ Huế. Người ta sẽ không ao ước gì hơn khi ngoài trời cứ mưa rả rích, lê thê, gió lạnh từng cơn mà chui vào trong quán, tìm một góc khuất nào đó, nhâm nhi chiếc bánh chưng nóng hổi, thơm lựng mùi gạo nếp, mùi lá bánh…

Suốt bốn năm đại học, tôi là khách quen của O Tư. Lúc đó, O đâu quãng 60 tuổi, bằng tuổi mẹ tôi ở quê. Nỗi cơ cực của những người nghèo khó, dù thành thị hay nông thôn cũng có cái giống nhau, tất bật, lam lũ và như già trước tuổi. Con của O cũng cỡ trang lứa tôi. Mẹ tôi ở quê còn có mảnh vườn rộng cùng dăm sào ruộng lúa. Một đàn gà sinh sôi, một bầy lợn nái, rau rác còn hái được quanh vườn – O Tư vỏn vẹn một nồi bánh chưng!

Tôi ngồi thu mình trong góc quán. Ngoài trời mưa cứ tê tê, rả rich. Mùa đông xứ Huế khỏi nói, lạnh thấu tim gan. Lâu lâu, tiếng rao “hột vịt lộn” văng vẳng từ xa nghe sao thảng thốt. O Tư phong phanh chiếc áo cánh “chỉ huy” mấy đứa con khi quán đông khách. Mà phải công nhận một điều là lúc ấy ở Huế hàng bánh chưng của O ngon đặc biệt. Màu lá bánh xanh rì, căng cứng dưới lạt buộc. Bánh được lột ra, màu xanh nhạt của lá chuối in lên những hạt nếp no tròn, đều đặn sắp lớp vuông vức. Hơi nóng từ bánh tỏa ra quẩn quanh, đậm đặc trong cái lạnh tê buốt ngoài trời. Chỉ đơn giản cùng một chén xì dầu với trái ớt cay thót đầu lưỡi là ấm lòng đêm đông, sau những buổi học khuya của sinh viên chúng tôi. Hương vị ngọt bùi của nhân đậu xanh, béo ngậy từ thịt ba chỉ tan nhừ, quyện với nếp thơm “Bà Bầu” hạt nhỏ, đều rưng rức làm tôi như quên đi cái lạnh tái tê đang chờ mình trên đường về! Sau miếng bánh cuối cùng được đưa vào miệng, và như chờ sẵn, O Tư đưa ngay cho tôi ly nước chè xanh nóng hổi. Thỉnh thoảng O lại dúi vào tay tôi một cặp bánh: - “Con đem về ăn sáng”. Tôi thương O và nhớ mẹ ở nhà, còm cõi một nắng hai sương lo cho tụi con ăn học. Nỗi cơ cực của những bà mẹ. Tấm lòng yêu thương, sự hy sinh đươc thấm sâu trong từng đứa con – Con của O ngoan và học giỏi. Nồi bánh chưng ngày ngày bốc khói, lớn dần lên cùng sự nhọc nhằn, gian khó.

Bao năm dài không trở lại Huế, bốn năm đại học, ngần ấy thời gian của tuổi trẻ cũng đủ in đậm những yêu thương vào ký ức! Tôi trở lại Huế, lòng bỗng nao nao. Người đầu tiên tôi nghĩ đến là O Tư, không biết O ra sao trong cuộc sống, có còn ở Nhật Lệ nữa chăng? Vì miếng cơm manh áo, vì cuộc sống bao cái phải lo toan, sự đổi thay nào ai biết trước. Xong công việc, sáng hôm sau tôi vô Thành nội. Đường Đoàn Thị Điểm những hàng cây đại thụ rợp bóng, thâm nghiêm. Trời se lạnh, cái lạnh thường làm lòng người nhiều suy tư – trở về dĩ vãng: Tôi đang như thế! Ngày xưa và hôm nay bổng mất dần khoảng cách. Tôi như tưởng mình đang đi trong thời xôn xao trai trẻ, như mới hôm qua. Đến ngã tư, ngoặt qua Nhật Lệ, bức tường rào trường Nguyễn Huệ vẫn thế, vẫn rêu phong, hàng đại thụ trầm mặc tỏa bóng cả con đường. Bước chân tôi tự nhiên như chùn lại, bâng khuâng. Có cái gì đó náo nức, lại như e dè, như xao xuyến đang trổi dậy trong lòng. Dường như đó là sự xúc động: Tôi đang thấy chính mình bao nhiêu năm trước.

“Ôi! Hàng bánh chưng vẫn còn!” Tôi reo lên bước nhanh qua đường. Ngồi trong quán, trước khay bánh chưng là một bà lão tóc bạc trắng, nét mặt trông quen nhưng…”Chẳng lẽ là O Tư đây sao? Tôi bước vô quán: -“Cho con cặp bánh” Và ngồi xuống chiếc bàn kê trong góc mà ngày xưa tôi vẫn thường ngồi. O quay lại: - “Không thể là ai khác, O Tư đây rồi” Vẫn dáng vẻ ấy, vẫn chiếc áo cánh… có khác chăng tóc đã trắng như bông. Hương vị bánh chưng vẫn thế, chén nước chấm xì dầu dằm ớt vẫn thế, một ly chè xanh bốc khói khi tôi vừa ăn xong: -“Thằng Long đấy phải không, răng con đi mô mà bặt tin rứa?”. Tôi ứa nước mắt: - “O Tư! Sao O nhận ra con?”. “Răng không nhận được hỉ, O ngồi ở đây mấy mươi năm rồi, cuộc sống đi qua từng ngày một…”.

Ngôi nhà khang trang hơn xưa, nhưng lại vắng lặng, im lìm. Chỉ còn hai vợ chồng O. Các con đều trưởng thành, được học hành đến nơi đến chốn: -“O ơi! O đã cùng nồi bánh chưng đi suốt quãng đường từ bé thơ cho đến lúc trưởng thành của con cái. Nỗi nhọc nhằn, cơ cực hằn sâu trên gương mặt, nằm trọn vẹn trên mái tóc bạc trắng – trắng như những hạt nếp trắng ngần mà O đang sãy. Tôi chạnh lòng nhớ đến mẹ. Người đã hy sinh cả một đời cho những đứa con - giờ không còn nữa!

Phạm Tú Uyên