Trang trong tổng số 6 trang (59 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

Lưu Quang Vũ và khuynh hướng cách tân xa rời ẩn dụ thơ ca

Sự tuôn chảy của hình ảnh thơ theo lối tự sự khách thể trong thơ Lưu Quang Vũ, tuy chưa ở mức độ hoàn toàn trả lại cho mỗi đơn vị từ tính chất biểu tượng đậm đặc, nhưng là sự bùng nổ những khả thể mới của tâm thức.
Tự sự khách thể hóa hoàn toàn khác với mượn hồi tưởng trữ tình để kể chuyện, theo lối của Nguyễn Nhược Pháp hay xa hơn là Nguyễn Du, Đặng Trần Côn… và về mặt tư duy, bỏ xa kiểu ghi những cảm hứng ngắn theo lối tức cảnh sinh tình, mặc dầu có thể về miêu tả văn bản thì không quá khác nhau. Tự sự khách thể hóa trong thơ không mô tả thế giới “khách quan” theo định hướng tâm lý, cảm xúc, mà chỉ thông báo, nhiều lúc khô khan, cộc lốc, nhằm loại bỏ khả năng biểu cảm thông thường, xác định (vui, buồn, hờn giận, nhớ nhung, luyến tiếc, phẫn nộ…); hướng tới chiều kích “biểu cảm” mới của cái “chủ thể”- không- xác- định, mông lung, không tham vọng nắm bắt, diễn giải, định hướng. Nó là sự chối từ đối với thực tại được nhìn bằng con mắt luận lý của trật tự sẵn có, đòi hỏi một thực tại văn chương mới. Quan trọng hơn, trần thuật khách thể trả lại cho ngôn từ tính chất biểu tượng nguyên sơ, một thời gian quá dài bị biến thành phương tiện để mô tả thông qua tu từ, mà ẩn dụ là nguyên lý căn bản. Khác với lối tư duy ẩn dụ, biểu tượng là ý nghĩa nguyên phiến, cái không thể bị xuyên tạc, đưa đẩy, thổi phồng, nén chứa nhiều nội hàm, trong đó những ẩn dụ chỉ là một phần nhỏ. Mỗi từ nguyên đều có thể trở lại là một đơn vị biểu tượng, mà tài năng của người thực hiện ngôn ngữ ở đây không còn căn cứ trên việc tạo ra những ẩn dụ mới từ cái nền những phóng chiếu sẵn có, mà dựa trên việc làm sống dậy những chiều kích khác của mỗi từ. Chưa nói tới thực hành những trò chơi ngôn ngữ, chỉ riêng việc thông báo khô khan thuần tuý, cũng là một cánh cửa Mở đối với khả năng biểu đạt vô hạn được cung cấp cho từng từ. Ví dụ, từ “biển”, khi vượt thoát khỏi ý nghĩa ẩn dụ quen thuộc, sáo mòn của “ biển khổ” hay “bể ái”, tức khắc xuất hiện năng lực hàm chứa muôn vàn khả năng ngữ nghĩa khác nhau.
Sự tuôn chảy của hình ảnh thơ theo lối tự sự khách thể trong thơ Lưu Quang Vũ, tuy chưa ở mức độ hoàn toàn trả lại cho mỗi đơn vị từ tính chất biểu tượng đậm đặc, nhưng là sự bùng nổ những khả thể mới của tâm thức.
Thường xuyên trở lại trong thơ ông là trạng thái kinh hoàng, điên rồ, bất ổn và không thể lý giải, của cả cái “ bên ngoài” và “bên trong”. Các hình dung từ xuất hiện với mật độ dày đặc đều biểu đạt trạng thái bất thường, nhiễu loạn, mê hoặc. Biểu tượng người điên trở đi trở lại với nhiều dạng thức:

… Thời gian như bà điên ngoài chợ Sắt
tóc trắng ôm hoa te tái mỉm cười
đám người bán máu xanh gầy
co ro chờ ngoài cổng viện
những sự thật buồn cười mà khủng khiếp

Hay:

… Cái tuổi trẻ ồn ào mà cay cực của ta
trước ngưỡng cửa cuộc đời mênh mông khu rừng tối
vừa quyến rũ vừa phập phồng lo ngại
như anh điên trước quán tóc bù xù
cứ mỉm cười bí hiểm dõi nhìn ta…
… Chỉ anh điên vẫn đứng sững ngoài đường
Thân tiều tuỵ ôm mặt cười lặng lẽ
… Lão bán chim lưng gù râu bạc thếch
Anh kẹo bông rách rưới ngố nghê cười…
… Hồn em bé chết đuối
hồn Ophelia điên dại…

Biểu tượng người điên không còn đơn thuần là sự quy chiếu cho tính vô nghĩa của cuộc đời hay trạng thái chủ quan trượt khỏi sự kiểm soát, cân bằng. “Người điên” có thể mang nội hàm thức tỉnh hay bí mật...
Sự xuất hiện mang ý nghĩa quan trọng trong tư duy thơ của Lưu Quang Vũ thời kỳ này, biểu tượng “em”, có khi được gọi là “người đàn bà không có tên”. “Em” khác xa với đối tượng trữ tình phiếm định trong thơ truyền thống, một đối tượng giả định cho những ký thác của kiểu chủ thể truyền thống. Cũng không đơn giản là một phân thân của chính “cái tôi” nhà thơ, từ quan hệ phóng chiếu, hay còn được gọi máy móc là sự “lưỡng phân”. “Em” là một tồn tại khác, vừa được hiển hiện theo lối khách quan (Em mua về cho anh khuôn tượng dân gian), vừa đại diện cho sự hồ nghi về nhận thức (Em tới làm gì có phải đúng em không), “em” gần gũi với điều mà “cái tôi” không thể ngay lập tức nhận biết, định hình; vừa cần được nâng niu yên ủi, vừa dửng dưng thoái thác, vừa bao bọc cứu rỗi vừa hắt hủi phũ phàng. “Em” vừa thế chỗ cho sự nhận thức khách quan về “cái tôi”, còn gọi cái tôi nhìn từ một chiều kích đối lập khác, vừa là điều không thể nào nhận biết rõ ràng. “Em” hiện trong (và bao hàm) bí ẩn và hỗn độn của nhiều không gian, thời gian, nhiều kiểu thực tại khác nhau (Em / con tàu về cảng mưa đêm / ngã tư ngô đồng rụng lá / con sông mờ thân cầu đổ / dẫy nhà hoang ống khói âm thầm…/…những bài thơ ngày chưa có em / Ngày đó em đâu mùa đông ấy mưa phùn / hắn không có vẻ gì là thuỷ thủ nhưng hắn gợi cho người ta nhớ đến biển / câu văn trong một cuốn sách cũ / quán rượu Đô đốc Billbouve / Vị chúa tàu ngồi cô đơn / trong tuổi nhỏ…
Tương tự như vậy, mỗi biểu tượng khách thể hoá, dù không được nhắc lại nhiều lần, cũng là một chiều kích khách quan của trải nghiệm “chủ quan”: …người hoạ sĩ nay giả điên hay Người thiếu phụ đợi ai trên bậc cửa đen ngòm / cái miệng lạnh lẽo của con quỷ nào / đã thổi tắt nến của cô ta / làm sao người lính biết đường về / ăn tối trên chiếc bàn quen thuộc / vứt súng đạn ngoài hành lang lăn lóc / Người thiếu phụ già nua…
Trạng thái oà vỡ cảm giác khách thể, xuất phát từ chấn động nội tâm, rõ rệt, mãnh liệt, loang xa: … Anh đi bên dòng Tam Bạc / Thuỷ triều lên thao thức / con sông giống cuộc đời anh / Anh là chú bé nhặt than / là ông già buông câu im lặng / là quả dưa tròn trên khoang nắng / là lá sú vàng trôi ở cửa sông…
Người ta có thể có cách lý giải khác yếu tố tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ, ví dụ đó là sự “rập khuôn” bi kịch của chiến tranh hay những đổ vỡ, bất bình của đời sống, hoặc tình yêu không thoả nguyện. Tuy nhiên, dòng tâm tưởng siêu thực - tượng trưng của Lưu Quang Vũ bộc lộ ở dạng thức tràn đầy, rất khó có thể được tiếp nối bởi cảm quan “tả thực” ấu trĩ.
Loạt thơ sáng tác trong vòng những năm 1970 - 1975 của Lưu Quang Vũ ít sử dụng những ẩn dụ phổ biến với thơ ca miền Bắc đương thời. Sự dồn nén, xô lệch của nội tâm khiến nhà thơ trước hết nhìn ra mối bất hoà giữa những quy chiếu nền tảng sẵn có với thực tại - “ bên ngoài” và nội tâm.

Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa/ xoá nhoà hết những điều em hứa…
… Ngã tư mưa/ oà lên vài gương mặt đẹp/ nhà cửa như quần áo rách/ xích lô lầm lụi lên cầu…
… Xứ sở mưa rào gai ngút mắt/ vải dù rách dưới máu đen

Có khi nhà thơ dùng lại hình thức của một ẩn dụ quen thuộc: Nơi ấy em về mưa sẽ tạnh / hoa cúc vàng nở trên cánh tay, nhưng trong tương quan với dòng cảm thức siêu thực, nó không còn là ẩn dụ đơn nghĩa quy chiếu về một kết thúc tốt lành, mà mở ra vùng cảm giác xa rộng.
 ***
Với thơ Lưu Quang Vũ, có thể xoá bỏ đơn vị “ bài thơ”, bởi nó không còn là phạm vi cảm hứng ngắn được bộc phát khơi lên từ tác động trực tiếp nào đó tới tâm thức. Toàn bộ là một dòng liền mạch của cảm giác, liên tưởng, tương hợp, khách thể hoá, trong thế giới- tâm thức mênh mông bí ẩn, đầy sự bùng nổ. Mặc dầu những loạt bài kiểu Thơ tình viết về người đàn bà không có tên hay Giờ anh như con thuyền, không phải là hiện tượng lấn át trên toàn thể văn bản, nhưng hoàn toàn có thể rút hết những nhan đề thơ trong, ví dụ, tập Bầy ong trong đêm sâu, hay phần III của Tuyển thơ Lưu Quang Vũ, Viết cho em từ cửa biển, biến nó thành một trường ca.
Không thể chối từ âm vang của cuộc đời lịch sử trong những trang viết này của Lưu Quang Vũ, nhưng nếu như có một gương mặt lịch sử của một thời nào đó hiện lên, thì nó cũng không đơn thuần và dễ dãi được cảm nhận như hiện tượng đổ vỡ, chán chường, tiêu cực (một cách riêng lẻ, lạc điệu (!)). Điều mà Lưu Quang Vũ làm hiển hiện cao lớn hơn nhiều lần một trạng thái đau.
Những điều mà nhà thơ bận tâm, cũng không có gì quá xa lạ, phi phàm- Giấc mơ người tù / trên đá lạnh gặp bầy chim cánh trắng/ kẻ tăm tối suốt đời không ngẩng mặt / bỗng thảnh thơi đứng dưới mặt trời/ Arlequin khổ nghèo / thổi ống sáo dưới màn nhung đỏ thắm… , chiếm lấy quan tâm của ông là giấc mộng lớn của tâm hồn, lãnh địa mênh mông đã cho người đọc những kinh nghiệm lạ lùng đến thế, chỉ từ việc viết thơ…

Khánh Phương
(ĐN st và trích đăng)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

chipbong

Chipbong xin post vài tấm ảnh cuốn thơ Xuân Quỳnh song ngữ Việt - Pháp, hy vọng có bạn quan tâm:

http://lh3.ggpht.com/_TdvpKDjkCA0/TEavZ0r5cHI/AAAAAAAAAYE/qR81AWwuTnU/s640/Picture%20005.jpg

http://lh3.ggpht.com/_TdvpKDjkCA0/TEavaBzQSqI/AAAAAAAAAYI/_hj3BTDEAk0/s640/Picture%20007.jpg
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

"Tay trong tay tôi đã bên người"



Số phận nghiệt ngã đã không cho Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh kịp sống hết những năm tháng ngắn ngủi của đời mình. Anh chị mất đi vào lúc sức sáng tạo dồi dào, tài năng đang độ chín.
Sự ra đi đột ngột của hai người cùng con trai Lưu Quỳnh Thơ đã gây một chấn động mạnh, đau đớn, xót xa, nhập nhòa màu hư vô của ám ảnh định mệnh.
Cuộc đời, sự nghiệp và tình yêu của hai người đã trở thành một “hiện tượng” trong giới văn nghệ, được bạn bè, đồng nghiệp, những người hâm mộ thơ ca và sân khấu rất quan tâm.
Trước khi có nhau, Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ đã trải qua rất nhiều gian truân, lận đận. Hai người quen biết nhau đã từ lâu. Anh chị ở cùng trong một khu nhà tập thể dành cho văn nghệ sĩ.
Họ là những người bạn thơ cùng thế hệ. Cả hai cùng có nỗi bất hạnh của gia đình đổ vỡ, cùng từng trải qua những cuộc tình không may mắn.

http://i682.photobucket.com/albums/vv185/btmit2006/luuquangvu-xuanquynh.jpg
Vợ chồng Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh.


Năm 1973, họ đến với nhau. Đó là thời điểm khó khăn, lận đận nhất của cả hai người. Họ rời gia đình cũ ra đi với hai bàn tay trắng. Cả hai đều mang trong lòng những nỗi đau, những cuộc khủng hoảng lớn trong tâm hồn.
Dẫu vậy, anh chị vẫn quyết tâm sống với nhau, vẫn hết lòng và tin tưởng vào tình yêu của mình. Lưu Quang Vũ viết thư báo tin cho người em trai thứ hai đang học ở Liên Xô:
“Anh đã quyết định lấy chị Xuân Quỳnh. Chị Quỳnh là người tốt và hiểu anh. Mong và tin rằng sẽ đem lại hạnh phúc cho nhau và sẽ làm được nhiều việc có ích cho đời…”.
Quả đúng như vậy. Những năm chung sống, anh chị đã có ảnh hưởng rất lớn với nhau trong đời sống hàng ngày cũng như trong sáng tác. Hai người đã yêu nhau và nương tựa vào nhau để gây dựng tổ ấm và lao động cật lực.
Cuộc sống của họ tuy ngắn ngủi nhưng cả hai đều đã sống và làm việc hết mình, đã có những đóng góp không nhỏ cho đời sống văn học nước nhà.
Khối lượng kịch bản đồ sộ của Lưu Quang Vũ khiến nhiều người kinh ngạc. Trong khoảng thời gian gần 10 năm, anh sáng tác được hơn 50 vở kịch, được đánh giá là “nhà viết kịch xuất sắc của thời kỳ hiện đại”.
Kỳ hội diễn sân khấu năm 1985, Lưu Quang Vũ có 8 vở tham gia thì 6 vở được Huy chương vàng, 2 vở được Huy chương bạc. Anh được gọi là “Cây bút vàng của sân khấu”. Bên cạnh đó còn là thơ, là truyện ngắn và hàng trăm bài báo lớn nhỏ khác.
Khi đến với Lưu Quang Vũ dù đã là một nhà thơ nổi tiếng, được nhiều người yêu mến, Xuân Quỳnh vẫn sẵn sàng chấp nhận mọi sự hy sinh để vun đắp cho sự nghiệp của chồng:

Anh thân yêu, người vĩ đại của em
Anh là mặt trời em chỉ là hạt muối
Một chút mặn giữa đại dương vời vợi.

Chị đã nhận ra tài năng của anh không phải vào lúc chói sáng mà là lúc đang khó khăn nhất. Nhận ra vẻ đẹp của tâm hồn anh vào lúc đang có nhiều đổ vỡ nhất. Chỉ có sự thông minh, sắc sảo và một tình yêu rộng lớn mới có thể hiểu và làm được như thế.
Anh đã viết về chị:

Dù sao cuộc đời đã giành em lại cho anh
Điều mong ước đầu tiên, điều ở lại sau cùng
Chúng ta đã đi bên nhau trên mặt đất
Dẫu chỉ riêng điều đó là có thật
Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời.

Cuộc sống chung với Xuân Quỳnh đã cho Lưu Quang Vũ một nguồn năng lượng mới. Anh vừa có trong tay một tình yêu lý tưởng, lại vừa có một hạnh phúc đời thường:

Khi tàu đông anh lỡ chuyến đi dài
Chỉ một người ở lại với anh thôi
Lúc anh vắng người ấy thường thức đợi
Khi anh khổ chỉ riêng người ấy tới
Anh yên lòng bên lửa ấm yêu thương
Khi cằn cỗi thấy tháng ngày mệt mỏi
Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh
Khi những điều giả dối vây quanh
Bàn tay ấy chở che và gìn giữ
Biết ơn em, em từ miền gió cát
Về với anh bông cúc nhỏ hoa vàng.

Xuân Quỳnh cũng làm việc với năng suất không kém. Các tập thơ của chị nối nhau ra đời: Tự hát, Lời ru trên mặt đất, Sân ga chiều em đi, Hoa cỏ may... và hàng loạt tập thơ, truyện dành cho thiếu nhi.
Tôi chưa thấy một người phụ nữ nào lại hội đủ những yếu tố đáng quý như chị: xinh đẹp, tài năng, thông minh, yêu đến quên cả bản thân mình. Ở con người chị mọi thứ tình cảm đều được đẩy đến tận cùng. Trong một bức thư gửi Lưu Quang Vũ khi Xuân Quỳnh đang đi Liên Xô có đoạn:
“Anh bận nhiều vất vả. Em nghĩ mà thương anh lắm. Cả đời em, em chỉ muốn cố gắng sao cho anh đỡ nhọc nhằn. Lắm lúc em thấy em không xứng đáng với anh không phải về tình yêu mà về trí tuệ.
Em cảm thấy em già rồi, già về thể chất đã đành nhưng lại còn già về sự yên phận của người đàn bà, về những sự nhỏ nhen tầm thường của đời sống…
Tất cả trong anh là cái gì đó đang vươn lên, đang nổi dậy.
Tất cả trong anh là sự bắt đầu mà con đường của anh thì còn xa tít tắp.
Con người anh như cây đàn, vừa tiếp nhận những luồng gió của cuộc sống vừa trả lại cho cuộc sống biết bao nhiêu âm thanh. Em, em cảm thấy em khô cằn và bất lực.
Em buồn lắm. Em thành thật nói với anh điều đó. Em vẫn cảm thấy hết. Vậy cho nên lúc nào em cũng thấy tình yêu của chúng ta mong manh. Em không thể hình dung không có anh em sẽ sống như thế nào…
Đôi khi em nghĩ quẩn là “có khi em phải bỏ anh đi để em khỏi phải mang nỗi tủi nhục là không xứng với anh”.
Nhưng em không có can đảm. Em yêu anh và em đã nhập cuộc đời em vào cuộc đời anh, bây giờ đối với em đó chỉ là một cuộc đời thôi, cắt đi làm sao nổi”.
Ai cũng nói thơ Xuân Quỳnh ngày một hay hơn. Có một nghịch lý trong thơ chị. Đó là càng hạnh phúc thì lại càng lo âu khắc khoải. Và càng lo âu khắc khoải thì lại càng đắm say, da diết.
Thơ của chị ngày càng ám ảnh, nung đốt lòng người:

Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn…

Năm cuối đời, Xuân Quỳnh bị đau tim nặng. Người đã từng nhiều lần đem trái tim mình ra để đánh đổi những câu thơ, bây giờ lại bị chính căn bệnh này hành hạ.
Một nhà thơ Nga đã từng viết: Ôi những người cực tốt - trái tim thường hay đau. Tháng 3/1988, Xuân Quỳnh được mời làm giám khảo cho Liên hoan phim ở Đà Nẵng, sau đó chị tranh thủ vào thăm chị gái Đông Mai ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Về Hà Nội, sức khoẻ chị giảm sút nhiều. Mỗi khi lên căn phòng riêng trên tầng ba, chị phải dừng lại để nghỉ và thở dốc. Mọi người trong gia đình giục mãi chị mới chịu đi khám bệnh. Bác sĩ yêu cầu phải nằm viện ngay. Đó là những ngày chị rất buồn và nặng nề.
Trái tim chị vừa có nỗi đau bệnh lý vừa có nỗi đau tâm lý. Nhìn chị thật khác lạ trong bộ quần áo bệnh nhân. Nụ cười tươi tắn thường che hết mọi buồn lo, giờ đây cũng trở nên nhợt nhạt.
Nỗi ám ảnh lớn nhất với chị lúc này là cảm thấy mình trở nên vô dụng. Cảm giác cô đơn đè nặng. Trong tâm trạng ấy, chị viết bài Thời gian trắng với những câu thơ thành thật đến nhói lòng:

Trái tim buồn sau lần áo mỏng
Từng đập vì anh vì những trang thơ
Trái tim nay mỗi phút mỗi giờ
Chỉ có đập cho mình em đau đớn.

Trước đây, chúng ta đã từng biết màu thời gian tím ngắt trong thơ Đoàn Phú Tứ, và bây giờ lại biết đến thời gian trắng buốt lạnh trong thơ Xuân Quỳnh.
Nhìn gương mặt tái xanh với nhịp thở nặng nề, đôi mắt đen ngấn nước, tôi cảm thấy trạng thái quá sức mà con tim chị đang phải gánh chịu. Nó luôn phải chới với vươn về cái đích rất khó nắm bắt, phải vật lộn với cuộc sống, với số phận, với tình yêu hạnh phúc.
Người phụ nữ nhạy cảm và thông minh như chị luôn ý thức rõ những gì sẽ đến. Chị khắc khoải và đau buồn trong sự cảm nhận về những linh cảm mơ hồ nào đó. Không gian, thời gian trong bệnh viện như một cõi lưu đày, cắt đứt chị với thế giới bên ngoài, với những gì thân thuộc nhất của đời mình:

Quá khứ em không chỉ ngày xưa
Mà ngay cả hôm nay thành quá khứ
Quá khứ của em ngoài cánh cửa
Gương mặt anh gương mặt các con yêu…
Muốn gánh đỡ cho em phần mệt nhọc
Tới thăm em rồi anh lại ra đi
Đôi mắt lo âu, lời âu yếm sẻ chia
Lúc anh đến anh đi thành quá khứ.

Thời gian này, Lưu Quang Vũ cực kỳ bận rộn. Một mình anh gánh trên vai kịch mục của hàng chục đoàn nghệ thuật trong cả nước. Anh tất bật vào Nam ra Bắc, lại cộng thêm nỗi lo về sức khoẻ của vợ.
Mỗi khi phải đi xa Hà Nội, anh lại nhắn tôi về ở nhà để được yên tâm hơn. Anh nhờ bạn bè tìm bác sĩ giỏi, kiếm những loại thuốc tốt nhất để chữa bệnh cho vợ.
Bài thơ cuối cùng của anh được viết trong cuốn sổ công tác ghi chép dày đặc những công việc. Bài thơ có đầu đề rất giản dị: Thư viết cho Quỳnh trên máy bay. Anh đã gửi vào đấy biết bao nỗi niềm, sự cảm thông chia sẻ, tình yêu thương, ân nghĩa sâu nặng và cả những lời “tự thú” thật chân thành:

Có phải vì 15 năm yêu anh
Trái tim em đã mệt?
Cô gái bướng bỉnh
Cô gái hay cười ngày xưa
Mẹ của các con anh
Một tháng nay nằm viện
Thương trái tim nhiều vất vả lo buồn
Trái tim lỡ yêu người phiêu bạt
Luôn mắc nợ những chuyến đi,
những giấc mơ điên rồ,
những ngọn lửa không có thật
Vẫn là gã trai nông nổi của em
Người chồng đoảng của em
15 mùa hè chói lọi, 15 mùa đông dài
Người yêu ơi
Có nhịp tim nào buồn khổ vì anh?…
Vở kịch lớn, bài thơ hay nhất
Dành cho em, chưa kịp viết tặng em
Trái tim hãy vì anh mà khoẻ mạnh
Trái tim của mùa hè, tổ ấm chở che anh…

Mối tình của anh chị kéo dài được 15 năm. Họ đã cùng nhau ra đi trong một chuyến xe định mệnh. Dường như cả hai đều đã linh cảm về điều ấy.
Xuân Quỳnh viết:

Tay trong tay tôi đã bên người
Tôi chẳng nói điều chi về vĩnh viễn.

Và Lưu Quang Vũ:

Phút cuối cùng tay vẫn ở trong tay
Ta đã có những ngày vui sướng nhất
Đã uống cả men nồng và rượu chát
Đã đi qua cùng tận của con đường
Sau vô biên dẫu chỉ có vô biên
Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt.

Cũng kỳ lạ thay, trái tim của hai người sẽ không phải chịu cảnh cô đơn. Sau 15 năm gắn bó, bây giờ anh chị lại tiếp tục bên nhau, vĩnh viễn bên nhau cùng tình yêu bất tử của mình.

Lưu Khánh Thơ
(ĐN sưu tầm và giới thiệu)
Nguồn: An Ninh Thế Giới
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

@Chíp bông: Cho tớ mua 5 cuốn nhé bạn.
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

chipbong

Ui cảm ơn Hoa Xuyên Tuyết đã ủng hộ. Mình mang qua Café Max à ?
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

nam thanh trường

Tự nhiên nhắc đến Xuân Quỳnh,mình lại nhớ đến bài thơ:"hoa Cúc Xanh",mình thích bài đó lắm!cho chia sẻ đôi chút nhé...
Ta không điên được như người
Một hôm hoá đá giữa đời. Dầm mưa...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

demmuadong

Ôi, mình lẫn thẩn rồi, quên mất ngày mất của 3 người nhà họ, huhu, 29/08. Chị ơi, năm ngoái mình còn đi chùa nhỉ. Chị có đi với em ko, muộn rồi nhưng mình vẫn đi nhé!
... Thì cứ say cho xa đừng phải nhớ.
Thì cứ điên cho đổ vỡ đừng buồn...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

Lưu Quang Vũ và khuynh hướng cách tân
xa rời ẩn dụ thơ ca



Lưu Quang Vũ là trường hợp đặc biệt, khi những chuyển dịch trong sáng tạo ngôn ngữ thơ của ông đến từ biến chuyển tự nhiên của tâm thức, chứ ít có liên quan trực tiếp đến những ảnh hưởng từ sách vở [1].

Tiếp sau thế hệ vàng, Trần Dần, Quang Dũng, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Văn Cao… với những cách tân âm thầm, nhẫn nại xói mòn thứ cảm thức chiếu lệ và kiểu ngôn từ sáo rỗng, áp đặt cùng thời, Lưu Quang Vũ là nhà thơ duy nhất của miền Bắc tự tìm đến những phạm vi hiện thực khác biệt sâu sắc của thơ ca, làm phát lộ những đường biên mới mẻ trong con người sáng tạo, và bước đầu khơi mở một dòng ngôn ngữ vừa mang tính siêu thực - tượng trưng, vừa tiềm ẩn những lối phá vỡ kiểu trữ tình truyền thống, đạt tới lối biểu tượng hiện đại và đương đại.
Xét trên toàn bộ văn bản thơ, mật độ dùng lại những ẩn dụ truyền thống của Lưu Quang Vũ khá nhiều, liên tục và rộng khắp. Tuy nhiên, ngay cả trong những lối dùng ẩn dụ này, cũng đã hình thành một trường giao tiếp ngôn từ đặc biệt, mà chúng ta sẽ trở lại ý tưởng này sau đây. Những biến chuyển quan trọng nhất của ngôn ngữ thơ Lưu Quang Vũ tập trung ở thời kỳ sáng tác 1970 - 1975, và đó là phạm vi khảo sát căn bản của bài viết này.

 ***

Bi kịch của Lưu Quang Vũ, trên góc độ con người lịch sử, là bi kịch của lý tưởng làm người bị bội phản và xúc phạm. Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm hơn là con người sáng tạo của ông, chi phối mọi nhân cách khác. Lưu Quang Vũ viết thơ xuất phát từ tư duy lý tưởng hoá, nhưng không có gì liên quan đến những hình mẫu áp đặt duy lý. Lý tưởng hoá của ông gần gụi với bản năng tôn giáo, xuất phát từ nhu cầu nội tại, là sự hoá nhập trong sáng của kính ngưỡng và ham muốn, vừa kiếm tìm vừa chiếm hữu, vừa từ bỏ vừa khao khát

Đêm tối đen chiều hoang buồn tủi
Người đàn bà ấy đến bên tôi
Mắt mênh mông lặng lẽ ngón tay gầy
Giọt mưa lạnh chảy dài trên má
Ngọn đèn vàng ô kính vỡ
Con ngựa gầy phiêu bạt thảo nguyên xa
Tôi lớn lên trong ngọn gió nhà ga
Ngọn gió dữ của rừng già khắc nghiệt
Bao giấc mộng gió đuổi về dĩ vãng
Chỉ thổi bùng nỗi nhớ về em
Bao lưỡi lê đỏ sẫm máu hoàng hôn
Tường gạch đổ bao tờ lịch nát
Tôi bôi xoá rất nhiều thề ước đẹp
Riêng với em tôi chẳng phản bao giờ
Người đàn bà chơ vơ
Đi vòng quanh chiếc đĩa hát khổng lồ
Trong bản nhạc đợi chờ của Grich
Gương mặt đẹp chập chờn sau lọ mực
Khi âm thầm tôi viết những dòng thơ…


Điều dễ hiểu là lý tưởng làm người của Lưu Quang Vũ xuất phát từ sự lý tưởng hoá sáng tạo này, trở thành một phần sống động, không thể thiếu, trở lại lay động và thôi thúc con người sáng tạo. “Đạo đức” với Lưu Quang Vũ là sự thuần khiết của lý tưởng, là dâng hiến, nó là vấn đề của tâm hồn chứ không liên quan đến giáo lý. Chính vì thế, chưa bao giờ ông thoả hiệp [2] và cũng chưa bao giờ có tiếng nói đạo đức chung với môi trường bên ngoài.
Thơ Lưu Quang Vũ tráng lệ bởi thẩm mỹ lý tưởng:

Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu

Nhưng điều quan trọng nhất là không còn một dấu vết nào của thế giới luận lý, của lối hình dung mang tính luận lý. Dòng thơ trữ tình Việt truyền thống vốn là một kiểu biến tướng qua lại giữa cảm xúc và logic luận lý, nên chưa bao giờ đi được tới những lãnh địa xa xôi của tâm thức, chưa vỡ vạc những dòng chảy hình ảnh lạ lùng, cảm hứng luôn bị bó hẹp trong những mô thức trữ tình đã mòn mỏi, xơ xác, kể cả với những tên tuổi Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên thời kỳ Thơ Mới [3].
Chỉ riêng đặc điểm kể trên đã đủ để xếp Lưu Quang Vũ là một trong những nhà cách tân hiện đại và đương đại sớm nhất của thơ miền Bắc.
Dòng thơ miền Bắc đương thời, tiếp nối truyền thống “thi dĩ ngôn chí” cổ văn, thừa kế rất ít những biến chuyển tư duy của Thơ Mới, coi lãnh vực đạo đức xã hội và quan hệ giữa con người là nội dung hiện thực cơ bản [4]. Trong khi đó Lưu Quang Vũ, bằng tâm hồn nhạy cảm mãnh liệt đã tạo ra một thế giới thơ gây chấn động, với xáo trộn, dằn vặt, âu lo, run rẩy, sợ hãi, khao khát, mặc dầu chưa tới mức cuồng nộ, nhưng là sự vượt thoát khỏi trạng thái cân bằng tâm lý và cảm xúc thông thường.
Chính sự dao động khỏi cái ổn định mà nhận thức thông thường bị khép vào, bị buộc thừa nhận như kiểu bản thể phổ biến trong trật tự trì trệ; hé lộ cái nhìn về phần bất an, nghịch dị, nổi loạn và phóng túng trong bản chất thiên phú của con người, mà thơ Lưu Quang Vũ trở nên hấp dẫn, quyến rũ với người đọc tại nhiều thời điểm.
Ham muốn thuần khiết, sự đổ vỡ của con người đạo đức, nỗi đau đớn âm thầm là những động lực chính yếu mạnh mẽ nhất thúc đẩy Lưu Quang Vũ xoá bỏ cái thực tại vật chất, cái gọi là “hiện tại” với số đông, phiêu dạt và hành hương tới những ranh giới của tiềm thức và vô thức, hút lấy cái vô biên kỳ diệu của những biểu tượng nguyên khối, và trở về trong lối biểu đạt thơ mới mẻ.
Cũng chính nỗi dằn vặt thường xuyên của một tâm hồn chỉ được nương nhờ vào sự mênh mông và khao khát, tự ý thức của riêng nó, đã dẫn ông tới những cửa ngõ vô biên

Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời anh
Thắp một ngọn đèn hồng như ánh lửa


Cho đến hiện tại, ít có nhà thơ Việt nào, dù đạt tới những đổi mới đáng nể về ngôn ngữ, thi pháp, có được một trực cảm mãnh liệt, phá huỷ, và nội tâm huyền ảo như Lưu Quang Vũ


***
Cho đến thời đại Thơ Mới, những yếu tố siêu thực - tượng trưng đã xuất hiện khá rõ nét trong tư duy thơ của Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương… nhưng chưa đảo lộn được nền móng ngôn ngữ cổ điển. Tương quan  trung tâm  của con người trong phối  cảnh với thế giới khách thể,  nhất là với các hình ảnh thiên nhiên, cho phép tạo ra những  ẩn dụ tương đồng, một chiều, như “ lệ liễu”, “nét thu”, “áo mơ phai”, “ màu quan tái”, “ bến nước, con đò”, “ vầng trăng sẻ nửa”, “ gió mây”, “ bóng chim tăm cá”, “ bầu rượu túi thơ”, “dặm trường”, “ sóng lòng”, “ hoa tường liễu ngõ”, “đài gương dấu bèo”, “ con cá lá rau”… Lối ẩn dụ tương đồng này trói chặt cảm thức thi ca trong khuôn mẫu tương tác “tức cảnh sinh tình” và “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, thế giới khách thể mãi mãi là đối tượng tham chiếu một cách buồn tẻ với nội tâm con người, trong những vui buồn kiểu cảm thán, là hệ quả trực tiếp của sự kiện vật thể trong đời sống (ví dụ, đói nghèo hay chiến tranh, hay bất mãn với văn minh vật chất… ).
Lặn sâu vào những giấc mơ của tiềm thức, hay tìm đến mối tương hợp của các cảm giác, làm hiển hiện thế giới trước hết ở những hình ảnh giấc mơ hay cảm giác dịch chuyển, là một cách xoá bỏ ẩn dụ đơn nhất,  xoá bỏ mối tương quan đối ảnh chán ngấy giữa con người và thế giới bên ngoài, đồng thời làm hiện hình một thế giới mà hình bóng, cảm giác từ “cái bên ngoài” đang chuyển hoá thành “cái bên trong”, thành nội tâm sâu, cao, rộng thăm thẳm của con người. Tư duy siêu thực - tượng trưng làm nhoè những vùng đơn nghĩa của ngôn từ và hình ảnh, tạo ra những trường nghĩa, trường biểu cảm mạnh mẽ, lay động.
Khách thể hoá, hay thơ khách thể, cực đoan và ở cấp độ cao nhất, xoá bỏ ẩn dụ đơn nghĩa. Không còn dấu vết của đối ảnh hay sự chuyển hoá giữa “bên ngoài” - “ bên trong”, mà cái khách quan không kịp lý giải, không qua “nhận thức”, tràn vào xâm lấn chủ thể; chủ thể trữ tình theo cách gọi quen thuộc, biến thành cái liên - chủ thể, bao gồm nhiều thực tại, nhiều mối tương tác mà kinh nghiệm cá thể cũng như hoạt động tinh thần đơn lẻ của một con người (cảm xúc, trực giác, lý tính ) không thể thâu tóm, định hình và trao cho các thực tại ấy một bản sắc đơn nhất. Thơ khách quan triệt để xoá bỏ “con đường vòng” ẩn dụ, đẩy ngôn ngữ thơ trở về hình thái biểu tượng ban đầu vốn tràn đầy của nó, nén chặt trong nội hàm các cấp độ thông tin khác nhau.
Thơ Lưu Quang Vũ xuất hiện cả hai yếu tố siêu thực- tượng trưng và khách thể hoá một cách dễ nhận biết, đậm đặc.

… Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
Lúa bàng hoàng chín rực cả triền sông…


Hay:

Chúng ta ăn một quả dưa vàng
vào lúc mười hai giờ trưa mùa hạ nắng
nở bàng hoàng hoa tím khắp đường đi…
… Em tới làm gì có phải đúng em không
Cảng đã thêm những con tàu mới những manh buồm
con còng gió đã về với biển
hàng dương xanh loá mắt
chiếc dù mở đến mênh mông
màu da nâu lấp loáng không trung
vầng trán bàng hoàng xa thẳm…


Dòng chảy tâm thức khái hoạt xô vỡ hoàn toàn những đập chắn của trật tự vật lý và quan sát lý tính, từ không gian, sự vật, màu sắc, đường nét, hương vị, để câu thơ trở thành cảm giác và giấc mơ thuần túy. Sự đảo lộn cảm giác về không gian là một trong những yếu tố quan trọng để sắp đặt kiểu ngôn ngữ siêu thực - tượng trưng cũng như ngôn ngữ biểu tượng trong thơ Lưu Quang Vũ. Không còn cảm giác của con người đứng trên mặt đất nhìn không gian cao hơn đang mở ra, mà là con người hiện hữu ở những độ cao khác nhau, thu hết mênh mông từ nhiều chiều

Sao em chẳng cùng anh ra cửa biển
Mùa thu cao mây trắng xóa mênh mông


(còn tiếp)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

(tiếp)

Sao em chẳng cùng anh ra cửa biển
Mùa thu cao mây trắng xóa mênh mông


Những hình dung từ, trạng từ thông thường, trong không gian thơ Lưu Quang Vũ trở thành những kết hợp đa hướng, miêu tả đồng thời tâm thức và cảm giác “ngoại giới”, mà quan trọng hơn là tạo thành một trường - cảm giác trung gian, ở đó cái “bên ngoài” và “ bên trong” cùng chia sẻ, cùng trở thành kiểu chủ thể đa dạng thức.
Cảm giác không gian của Lưu Quang Vũ, ngoại trừ với những bài thơ “phóng sự”, “ ghi vội” năm 1972, và một vài trường hợp đặc biệt, cũng hạn chế tối đa miêu tả âm thanh, tiếng động, những bài còn lại gần như hoàn toàn triệt tiêu mô tả tiếng động bên ngoài cũng như cảm giác về tiếng động đó. Chỉ tồn tại âm nhạc của nội tâm vừa xô đẩy dồn nén, vừa mênh mông, mỗi lúc thêm trùng điệp, tỏa ra vô tận nhờ sự cắt đứt với âm thanh bên ngoài. Nhịp thơ Lưu Quang Vũ chưa hoàn toàn thoát khỏi vần điệu, nhưng một phần nhờ vần điệu, lại bao hàm cung cách tự do vô tận, nén chặt nội tâm, một thứ âm nhạc vô biên, “ nhạc trắng” (như cách nói của A. Baricco).
Gắn liền với yếu tố không gian, lối xây dựng hình ảnh trong thơ Lưu Quang Vũ mang những đột biến về tư duy, mà phía sau nó chính là sự bí ẩn của dòng biểu tượng mà chúng ta đang quan tâm.
Sự chiếm lĩnh của những yếu tố khách thể “ bất tri” vào dòng tâm thức diễn ra trên nhiều cấp độ. Yếu tố tự sự, như một cách phá vỡ dòng trữ tình cảm thán quen thuộc của thơ Việt, tràn vào thơ Lưu Quang Vũ không phải như một thực hành cố ý, mà giống như trạng thái “quá tải” của tâm thức.

Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa
những vòm cây cao và tối
chúng ta đã gặp nhau chúng ta đã tới đây
tất cả điều này có vẻ gì không thực
đến bây giờ anh vẫn còn kinh ngạc

Em
con tàu về cảng mưa đêm
ngã tư ngô đồng rụng lá
con sông mờ thân cầu đổ
dãy nhà hoang ống khói âm thầm


Hay:

Anh lên xứ Đoài xưa
Ba vì mây trắng
nhớ mặt em gầy sau lá mưa
Lênh đênh bến nước Trung Hà
những chị buôn chè ngủ hè phố cũ
con bò gầy đói cỏ
đi trên đồng mê man
Những pho tượng gỗ chùa Phùng
thiêm thiếp dưới tầng lá mục
còm cõi bà già chợ huyện
khóc thời con gái thuốc lào say
ông tiến sĩ giấy ngồi chắp tay
ham rượu nên vua bỏ
hia rách áo hồng ủ rũ
Em mua về cho anh khuôn tượng dân gian
anh treo lên tường
nhìn mà thương em
thắp một tuần nhang
lau lại bức sơn dầu lấm bụi
cô Kiều đàn nguyệt tặng chàng Kim
Người họa sĩ nay giả điên
mặc áo mưa đi lang tháng
giấy vụn lông chim dính đầy tóc bạc
Tranh đẹp chẳng ai mua
căn gác xép gió lùa
họa sĩ già nằm dưới pho tượng cổ
nghe trong đầu sóng vỗ
tiếng trẻ con thì thào
bàng hoàng thức dậy
ôm phích nước hát nghêu ngao
“người đẹp trong tranh chẳng có đâu
mong gì kỳ ngộ”
Em đừng thương anh nữa
anh đi lủi thủi trên đường
đánh mất lòng tin
tìm về bếp lửa
xem trẻ mục đồng múa trong tượng gỗ
những đôi vợ chồng cởi áo cho nhau
Bài thơ không đề
chép trên giấy bản
em cần gì giếng lạnh
tâm hồn anh cô quạnh dưới lòng sâu
Ngẩng lên biền biệt mây cao
cuộc đời thăm thẳm
tình anh như cỏ lau
tìm nhau trên đất vắng
nơi ấy em về mưa sẽ tạnh
hoa cúc vàng nở trên cánh tay...


Câu thơ được lược bỏ hầu hết các tính từ, từ cảm thán, thay thế bằng những hình dung từ đa hướng, gia tăng các yếu tố thông báo, những chi tiết tự sự tỉ mỉ, tưởng như có thể kể lại theo lối văn xuôi, hoặc làm thành những sence, trường đoạn liền mạch trong điện ảnh, với đủ cả cận, trung, viễn, toàn cảnh, traveling, lia, chúc, hất…
Ở đây có thể nghĩ tới khả năng tái tạo hình ảnh rất mạnh của tưởng tượng hồi tưởng Lưu Quang Vũ, nhưng cũng có thể cả quyết hơn, hay mạo hiểm hơn, đặt vấn đề điểm nhìn khách quan (như của máy quay phim) tự quan sát những gì xảy ra bên ngoài bản thân, nhưng lại bao gồm cả chính mình tham gia, như một nhân vật trong “phim”. (Nó tương tự câu chuyện xảy ra trong giấc mơ, nhưng khác ở chỗ người nằm mộng tách ra, quan sát câu chuyện của giấc mơ, chứ không phải đang bị giam trong đó). Thực tại nhiều chiều của Lưu Quang Vũ thường được hiển hiện, hoặc nhờ ánh sáng loá mắt, hoặc từ bóng tối bao trùm hiện dần các mảng khối, tương tự như thủ pháp hội hoạ của Rembrant

Những mái nhà lụp xụp
những hàng cây đắm mình vào bóng tối
chiều sương leo lét đèn dầu
lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ
lèo tèo mì luộc canh rau
Mấy mươi năm vẫn mái tranh này
dòng sông đen nước cạn
tiếng loa đầu dốc lạnh
tin chiến trận miền xa…

Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa…

Có thể xem đó là thứ ánh sáng rất mạnh có sự tham gia của tiềm thức và vô thức, là lãnh địa bao hàm vùng ngoài ý thức, ý đồ cá nhân.

(Còn tiếp...)
------------
Chú giải:

[1] Theo đạo diễn điện ảnh Đào Trọng Khánh (Đào Nguyễn, Nguyễn, một người bạn thân của Lưu Quang Vũ từ khi còn rất trẻ, cũng là người chia sẻ nhiều về sáng tạo với nhà thơ), sau khi có đường sắt lưu thông Bắc - Nam vào năm 1976, Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh tìm kiếm được nhiều tư liệu từ các sách văn học và triết học mang khuynh hướng hiện đại - đương đại của miền Nam, và đây là nguồn ảnh hưởng chính đến tư duy văn học của hai người thời kỳ sau này. Từ 1975 trở về trước, Lưu Quang Vũ chủ yếu nhận được ảnh hưởng từ chủ nghĩa cổ điển.

[2] Sau năm 1975, Lưu Quang Vũ vẫn tiếp tục viết một số bài thơ, nhưng lúc này dòng thơ siêu thực - tượng trưng và khách thể hoá của thời kỳ 1970- 1975 không còn được tiếp nối, theo đánh giá của người viết bài này. Những thành công vang dội trên sân khấu kịch là một chiều kích biểu hiện khác của sáng tạo Lưu Quang Vũ, nhưng việc dòng tư duy thơ mới mẻ của ông bỗng nhiên bị cắt đứt, còn cần phải tìm hiểu nghiêm túc, kỹ lưỡng. Một bước chuyển quan trọng trong đời sống cá nhân liên quan đến kinh nghiệm và tư duy thơ, đó là việc Lưu Quang Vũ trở lại một đời sống bình ổn, cân bằng, trong sinh hoạt thông thường. Không thể khẳng định rằng đời sống bình ổn này đã dập tắt “những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật” trong tâm hồn ông, bởi vì tự sâu xa Lưu Quang Vũ chưa bao giờ là một người chấp nhận thứ trật tự thô bạo của cuộc đời vật chất. Việc “sống như mọi người” chỉ gợi ý cho ta nghĩ về việc Lưu Quang Vũ tìm đến một cách bộc lộ nào gần gũi với mức cảm thụ chung của mọi người mà thôi.

[3] Nguyệt cầm, bài thơ được cho là giàu yếu tố siêu thực - tượng trưng của Xuân Diệu:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần
Đàn buồn đàn lạnh ôi đàn chậm
Từng giọt rơi tàn như lệ ngân
… Đêm lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người


Hay Huy Cận sầu vũ trụ trong Tràng giang:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu


Chế Lan Viên về với thành Đồ Bàn non nước giống dân Hời, muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi, lấy ra một khúc xương rợn trắng…
Tất cả vẫn chỉ dừng ở lối hình dung bị giới hạn bởi khuôn thước vật lý và không gian cảm giác theo trật tự lý tính thông thường.

[4] Những bài thơ cùng thời với thơ Lưu Quang Vũ:

Đồi trung du phơ phất bóng thông già
 Trường sơ tán hồn trong chiều lộng gió
 Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
 Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu
 Lẵng quả thông trong suối nhạc nhiệm màu
 Hay Chuyến xe đêm thầm thì mê đắm
 Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm
 Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa…


 ( Bằng Việt)

Hay :

Chẳng bao giờ anh ước đâu em
Một ngôi nhà bão dừng sau cánh cửa


(Bằng Việt)

chỉ là mơ mộng hay quyết liệt trong ranh giới kiểm soát của lý trí cũng như của những ẩn dụ sẵn có.
Cho đến những năm giữa thập kỷ 90 người ta vẫn còn viết kiểu:

Khối buồn đâu dễ nguôi ngoai
Hào khí bên ngoài yếm khí bên trong
Tỉnh say một búi bong bong
Nào ai chia nửa cõi lòng Bolsa…


(Nguyễn Duy)

(còn tiếp)
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đồ Nghệ

.

Lưu Quang Vũ và khuynh hướng cách tân xa rời ẩn dụ thơ ca



Sự tuôn chảy của hình ảnh thơ theo lối tự sự khách thể trong thơ Lưu Quang Vũ, tuy chưa ở mức độ hoàn toàn trả lại cho mỗi đơn vị từ tính chất biểu tượng đậm đặc, nhưng là sự bùng nổ những khả thể mới của tâm thức.

Tự sự khách thể hóa hoàn toàn khác với mượn hồi tưởng trữ tình để kể chuyện, theo lối của Nguyễn Nhược Pháp hay xa hơn là Nguyễn Du, Đặng Trần Côn… và về mặt tư duy, bỏ xa kiểu ghi những cảm hứng ngắn theo lối tức cảnh sinh tình, mặc dầu có thể về miêu tả văn bản thì không quá khác nhau. Tự sự khách thể hóa trong thơ không mô tả thế giới “khách quan” theo định hướng tâm lý, cảm xúc, mà chỉ thông báo, nhiều lúc khô khan, cộc lốc, nhằm loại bỏ khả năng biểu cảm thông thường, xác định (vui, buồn, hờn giận, nhớ nhung, luyến tiếc, phẫn nộ…); hướng tới chiều kích “biểu cảm” mới của cái “chủ thể”- không- xác- định, mông lung, không tham vọng nắm bắt, diễn giải, định hướng. Nó là sự chối từ đối với thực tại được nhìn bằng con mắt luận lý của trật tự sẵn có, đòi hỏi một thực tại văn chương mới. Quan trọng hơn, trần thuật khách thể trả lại cho ngôn từ tính chất biểu tượng nguyên sơ, một thời gian quá dài bị biến thành phương tiện để mô tả thông qua tu từ, mà ẩn dụ là nguyên lý căn bản. Khác với lối tư duy ẩn dụ, biểu tượng là ý nghĩa nguyên phiến, cái không thể bị xuyên tạc, đưa đẩy, thổi phồng, nén chứa nhiều nội hàm, trong đó những ẩn dụ chỉ là một phần nhỏ. Mỗi từ nguyên đều có thể trở lại là một đơn vị biểu tượng, mà tài năng của người thực hiện ngôn ngữ ở đây không còn căn cứ trên việc tạo ra những ẩn dụ mới từ cái nền những phóng chiếu sẵn có, mà dựa trên việc làm sống dậy những chiều kích khác của mỗi từ. Chưa nói tới thực hành những trò chơi ngôn ngữ, chỉ riêng việc thông báo khô khan thuần tuý, cũng là một cánh cửa Mở đối với khả năng biểu đạt vô hạn được cung cấp cho từng từ. Ví dụ, từ “biển”, khi vượt thoát khỏi ý nghĩa ẩn dụ quen thuộc, sáo mòn của “ biển khổ” hay “bể ái”, tức khắc xuất hiện năng lực hàm chứa muôn vàn khả năng ngữ nghĩa khác nhau.
Sự tuôn chảy của hình ảnh thơ theo lối tự sự khách thể trong thơ Lưu Quang Vũ, tuy chưa ở mức độ hoàn toàn trả lại cho mỗi đơn vị từ tính chất biểu tượng đậm đặc, nhưng là sự bùng nổ những khả thể mới của tâm thức.
Thường xuyên trở lại trong thơ ông là trạng thái kinh hoàng, điên rồ, bất ổn và không thể lý giải, của cả cái “ bên ngoài” và “bên trong”. Các hình dung từ xuất hiện với mật độ dày đặc đều biểu đạt trạng thái bất thường, nhiễu loạn, mê hoặc. Biểu tượng người điên trở đi trở lại với nhiều dạng thức:

… Thời gian như bà điên ngoài chợ Sắt
tóc trắng ôm hoa te tái mỉm cười
đám người bán máu xanh gầy
co ro chờ ngoài cổng viện
những sự thật buồn cười mà khủng khiếp


Hay:

… Cái tuổi trẻ ồn ào mà cay cực của ta
trước ngưỡng cửa cuộc đời mênh mông khu rừng tối
vừa quyến rũ vừa phập phồng lo ngại
như anh điên trước quán tóc bù xù
cứ mỉm cười bí hiểm dõi nhìn ta…
… Chỉ anh điên vẫn đứng sững ngoài đường
Thân tiều tuỵ ôm mặt cười lặng lẽ
… Lão bán chim lưng gù râu bạc thếch
Anh kẹo bông rách rưới ngố nghê cười…
… Hồn em bé chết đuối
hồn Ophelia điên dại…


Biểu tượng người điên không còn đơn thuần là sự quy chiếu cho tính vô nghĩa của cuộc đời hay trạng thái chủ quan trượt khỏi sự kiểm soát, cân bằng. “Người điên” có thể mang nội hàm thức tỉnh hay bí mật...
Sự xuất hiện mang ý nghĩa quan trọng trong tư duy thơ của Lưu Quang Vũ thời kỳ này, biểu tượng “em”, có khi được gọi là “người đàn bà không có tên”. “Em” khác xa với đối tượng trữ tình phiếm định trong thơ truyền thống, một đối tượng giả định cho những ký thác của kiểu chủ thể truyền thống. Cũng không đơn giản là một phân thân của chính “cái tôi” nhà thơ, từ quan hệ phóng chiếu, hay còn được gọi máy móc là sự “lưỡng phân”. “Em” là một tồn tại khác, vừa được hiển hiện theo lối khách quan (Em mua về cho anh khuôn tượng dân gian), vừa đại diện cho sự hồ nghi về nhận thức (Em tới làm gì có phải đúng em không), “em” gần gũi với điều mà “cái tôi” không thể ngay lập tức nhận biết, định hình; vừa cần được nâng niu yên ủi, vừa dửng dưng thoái thác, vừa bao bọc cứu rỗi vừa hắt hủi phũ phàng. “Em” vừa thế chỗ cho sự nhận thức khách quan về “cái tôi”, còn gọi cái tôi nhìn từ một chiều kích đối lập khác, vừa là điều không thể nào nhận biết rõ ràng. “Em” hiện trong (và bao hàm) bí ẩn và hỗn độn của nhiều không gian, thời gian, nhiều kiểu thực tại khác nhau

Em
con tàu về cảng mưa đêm
ngã tư ngô đồng rụng lá
con sông mờ thân cầu đổ
dẫy nhà hoang ống khói âm thầm…
…những bài thơ ngày chưa có em
Ngày đó em đâu mùa đông ấy mưa phùn
hắn không có vẻ gì là thuỷ thủ nhưng hắn gợi cho người ta nhớ đến biển
câu văn trong một cuốn sách cũ
quán rượu Đô đốc Billbouve
Vị chúa tàu ngồi cô đơn
trong tuổi nhỏ…


Tương tự như vậy, mỗi biểu tượng khách thể hoá, dù không được nhắc lại nhiều lần, cũng là một chiều kích khách quan của trải nghiệm “chủ quan”:

…người hoạ sĩ nay giả điên

hay

Người thiếu phụ đợi ai trên bậc cửa đen ngòm
cái miệng lạnh lẽo của con quỷ nào
đã thổi tắt nến của cô ta
làm sao người lính biết đường về
ăn tối trên chiếc bàn quen thuộc
vứt súng đạn ngoài hành lang lăn lóc
Người thiếu phụ già nua…


Trạng thái oà vỡ cảm giác khách thể, xuất phát từ chấn động nội tâm, rõ rệt, mãnh liệt, loang xa:

… Anh đi bên dòng Tam Bạc
Thuỷ triều lên thao thức
con sông giống cuộc đời anh
Anh là chú bé nhặt than
là ông già buông câu im lặng
là quả dưa tròn trên khoang nắng
là lá sú vàng trôi ở cửa sông…


Người ta có thể có cách lý giải khác yếu tố tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ, ví dụ đó là sự “rập khuôn” bi kịch của chiến tranh hay những đổ vỡ, bất bình của đời sống, hoặc tình yêu không thoả nguyện. Tuy nhiên, dòng tâm tưởng siêu thực - tượng trưng của Lưu Quang Vũ bộc lộ ở dạng thức tràn đầy, rất khó có thể được tiếp nối bởi cảm quan “tả thực” ấu trĩ.
Loạt thơ sáng tác trong vòng những năm 1970 - 1975 của Lưu Quang Vũ ít sử dụng những ẩn dụ phổ biến với thơ ca miền Bắc đương thời. Sự dồn nén, xô lệch của nội tâm khiến nhà thơ trước hết nhìn ra mối bất hoà giữa những quy chiếu nền tảng sẵn có với thực tại - “bên ngoài” và nội tâm.

Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa
xoá nhoà hết những điều em hứa…
… Ngã tư mưa
oà lên vài gương mặt đẹp
nhà cửa như quần áo rách
xích lô lầm lụi lên cầu…
… Xứ sở mưa rào gai ngút mắt
vải dù rách dưới máu đen


Có khi nhà thơ dùng lại hình thức của một ẩn dụ quen thuộc:

Nơi ấy em về mưa sẽ tạnh
hoa cúc vàng nở trên cánh tay


nhưng trong tương quan với dòng cảm thức siêu thực, nó không còn là ẩn dụ đơn nghĩa quy chiếu về một kết thúc tốt lành, mà mở ra vùng cảm giác xa rộng.

 ***

Với thơ Lưu Quang Vũ, có thể xoá bỏ đơn vị “bài thơ”, bởi nó không còn là phạm vi cảm hứng ngắn được bộc phát khơi lên từ tác động trực tiếp nào đó tới tâm thức. Toàn bộ là một dòng liền mạch của cảm giác, liên tưởng, tương hợp, khách thể hoá, trong thế giới- tâm thức mênh mông bí ẩn, đầy sự bùng nổ. Mặc dầu những loạt bài kiểu  Thơ tình viết về người đàn bà không có tên hay  Giờ anh như con thuyền, không phải là hiện tượng lấn át trên toàn thể văn bản, nhưng hoàn toàn có thể rút hết những nhan đề thơ trong, ví dụ, tập Bầy ong trong đêm sâu, hay phần III của Tuyển thơ Lưu Quang Vũ, Viết cho em từ cửa biển, biến nó thành một trường ca.
Không thể chối từ âm vang của cuộc đời lịch sử trong những trang viết này của Lưu Quang Vũ, nhưng nếu như có một gương mặt lịch sử của một thời nào đó hiện lên, thì nó cũng không đơn thuần và dễ dãi được cảm nhận như hiện tượng đổ vỡ, chán chường, tiêu cực (một cách riêng lẻ, lạc điệu (!)). Điều mà Lưu Quang Vũ làm hiển hiện cao lớn hơn nhiều lần một trạng thái đau.
Những điều mà nhà thơ bận tâm, cũng không có gì quá xa lạ, phi phàm:

Giấc mơ người tù
trên đá lạnh gặp bầy chim cánh trắng
kẻ tăm tối suốt đời không ngẩng mặt
bỗng thảnh thơi đứng dưới mặt trời
Arlequin khổ nghèo
thổi ống sáo dưới màn nhung đỏ thắm…


chiếm lấy quan tâm của ông là giấc mộng lớn của tâm hồn, lãnh địa mênh mông đã cho người đọc những kinh nghiệm lạ lùng đến thế, chỉ từ việc viết thơ…

Khánh Phương
Đồ Nghệ sưu tầm và giới thiệu
Do trước kia chưa kịp gõ nên mới chỉ trích đăng, nay xin giới thiệu trọn vẹn cả bài của Khánh Phương.
...
Все пройдет и печаль и радость
Все пройдет так устроен свет
Все пройдет только верить надо
Что любовь не проходит нет ..
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 6 trang (59 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [2] [3] [4] [5] [6] ›Trang sau »Trang cuối