Trang trong tổng số 100 trang (1000 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [94] [95] [96] [97] [98] [99] [100] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

Vũ Duy Chu Thứ tư ngày 19 tháng 6 năm 2013 5:17 AM

( Sưu tầm & Sáng tác)

TỪ VÀ CỤM TỪ MỚI

Tổ chức Bảo vệ và Phát triển ngôn ngữ quốc tế mỗi hai năm nhóm họp một lần để vinh danh cá nhân của các quốc gia sáng tạo ra những từ và cụm từ mới đã đi vào đời sống, làm phong phú thêm ngôn ngữ chung của nhân loại. Năm nay, tổ chức quốc tế này đề nghị vinh danh những người Việt Nam. Một giáo sư ngôn ngữ Việt Nam được Ban Tổ chức mời lên diễn đàn thuyết trình.
Thưa Quý bà Quý ông:
Đất nước Việt Nam là cường quốc của thi ca. Điều này nói lên ngôn ngữ của dân tộc chúng tôi rất sinh động, phong phú và giàu hình tượng thẩm mỹ. Kho từ vựng của đất nước chúng tôi có số lượng từ mới, cụm từ mới, đặc biệt là mỹ từ nhiều nhất thế giới. Và người Việt sử dụng mỹ từ trong cuộc sống hàng ngày cũng nhiều vào hạng nhất thế giới. Và để quý vị hình dung ra các từ và cụm từ mới đã đóng vai trò gì trong đời sống của chúng tôi, tôi chỉ xin giới thiệu 2 cụm từ mới tiêu biểu nhất:
- QUÀ BIẾU TRÊN MỨC TÌNH CẢM: Cụm từ này là một thứ đặc sản trí tuệ. Người ta lấy quà cáp để đo đạc các mức tình cảm dành cho nhau. Và có một món quà biếu vượt trên mức tình cảm đỉnh, được gọi là QUÀ BIẾU TRÊN MỨC TÌNH CẢM. Quà này không xuất hiện trong các quan hệ gia đình, anh em, bạn bè thân hữu, đồng nghiệp bình thường. Nó chỉ xuất hiện trong các quan hệ đồng bọn…
Bất ngờ tiếng vỗ tay vang dội hội trường
- ĐỒNG LƯƠNG KHIÊM TỐN: Khiêm tốn là một tính từ mang ý nghĩa không đánh giá quá cao bản thân, không tự kiêu tự mãn. Ví dụ, chỉ có thể nói một con người khiêm tốn. Bình quân thu nhập đầu người Việt Nam năm 2012 là 1.540 USD, trong khi đó thu nhập bình quân đầu người năm 2012 của Singapore là 56.532 USD. Thế là đồng lương công chức nước tôi được người ta gọi là ĐỒNG LƯƠNG KHIÊM TỐN.
Tiếng vỗ tay lại vang rền…

***

Ban Tổ chức hội nghị tổ chức bỏ phiếu bầu cho phần sáng tạo của Việt Nam. Sau giờ nghỉ giải lao, Trưởng Ban Tổ chức công bố kết quả như sau:
- Số phiếu phát ra 500. Số phiếu thu vào hợp lệ 500, trong đó: Sáng tạo cao đạt 500 phiếu. Sáng tạo 0 phiếu. Sáng tạo thấp 0 phiếu.
Giáo sư ngôn ngữ Việt Nam phăm phăm bước lên bục diễn giả, ông vít Micro xuống, giọng vô cùng xúc động:
- Thưa quý Bà, Quý Ông!
Tôi xin chân thành cảm tạ quý vị đã tuyệt đối công nhận sự sáng tạo ngôn ngữ của những nhà ngôn ngữ học đất nước chúng tôi. Nhân đây, tôi cũng xin thưa rằng, cách thức bỏ phiếu bầu vừa diễn ra tại đây cũng là một phiên bản khác của bản gốc có xuất xứ từ Việt Nam. Sáng tạo cao, sáng tạo, sáng tạo thấp cũng đều là sáng tạo cả…
Tiếng vỗ tay lại vang rền không ngớt…
Hi…hi…hi…

Sài Gòn, 17.6.2013

VDC
Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vodanhthi

Ngôn ngữ gỗ



TT - Đến giờ này nhiều người trong chúng ta đều đã quá quen thuộc với những câu văn, cụm từ như “sẽ xử lý nghiêm bất kể đó là ai” hoặc “không có vùng cấm trong xử lý...” và còn nhiều cụm từ, câu văn khác nữa vốn đã và đang được dùng đi dùng lại thành sáo ngữ khiến ai cũng có cảm giác nhàm chán khi nghe đến.

http://i739.photobucket.com/albums/xx31/vodanhthi_photos/Funny%20stuff/Irony%20and%20Philosophy/langue_bois_zps5d74e149.jpg



Xét về mặt lịch sử, sáo ngữ hay “ngôn ngữ gỗ” (lange de boyse) đã xuất hiện từ thế kỷ 16 tại nước Anh nhưng sau đó được dùng nhiều trong thời Liên Xô cũ. Khi bàn về sáo ngữ, người ta nhận thấy loại ngôn ngữ này thường xuất hiện trong lĩnh vực chính trị và tất nhiên việc sử dụng loại ngôn ngữ này là một “biệt tài” của các chính trị gia, bởi nó là một trong những kỹ thuật dùng để lái hiện thực sang một hướng khác nhằm đánh lạc hướng nội dung lẽ ra cần phải được đề cập. Do đó gần như tất cả người tham gia hoạt động chính trị đều thuộc nằm lòng những “công thức” phát biểu cho từng loại vấn đề, từng loại sự việc.

Tại sao giới chính trị gia hay sử dụng sáo ngữ? Trả lời câu hỏi này quả thật là điều không hề dễ dàng, nhưng việc sử dụng loại ngôn ngữ này trước hết có thể là một sự phản ánh của tình trạng bất lực trong giải quyết vấn đề. Chẳng hạn như việc xử lý sai phạm đối với những quan chức cấp cao luôn gặp nhiều khó khăn, do đó cách nói chung chung như “xử lý nghiêm bất kể đó là ai” là một cách nói nhằm trấn an dư luận hơn là có giá trị hiện thực trên thực tế. Và chúng ta cũng thấy những câu nói kiểu như vậy thường chỉ xuất hiện ở giai đoạn đầu của một sự việc nào đó, còn khi kết thúc thì có được xử lý nghiêm hay không, có vùng cấm hay không là chuyện khác, bởi lúc đó công luận cũng không còn quan tâm hay thắc mắc về việc có nghiêm hay không nghiêm nữa.

Mặt khác, sáo ngữ còn là một ẩn chứa cho việc thiếu khả năng xác định đâu là sự việc cần ưu tiên trước, ưu tiên sau trong việc hoạch định chính sách của những cơ quan có trách nhiệm. Chính vì vậy có lúc người ta đã nói về cách làm chính sách theo kiểu “múi mít” vì cái nào cũng thuộc loại “trọng tâm”, “quan trọng nhất”, “hàng đầu”, “then chốt”... cả. Tất nhiên cách nói như thế sẽ khiến những thành phần có liên quan hay bị tác động cảm thấy vui tai, cảm thấy được an toàn về mặt tâm lý vì dù sao chính sách liên quan tới mình cũng thuộc loại “hàng đầu” hoặc “trọng tâm”.

Tất nhiên, sáo ngữ cũng có tác dụng tốt khi nói về một số vấn đề liên quan đến quan hệ quốc tế, vì thông thường nội dung của những phát biểu kiểu “ngôn ngữ gỗ” thường là “hòa cả làng” và như vậy sẽ không làm mất lòng bất cứ bên nào.

Thế nhưng việc dùng quá nhiều sáo ngữ sẽ có tác dụng ngược trong cai trị và điều hành bởi dần dần dân chúng sẽ không còn lòng tin, không tin tưởng vào những phát biểu của giới lãnh đạo nữa. Chính vì vậy hiện nay dư luận thường ít quan tâm đến những ngôn từ được liệt vào loại “chém gió” nữa bởi chỉ mang lại sự “sảng khoái tâm lý” nhất thời, cái mà họ muốn thấy đó là làm thật sự trên thực tế.

Làm sao để sáo ngữ ngày càng ít hiện diện trong thực tế? Một số cách đã có xuất hiện như mục “chuyện ấy bây giờ” trên tờ Tuổi Trẻ nhằm xới lại những vấn đề cũ xem chúng được giải quyết, xử lý thế nào, sẽ buộc người có trách nhiệm phải “có trách nhiệm” trên thực tế nhiều hơn và từ đó có thể sẽ buộc họ giảm dần những phát biểu sáo ngữ trong tương lai.

LÊ MINH TIẾN
Mở mắt thì chạy theo cảnh
  Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
                 (Ngọc Tuyền Hạo)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

Gặp quả báo vì sống quá đểu giả

VnExpress.net – 9 giờ trước



50 tuổi, cái tuổi hầu hết mọi người đều có rất nhiều thứ và chuẩn bị lo cho tuổi già thì tôi chẳng có thứ gì, tiền bạc không, bạn bè không. Cái tôi có chăng chỉ là bệnh tật và nợ nần.
Tôi có hai đứa con nhưng mọi phẩm chất ở mức trung bình, gia đình 4 người sống lay lắt thuê nhà trọ hơn 20 năm rồi. Mọi gánh nặng cuộc sống chỉ trông chờ vào gánh cháo dinh dưỡng bán ở vỉa hè của vợ.
Tôi sinh ra và lớn lên ở một vùng quê miền Trung nghèo khó, không vì thế mà tôi tu chí phấn đấu học hành. Ngược lại, với bản chất hung hăng và láu cá từ nhỏ, tôi đã chơi bời quậy phá xóm làng, trộm cắp và lêu lổng, nói chung là đủ thứ xấu. Còn học hành lúc nào cũng đội sổ, lẹt đẹt, 10 năm mới học hết lớp 7, hầu hết những lần đủ điểm lên lớp đều do tôi đe nẹt mấy đứa học giỏi để nó cho xem bài.
Thất học, ở nhà làm nông, tôi có vợ sớm, một cô gái làng bên cũng ít học như tôi. Những năm 1990, có một phong trào những người miền Trung rời bỏ quê hương để đi vào Sài Gòn làm ăn. Vợ chồng tôi cũng rời bỏ theo phong trào đó, rồi số phận đã giữ chặt tôi lại nơi đây từ đó đến bây giờ.
Từ điểm xuất phát con số 0, rất nhiều người phấn đấu làm lụng cực nhọc, tích lũy để đến bây giờ thành đạt, ít nhất cũng có đời sống ổn định, tôi thì không. Với bản tính láu cá lọc lừa từ nhỏ, lại lười lao động chân tay, thích lao động nhẹ, hưởng lương cao, thêm tật hay nổ, tôi suốt ngày quần áo bảnh bao, liên hệ những người quen của họ hàng ba mẹ đã được thành đạt, kiếm những công việc nhẹ nhàng.

Ban đầu cũng có vài việc nhẹ nhàng nhưng vì không có kiến thức lẫn kinh nghiệm nên tôi không thể làm được gì. Vả lại vì tính khoác lác nên ai cũng ghét, không ai chỉ bảo cho tôi thứ gì, mỗi công việc tôi chỉ làm được vài ba tuần rồi thôi. Quanh năm số ngày tôi đi làm việc để kiếm tiền chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Tất cả mọi chí phí tôi đều phó mặc cho một mình vợ lo, thậm chí nhiều lần tôi còn lấy tiền của cô ấy.
Tôi cũng có một đứa em trai hiện là giảng viên đại học, chắc vì xấu hổ mà rất ít khi quan tâm hay giúp đỡ gia đình tôi. Vì những người họ hàng đều ngoảnh mặt quay lưng, tôi quay sang lừa dối bạn bè và những người đồng hương, tôi đều hỏi mượn tiền với những lý do khác nhau. Rất nhiều trong số họ phần vì họ thật thà, phần vì ái ngại nên đành cho tôi mượn. Tôi không nhớ hết đã mượn bao nhiêu và bao nhiêu người cho tôi mượn. Chung quy một điều, tôi chưa từng trả nợ cho ai và những người cho tôi mượn tiền đều tránh xa sau khi họ đòi nợ bất thành.

Cũng có người nói nhỏ nhẹ, nhưng cũng có người chửi ác lắm. Thú thật, cũng có lúc tôi có ít tiền, định trả người này người nọ một ít nhưng nghĩ đến cảnh cháy túi lại tặc lưỡi cho qua, tự nhủ dù sao cũng nghe chửi nhiều rồi, vả lại những người đó đâu có khổ hơn mình. Riết rồi chẳng còn ai chơi với tôi, chỉ còn vài thằng bạn nối khố không nỡ từ tôi vì nó biết rõ như đi guốc vào bụng tôi mà.
Thỉnh thoảng tôi cũng chủ động lên nhà tụi nó gài độ uống cà phê hay uống bia, nhưng không bao giờ tôi chủ động trả tiền, vậy mà tôi cũng không tha cho tụi nó. Có một lần túng quá, tôi nghĩ ra kế rủ một thằng bạn hùn vốn đi buôn, nói là hùn chứ tiền của nó thôi. Vì tôi cứ theo nó hoài, cực chẳng đã nó cho tôi mượn 2 chỉ vàng chứ không hùn hạp gì cả. Có tiền tôi nói dối bạn là đi buôn, nhưng thực ra tôi tiêu pha vào cờ bạc hết mong ăn tiền của người khác.
Tôi thua sạch và 15 ngày sau quay lại nhà bạn nói là đi buôn hàng nhưng bị bắt mất hết rồi, dĩ nhiên là không có tiền để trả. Xui cho tôi là thời gian này có người biết tôi đánh bài, nên về sau bạn tôi biết và tôi mất người bạn này luôn. Lần gần nhất cách đây hơn một năm, tôi đến nhà một người bạn chơi, tình cờ gặp một người còn khá trẻ, là chủ một doanh nghiệp. Nhân lúc bạn lên lầu, tôi chủ động xin số điện thoại và làm quen. Sau lần đó ít lâu, tôi lại chủ động đến công ty anh ta xin việc. Tôi hạ mình bảo đang thất nghiệp, lại nuôi vợ con nên anh thương tình giúp tôi bằng cách giao hàng cho tôi đi bán để lấy hoa hồng.
Phải nói anh ấy là một người rất tử tế và nhân hậu nhưng tôi lại không cưỡng lại lòng tham. Tôi bán lô hàng hơn 10 triệu mà không về nộp tiền cho công ty, tiền đó tôi tiêu xài cho mình. Bị phát hiện, tôi nghỉ việc ở đó luôn tới bây giờ. Nhân viên công ty và bản thân anh vài lần đến nhà trọ tôi đòi tiền, nhưng tôi đều không trả. Lần gần nhất anh đến, cả gia đình tôi đã nặng lời và còn hăm dọa anh, hàng xóm ai cũng biết và khinh khi nhà tôi.
Anh rất tức giận nhưng không thô lỗ, nhẹ nhàng nói “Anh lớn rồi, làm người phải có lương tâm, phải có lòng tự trọng thì mới đáng làm người. Anh tin đi, người làm, trời biết. Người như anh tôi gặp nhiều rồi, để tôi coi anh nhận quả báo như thế nào. Còn chuyện này, nhất định tôi sẽ kiện ra tòa”. Chuyện đã xảy ra 3, 4 tháng, kể từ khi nghe được lời nói đó đến giờ, tôi luôn giật mình nghĩ đến chuyện quả báo, chuyện hầu tòa. Liệu có ai tin chuyện quả báo có thật hay không? Nếu công ty kia kiện ra tòa thì tôi sẽ bị tội gì?
Thời gian gần đây tôi phát hiện mình rất nhiều bệnh, sức khỏe yếu đi nhưng không có tiền khám bệnh. Tôi cũng không dám về quê vì sĩ diện, còn ở đây cuộc sống thật sự bế tắc. Tết vừa rồi, cần 5 triệu để đi buôn hoa Tết mà tôi đi mượn khắp nơi cũng không được vì chẳng ai cho. Có phải tôi đã bị quả báo rồi không? Có phải tôi là người khốn nạn không? Đây là toàn bộ những lời chân thật tôi viết ra để mong lòng mình thanh thản phần nào. Bây giờ tôi phải làm gì đây? Xin mọi người cho tôi một lời khuyên.

Tám
Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

nguyenbachlong

...VÀ ĐÂY NỮA: NỖI CƠ CỰC CỦA VỊ CÔNG THẦN - CỤ NGUYỄN HỮU ĐANG
viết bởi: cao thâm  
Chuyên mục: Chuyện đời


http://www.rfi.fr/actuvi/images/119/NHDANG_200_091124.jpg
Nguyễn Hữu Đang và ảnh bìa tập san giai phẩm số 1 - Ảnh DR
   
Cụ Nguyễn Hữu Đang  (bí danh Phạm Đình Thái) sinh ngày 15 tháng 8 năm 1913 trong một gia đình trí thức tại làng Trà Vi, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Cụ là  một trong những người sáng lập nên Hội truyền bá Quốc ngữ, là Thứ trưởng Bộ Thanh Niên và là người chỉ huy dựng Lễ đài Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân, 2/9/1945. Cụ Nguyễn Hữu Đang  bị cải tạo do tham gia vụ Nhân văn Giai phẩm…Sau này  cụ được phục hồi một số quyền lợi. Cụ không có vợ con, mất năm 2007.

    Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của cụ Nguyễn Hữu Đang, caothamnguyen.com giới thiệu bài viết của Nhà văn Phùng Quán, kể  những ngày cụ Nguyễn Hữu Đang hết án cải tạo, về sống ở Thái Bình. Đây là phần đọc thêm, sau bài viết về nhà thơ Phùng Cung của tôi, in trong cuốn KÝ SỰ NHÂN VẬT (Nguyễn Cao Thâm,, NXB Hội Nhà văn-2011):



    “Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê nguời, đầu không khiến mà chân cứ rụt về tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm trinh sát mỗi lần được Chính uỷ Sư đoàn hỏi chuyện. Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt động cách mạng từ khi tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảng cùng thời với Trường Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của Đất nước: 2/9/1945.

http://www.rfi.fr/actuvi/images/119/Thubut_NGUYENHUUDANG_432_091124.jpg
Thủ bút của ông Nguyễn Hữu Đang - Nguồn: diendan.org

     Cách đây khoảng mười lăm năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về, tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết, lại thấy anh đáo lên Hà nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh: “Anh kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng em thế?”. Anh cười: “Mình sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn, lại còn có cả thóc và rơm cho nông dân vay”. - “Hiện nay anh đang làm gì ở dưới đó?”. “Mình nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu thấy bản dịch đã in sai nhiều quá”.

    Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi hỏi nhau: “Không biết anh Đang có gặp chuyện gì trắc trở dưới đó không?”

    Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân thể tôi muốn tìm hiểu về công trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất quyết phải về thăm anh, mặc dầu đã gần giáp Tết. Tôi nói khó với vợ: “Em bớt cho anh một phần lương hưu tháng này; lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình tìm thăm anh Đang...” “Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra Giêng anh đi có được không?”. “Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột quá... đợi đến ra Giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại một thân một mình...”. “Anh có biết địa chỉ của anh Đang không?”. “Anh chỉ biết anh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ thể thì không biết”. “Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông với hơn hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?”. “Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết”. Vợ tôi đành trao cho tôi nửa số tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhẫn nhịn của người vợ phải trao cả một nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào một việc không đâu! Tôi vội nhét mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý kiến.

    Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp... sáng 26 Tết, tôi có mặt tại thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến Sở văn hoá và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ: “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó...”. Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu, chắc sẽ hỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành móc số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt chó luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ bật dậy nói với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc biết”. Tôi vội níu tay anh lại, dặn nhỏ: “Cậu đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc”. “Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn”. Anh bạn trẻ đi đến gặp anh ta, nói cái gì đó, và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở hỏi: “Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ bao nhiêu tuổi ạ?”. Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác - áo quần bà ba nâu, chân dép lốp - râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên: “Cám ơn đồng chí - tôi cười - cũng thất thập cổ lai hi rồi đồng chí ạ”. “Trước cụ công tác ở đâu ạ?”. “Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà nội... về hưu đã gần chục năm rồi”. “Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?”. “Tôi có quen biết gì ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác giáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mười ngàn bạc để biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...”. Anh cán bộ cười: “Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về đó cũng vất vả đấy...”.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

nguyenbachlong

Tiếp theo

Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy cách đây mấy năm ông Đang này tự tiện đi sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về...”. Tôi tỏ ý sợ hãi gãi đầu gãi tai: “Chà... biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... đem tiền về trả lại thôi...”. Anh cán bộ xuê xoa: “Không sao đâu cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường cho cụ”. Anh cán bộ chấm ngón tay vào li rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh...

    Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân vì nghĩa lớn, nên con đường cũng như bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào trường phổ thông cấp I, II xã Vũ Công - Nơi anh Đang tá túc - tôi vào cái quán bên đường uống li rượu cho ấm bụng. Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ Hà nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu tràn li và nói: “Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đấy, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái xã Vũ Công này. Mới cách đây dăm hôm, ông ấy đèo sau xe cái giỏ tre ràng buộc rất kỹ. Ông ấy kể với tôi tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè bò vào nhà mình. Định làm thịt ăn nhưng tiếc, chở lên chợ bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ lá...”. Tôi bật phì cười: “Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mini những mười mấy cây số để đổi lấy mấy lạng mỡ lá... Vui thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi, làm câu thơ nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt hiện ra trong trí nhớ tôi: “Cuộc đời vui quá không buồn được!”. Ông chủ quán rót thêm li rượu nữa, giọng hào hiệp: “Li này tôi đãi cụ!... Mà khổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về phàn nàn: “Nó không chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ tam xà!”. Tôi cười ngất.

    Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi: “Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không biết...”. Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng... Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng... Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì một nhà tư sản Hà nội nào giàu có, vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh là trao tận tay cho cách mạng... Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ, không con, không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên gạch vỡ - chẳng hiểu để làm gì - như người bõ già trong truyện “Hương cuội” của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp tất niên... Miên man nghĩ như vậy và tôi bật phì cười... “Anh Đang!”, tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chớp mắt, răng vàng sỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng... “Phùng Quán! Chú về đây từ lúc nào thế?”. Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Và cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...

    Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng chỉ khoảng 5 mét vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai. Sau đó tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc: Đi lại trong đường làng những đêm tối trời, anh thường bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu - trâu gõ mõ, chó leo thang - anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xe. Tác dụng thứ hai, quan trọng không kém... Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc. Chính giữa gian chái kê cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín được, khoá một chiếc khoá lớn như khoá nhà kho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà nội người ta thường quẳng vào các đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được thống cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông trần rách thủng, và một xấp quần áo cũ làm gối... Sát chân giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường. Anh nói, giọng Lão Trang: “Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn hai chân nó là một con người”.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

nguyenbachlong

Tiếp theo

Trên mặt bàn xếp kín những chai lọ, vỏ đồ hộp, hai cái đèn dầu làm bằng lọ mực Cửu Long, vài con dao làm bằng mẩu lưỡi liềm gẫy, và ba bốn cái bát hương, nắp đậy là những viên gạch vỡ. Anh chỉ nắp đậy, giới thiệu với giọng trang trọng của thuyết trình viên giới thiệu hiện vật trong các bảo tàng nghệ thuật: “Nó là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của sành sứ cổ, sức nặng và độ bền của nó làm cho các loại chuột, mối, gián phải vị nể”. Bây giờ tôi mới hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì. Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh còng queo, mẩu dây thép han rỉ... Tất cả những đồ lề đó, phủ lên một lớp bụi tro... Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói. Anh giải thích: “Giờ này các cô giáo nấu ăn.

    Bếp tập thể ở sát bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang - anh cười - Chịu khói một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnh thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng. Trong việc dở nào cũng có việc hay, và ngược lại”. “Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn”. “Thôi khỏi cần. Chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam hẳn hoi, quà của Hội Nhà văn gửi biếu vào dịp Tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi”. Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách... ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia, và nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi tìm một lúc khá lâu mới lôi ra được chai rượu cam còn già nửa: “Đây rồi! Bây giờ già hoá ra lẩm cẩm. Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia”. Tôi cười, nói: “Nhìn anh, em cứ tưởng là một nhà quí tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quí cất giữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quí”. Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi: “Anh chơi sưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà em không biết. Trên nhà em, các bạn đến chơi, hút các loại thuốc lá ngoại hảo hạng, vỏ bao vất lung tung, vợ em ngày nào cũng phàn nàn vì phải dọn nhặt đem đốt”. Anh kêu lên: “Thế có tiếc không! Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô, có vỏ bao thuốc là ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy...”. “Hàng đối lưu?”, tôi ngạc nhiên hỏi. “Để tôi dọn cơm cho ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về môn kinh tế chính trị học”.

    Tôi ngắm nhìn căn hộ độc thân đầy khói của anh, hỏi: “Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở gian buồng này à?”. “Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị tôi ra đó trông coi giúp như nhân viên thường trực của trại. Ở đó một thời gian. Nhà kho cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với trông coi trại. Mỗi mùa hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm được hai ba tạ thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết, Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà nội biếu các chú... Khi bắt tay vào việc dịch thuật lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, tiếng lợn kêu ầm ĩ quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc trông coi trại, chuyển về đây để được yên tĩnh hơn”.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

nguyenbachlong

Tiếp theo

Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy, đặt lên miệng xô tấm gỗ dán. “Đây là bàn ăn - anh giới thiệu và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng - Còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân mình nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng bụi tre... Tôi nhặt về, cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?”. Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn: “Đĩa này là chả cóc, đĩa này là chả nhái. Nhờ ăn thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ hơn cả chú”.

    Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn mất một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc. “Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường bỏ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm”. “Nhưng cóc nhái đâu ra mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?”, tôi hỏi. “Ấy chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp. Mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi đều nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc, nhái. Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số đổi 3 con cóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới nói là hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp… Hôm nào chú về tôi gửi biếu cô, chú Cung, mỗi nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều nhạt hoét!”.

    Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi: “Chú đi đâu mà lại lặn lội về tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi?”. “Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà nội, chúng em rất lo. Không biết anh ốm đau gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất mừng… Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi gì lại cho các thế hệ sinh sau, theo em là một tổn thất không gì bù đắp được…”. Tôi lấy đưa anh xem số tài liệu liên quan đến ngày Đại lễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: “Em suy luận ra anh là Trưởng ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỉ niệm, những hồi ức mà anh cho là sâu sắc nhất… mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin”.

    Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong lớp men sành…

     Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:

    “Thấm thoắt thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua… Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8… Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một… Năm đó tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào… Hôm đó, tôi có việc cần phải giải quyết gấp, nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi, nói: “Anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó”. Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp mặt ông Cụ. Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi - như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách. Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: “Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không?”. Tôi tính rất nhanh trong đầu: tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhắc trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua... để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là quá khó vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”. Anh Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.

    “Như chú biết đấy - giọng anh vụt trở nên sang sảng - tôi là một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại bị ông cụ động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên được những kì tích, những chiến công thật vang dội... Tôi nói với ông Cụ: “Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách”. Cụ Hồ đứng lên, bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rất vui vẻ, bằng lòng: “Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đến sáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành như thế nào”. Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng... Nhưng khi vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang của Bắc Bộ phủ, tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng đó. Cụ hỏi ngay: “Chú còn cần gì nữa?”. “Thưa Cụ, để hoàn thành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền...”. “Quyền gì, chú cứ nói đi!”. “Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ, về người cũng như về của...”. “Được, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả lời: Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”.
- Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn - anh gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa rồi kể tiếp - Nội dung như sau: ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến Hội quán Trí Tri phố Hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo (... mất một dòng...) ngoài chật kín Hội quán. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận: “Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc, đâu có lấy giấy biên nhận”, họ nói vậy. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độc lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thời đứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt tại đây có thể đảm nhiệm trọng trách đó? Một người trạc ngoài ba mươi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ. Tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: “Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng Lễ đài Độc lập là một công trình kiến trúc, tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng thể... Nói ví dụ nếu như không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp với anh”. Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề, từ trong đám đông bước ra, tự giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh, cùng hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải cuộn giấy can cầm sẵn trên tay lên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉ mỉ... Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát v.v... Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút kí duyệt bản thiết kế, đóng dấu Ban tổ chức. Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh: “Ban tổ chức quyết định giao việc này cho hai anh. Các anh cần gì, chúng tôi sẽ lo chạy đầy đủ. Hiện nay chúng tôi có một kho ba ngàn thước len đỏ, cần dùng bao nhiêu các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.

    Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ như Cụ đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọi việc có liên quan tới ngày lễ, Cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: “Chú phải nhớ ngày Mồng hai tháng Chín tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và ngày khai sinh nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà”.

    “Ông Đang ơi! Ông Đang ơi!”, tiếng con nít gọi nheo nhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi nhìn ra, thấy hai chú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn rỉ máu tươi: “Ông có đổi rắn nước không ạ?”. Anh Đang bỏ đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước, rồi hỏi: “Các cháu định đổi như thế nào?”. “Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số”. “Các chú đừng có giở thói bắt chẹt”, giọng nói và dáng bộ của anh đã chuyển sang giọng của dịch vụ đổi chác, “Mỗi con rắn này chỉ giá trị bằng hai con cóc. Nhưng thôi, thì ông cũng đành chịu thiệt vậy, mỗi con một vỏ bao ba số, các chú có đổi thì đổi, không đổi thì thôi”. Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói: “Chúng cháu đổi ạ”. Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói: “Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng”. Anh cầm lấy cái vỏ bao xem lại, cười: “Được, ông sẽ đổi cho vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì Nhà nước sẽ không phải chịu thua thiệt”.

    Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên, như người buôn bán vừa vớ được món hời: “Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái. Tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ. Ăn vào chú sẽ thấy tăng lực gấp đôi, có thể đạp xe một mạch lên đến bến phà Tân Đệ”.

    Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỉ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối trong đĩa, anh vừa nói: “Hiện nay tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây... Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước đến nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập” Cụ Hồ viết... còn hay mất, nếu còn thì bây giờ đang ở đâu... Hoặc cụ định sửa hai câu trong bản “Tuyên ngôn”, nhưng không kịp vì bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng ban Tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấn những tài liệu có liên quan đến vận mệnh đất nước này, nhưng... như chú biết đấy, hiện nay trong Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như Bảo tàng Lịch sử, không có bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập”... Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổi đầu rồi còn gì, mà lại không có điều kiện làm việc, ban đêm coi như chịu chết, đèn đóm tù mù, đúng là đóm thật”... Anh im lặng một lúc lâu, rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏi tiếp: “Chú có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay là gì không?”, không đợi tôi đoán, anh nói luôn: “Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây cũng như ở trên Hà Nội... Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột rà máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền đến nhà trường, các thày các cô, các cháu học sinh... Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết... Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy...”.

    Tôi theo anh ra đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa đông bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt. “Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi... Tôi sẽ nằm đó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay...”

    Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là bị cảm... Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi mang về tặng anh:

Mặt va - giông chớp

Rạc mái phong lưu

Gót nhọc men về thung cũ

Quỳ dưới chân quê

Trăm sự cúi đầu

Xin quê rộng lượng

Chút thổ phần bò xéo cuối thôn!
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

htcmb

http://gtmedia.tinmoi.vn/files/thu_gian/271212/1/2/3/4/1/1/7/thu_ky_1.gif
(Ý kiến với bác TTT)
TỪ VÀ CỤM TỪ MỚI

Còn một "cụm" sao không nghe bác nhắc
Ấy là trong cuộc sống của các thầy
Có"quan hệ trên mức tình cảm" nữa…
Có nghĩa là…pháp luật cũng bó tay…!


lnp
lnp
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

nguyenbachlong

VÌ SAO ÔNG TẠ ĐÌNH ĐỀ BỊ RA TÒA?

viết bởi: cao thâm  
Chuyên mục: Chuyện đời
            
Lúc còn bé, tôi  được nghe những câu chuyện li kỳ về nhà tình báo Tạ Đình Đề  với những pha "xuất quỷ nhập thần" như người tàng hình… Sau này, tôi mới biết, Tạ Đình Đề ngoài đời nhân hậu, vui vẻ và cuộc đời ông gặp nhiều trắc trở, éo le...

Để chia sẽ cùng bà con  Cao Thâm xin trân trọng giới thiệu bài viết của TS. Dương Thanh Biểu - Nguyên Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao kể về giai thoại và những vụ án xét xử vị tình báo huyền thoại này.

KỂ LẠI VỤ ÁN TẠ ĐÌNH ĐỀ

http://files.myopera.com/yeuhanoi/blog/8_ong732.jpg
Ông Tạ Đình Đề sinh năm 1917 tại Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội. Năm 1936, ông cùng với cha và anh trai sang Vân Nam (Trung Quốc) làm việc tại Công ty Hỏa xa. Tại đây, ông tham gia Hội Ái hữu cứu quốc do Việt Minh tổ chức. Ông từng được cử đi học tại các trường hạ sĩ quan, Trường Đặc vụ và Trường đào tạo gián điệp ở Trung Quốc (nơi đào tạo sử dụng các loại vũ khí, chất nổ, lái xe, lái máy bay…). Ông tốt nghiệp xuất sắc Trường quân sự Hoàng Phố và được tổ chức phân công hoạt động tình báo cùng phái bộ Mỹ trong phe Đồng minh chống phát xít Nhật.

Sau đó, Mỹ đưa ông đi đào tạo nhảy dù ở Ấn Độ và Mỹ. Năm 1944, ông được Mỹ và Tưởng Giới Thạch đưa về hoạt động tại Huế, Sài Gòn. Tháng 8-1945, ông tham gia cách mạng, một năm sau thì ông vào Đảng. Ông từng làm Phó ban Tình báo Liên khu 2, Trưởng ban Tình báo Tây Tiến, Đội trưởng biệt động Liên khu 2, Giám đốc Trường Hoa văn Liên khu 3… Ông qua đời vào ngày 29-2-1998. Năm 2007, ông được Chủ tịch nước truy tặng huân chương Độc lập hạng Ba (ảnh). Nhà thơ Bút Tre từng có thơ rằng: “Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên/ Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về/ Hoan hô anh Tạ Đình Đề/ Trước đi theo địch nay về với ta”. Giữa những năm 80 của thế kỷ XX, Vụ Kiểm sát điều tra án an ninh (Vụ 2C) VKSND Tối cao thụ lý kiểm sát điều tra vụ án ông Tạ Đình Đề phạm tội về an ninh. Ngày 15-9-1985, ông Tạ Đình Đề bị bắt giam. Sau hơn một năm bị tạm giam, cơ quan điều tra đề nghị VKSND Tối cao gia hạn giam đặc biệt. Lần gia hạn giam đặc biệt này, anh Lê Mai, Vụ trưởng Vụ 2C, giao cho anh Phan Xuân Bá, Phó Vụ trưởng 2C, phê chuẩn. Và TS Nguyễn Thanh Biểu – người kể chuyện này- được lãnh đạo Vụ giao nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ.

Con người huyền thoại

         Cuộc đời có những khúc quanh kỳ lạ. Đối với tôi, ông Tạ Đình Đề là một thần tượng, một người anh hùng đã in sâu vào tâm trí thời trẻ của tôi. Có thể nói tên tuổi và con người ông Tạ Đình Đề từ lâu đã là huyền thoại, hầu như ít nhiều ai cũng từng một lần nghe kể. Nhưng hấp dẫn và thú vị nhất có lẽ là chuyện ông được kẻ địch cử đi ám sát Bác Hồ nhưng được Bác cảm hóa rồi trở thành cận vệ cho Bác.

         Chuyện kể rằng hôm ấy, Bác đã ngồi vào bàn ăn cơm nhưng chưa dùng vội mà quay sang nói với đồng chí bảo vệ thật to rằng cho Bác xin thêm đôi đũa và cái bát (chén) vì hôm nay Bác có khách. Dù ngạc nhiên nhưng đồng chí bảo vệ vẫn mang bát đũa ra đặt lên bàn, đoạn hỏi: “Thưa Bác, sao khách vẫn chưa đến à?”. Bác điềm nhiên trả lời: “Vị khách đã đến lâu rồi nhưng các chú không biết để tiếp đón đấy thôi”. Rồi Bác hướng mắt về phía buồng ngủ nói to: “Xin mời chú Tạ Đình Đề xuống xơi cơm với Bác!”…

         Bỗng nhanh như chớp, một người từ tầng hai nhảy xuống đất, lách nhanh vào phòng ăn và đứng ngay trước mặt Bác. Các chiến sĩ bảo vệ thủ thế, sẵn sàng đối phó để bảo vệ Bác nhưng Bác khoát tay rồi mỉm cười thân thiện với vị khách đặc biệt: “Trông chú dạo này già dặn hơn trước nhiều song có phần gầy và đen hơn lúc mới ra trường. Chắc chú vất vả lắm?”… Nhìn ánh mắt nhân từ, bao dung của Bác, vị khách lễ phép đáp: “Thưa Bác, trước hết cháu xin bày tỏ lòng khâm phục của cháu đối với Bác… Cháu xin hứa chấm dứt công việc của địch giao cho và xin phục tùng dưới sự điều hành, sai bảo của Bác”

         Từ đó, ông Tạ Đình Đề trở thành người cận vệ trung thành của Bác – một trường hợp đổi vai kỳ diệu trong lịch sử nước ta.

Đã một lần được tuyên trắng án.

         Ôm tập hồ sơ vụ án Tạ Đình Đề trên tay mà lòng tôi bộn rộn bởi rất nhiều giai thoại về ông cứ thấp thoáng trong đầu. Với lần “phạm tội” trước, năm 1976, khi TAND TP Hà Nội xét xử ông, tôi được cử đi dự. Lúc đó tôi không quan tâm đến tội danh và hình phạt đối với ông mà chỉ nhăm nhăm xem con người nổi tiếng đó thế nào.

         Tôi còn nhớ hôm đó là ngày 7-6-1976, ông bị tòa đưa ra xét xử về các tội cố ý làm trái, nhận hối lộ và tham ô tài sản XHCN. Tôi không tin nổi trước mắt mình là một Tạ Đình Đề bằng da bằng thịt đang đứng sau vành móng ngựa. Tôi cố chen chân vào nhìn cho kỹ. Huyền thoại tuổi thơ của chúng tôi đang ngồi trên ghế bị cáo với dáng người tiều tụy, đầu tóc bù xù, nét mặt nhăn nheo, da dẻ xanh mét. Đôi mắt ông thâm quầng, trũng sâu nhưng vẫn ánh lên nét tinh anh. Nhìn cảnh tượng đó tự dưng lòng tôi xót buốt quặn đau…

         Vì đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, xã hội rất quan tâm nên tòa chuẩn bị rất kỹ, loa đài được mắc thêm ngoài đường phố, phòng xử được kê thêm ghế. Mấy ngày xử án nắng như đổ lửa nhưng người dân Hà Nội và các tỉnh lân cận như Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, Thanh Hóa, Vĩnh Phú… kéo về xem chật kín sân tòa, đứng tràn ra các tuyến phố xung quanh. Có thể nói không ngoa, những ngày này Hà Nội trải qua những cơn địa chấn dữ dội.
    Theo cáo trạng thì ông Đề có các hành vi phạm tội như tổ chức móc ngoặc, chiếm dụng thiết bị máy móc của Nhà nước đem về xưởng sử dụng lung tung; phá lẻ thiết bị toàn bộ nhà máy đắp vỏ ô tô do Trung Quốc viện trợ; sử dụng vốn kinh doanh trái chính sách, chế độ; lập quỹ trái phép; làm ăn phi pháp và tham ô. Lạ một điều cáo trạng chỉ dựa vào bản kết luận của đoàn thanh tra để buộc tội nhưng bản báo cáo này lại không có ngày tháng, không có chữ ký của trưởng đoàn, đoàn thanh tra này cũng không biết do ai lập, ai làm trưởng đoàn!

         Xem xét xác định nhiều sự phi lý khác nữa, cuối cùng, chiều 12-6-1976, tòa đã tuyên Tạ Đình Đề không phạm tội và tuyên bố tha bổng ông ngay tại tòa.

         Tiếng vỗ tay vỡ òa, vang dội. Nhiều người dự tòa bật khóc vì sung sướng. Một cảnh tượng xúc động mà tôi chưa từng gặp trong đời: Nhiều người ào vào công kênh ông Tạ Đình Đề lên vai như công kênh một người anh hùng trở về từ trận mạc xa xôi và ác liệt; nhiều bó hoa tươi thắm được trao đến tay con người huyền thoại ấy…

Vào tù lần hai vì ca dao, hò, vè.

         Thú thật lúc ấy tôi không hiểu vì sao một vụ án đặc biệt nghiêm trọng, được huy động lực lượng điều tra và kiểm sát điều tra hùng hậu, công phu như thế nhưng rốt cuộc bản cáo trạng của VKSND Tối cao đưa ra lại bị tòa bác bỏ một cách thẳng thừng như vậy!

         12 ngày sau, VKSND Tối cao ký kháng nghị bản án sơ thẩm nói trên và đề nghị Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao xét xử phúc thẩm. Thế nhưng không hiểu sao sau 10 năm trôi qua mà vụ án vẫn không đưa ra xử phúc thẩm. Theo quy định lúc ấy, trường hợp này bản án sơ thẩm nghiễm nhiên có hiệu lực pháp luật. Nhưng ông Tạ Đình Đề vẫn không được các cơ quan liên quan khôi phục quyền lợi và danh dự!

         Cần nhắc lại trong lúc ông Tạ Đình Đề vướng vòng tai ương lao lý (lần đầu) thì vợ ông - bà Đặng Thị Thọ - phải oằn lưng gồng mình gánh vác việc nhà. Đây là thời kỳ đời sống của cán bộ viên chức và gia đình của họ gắn liền với sổ gạo, tem phiếu. Người ta ví “mặt như bị mất sổ gạo” là mặt buồn bã, nhàu nhĩ lắm. Thế mà bi đát thay, tiêu chuẩn của ông Tạ Đình Đề bị cắt hết. Giữa lòng Hà Nội, gia đình của ông sống vô cùng chật vật, thiếu thốn. Và suốt 10 năm sau phiên tòa tuyên ông vô tội, cuộc sống nhà ông lại càng bi đát hơn vì người ta không hề khôi phục quyền lợi, sổ gạo, tem phiếu cho nhà ông.

         Trong cái khó của thời bao cấp lúc ấy, đâu đâu cũng xuất hiện những câu ca dao, hò, vè châm biếm, trào phúng, kiểu như: “Một yêu anh có may ô/ Hai yêu anh có cá khô để dành/ Ba yêu anh biết mổ trâu/ Bốn yêu anh biết ăn đầu, ăn da…”. Hay như: “Tôn Đản là chợ vua quan/ Nhà thờ là chợ trung gian nịnh thần/ Bắc Qua là chợ thương nhân/ Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng…”. Hay những câu châm ngôn mới mang tính đả kích như: “Thực phẩm quý hơn nhân phẩm; Bằng gì cũng chẳng bằng lòng; Bù giá vào lương hay bù da vào xương…”

         Những câu truyền khẩu nói trên hầu như ai ai cũng thuộc, đâu đâu cũng nghe. Và dĩ nhiên ông Tạ Đình Đề chẳng những nghe mà còn thương và cám cho cái cảnh của mình. Nên ông sưu tầm và phổ biến. Nên ông vướng vào cái án an ninh và bị bắt bỏ tù vì cái tội tuyên truyền chống chế độ XHCN!
      Thời đó, với kiểu lập luận này, người ta muốn một lần nữa kết tội ông Tạ Đình Đề.

Lội ngược dòng

         Theo kết luận của cơ quan điều tra, ông Tạ Đình Đề đã có hành vi thu lượm các câu ca dao, hò, vè có nội dung nói xấu lãnh đạo, sau đó đưa về nói lại cho nhiều người cùng nghe. Cơ quan điều tra đề nghị VKSND Tối cao truy tố ông về tội tuyên truyền chống chế độ XHCN. Thời điểm này tình hình kinh tế-xã hội của nước ta vô cùng khó khăn. Chính sách giá-lương-tiền dẫn đến việc đổi tiền vào tháng 9-1985 khiến giá hàng hóa tăng gấp 10 lần, lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm thiếu thốn nghiêm trọng. Lúc đó cán bộ, nhân viên nhà nước hằng tuần phải lên rừng phát rẫy trồng sắn, đến bữa ăn chỉ có rau và mì, có lúc phải mặc áo vá đi làm. Lúc này cán bộ, công nhân viên coi tem phiếu, sổ gạo là những tài sản vô cùng quan trọng, mất nó là tai họa (do vậy mới có câu mặt nghệt như mất sổ gạo và chính tôi đã một lần mặt nghệt như thế vì bị bọn móc túi móc sạch tem phiếu khi đi qua cầu Long Biên).

         Cần nhắc lại rằng 10 năm trước, khi bị bắt, ông Đề đã từng bị cắt hết tiêu chuẩn tem phiếu, sổ gạo. Mà với một cán bộ, viên chức, điều ấy đồng nghĩa với cắt hết nguồn sống. Sau khi được tòa tha bổng, quyền lợi của ông và gia đình vẫn không được phục hồi. Nói điều ấy đủ biết tình cảnh ông bi đát đến cỡ nào.

         Cho nên xét về tâm lý, ông Tạ Đình Đề từng vào sống ra chết để làm cách mạng, nay bị đối xử tệ nên phát sinh bi quan, chán nản. Từ chán nản đến tiêu cực, ông sưu tầm ca dao, hò, vè về nói chuyện phiếm với một số người. Rõ ràng hành vi này chỉ xuất phát từ động cơ chán nản, bất mãn chứ không có ý thức chống đối chế độ, chống Nhà nước. Nhận định trên đây là kết quả sau khi tôi đã nghiên cứu xong hồ sơ vụ án. Đây là nhận định rất mới, khác với quan điểm của nhiều người, nhất là với cơ quan điều tra, nên tôi chưa dám báo cáo với lãnh đạo Vụ 2C. Có lúc tôi nghĩ mình chỉ là thằng cán bộ quèn, ăn nói không cẩn thận có khi bị chụp mũ thì gay go vô cùng.

Lưu truyền hò, vè đả kích thì không phạm tội

         Tôi luôn khắc ghi lời của anh Phan Xuân Bá, Vụ phó Vụ 2C, rằng: “Hồ sơ như thế nào thì báo cáo như vậy, nhận thức như thế nào thì đưa ra quan điểm như thế đó”. Nhưng trong hồ sơ, những vị quyền cao chức trọng đã khẳng định như đinh đóng cột là phải xử Tạ Đình Đề về tội chống phá chế độ. Tôi cảm thấy hơi lo lắng.

         Nhưng rõ ràng hơn một năm qua, cơ quan điều tra đã đi xác minh nhiều nhân chứng ở nhiều nơi nhưng kết quả điều tra vẫn không có gì mới. Nếu tiếp tục gia hạn tạm giam đặc biệt cũng không cần thiết và không giải quyết được gì. Nhưng tôi vẫn cứ run run. Bởi nếu lãnh đạo không đồng ý thì chẳng những sẽ kéo dài thêm những tháng ngày đau khổ cho ông Tạ Đình Đề mà có khi mình còn bị đánh giá là hữu khuynh. Ranh giới giữa mất - còn thật mong manh! Biết đâu sau đề xuất của mình là những tai ương đang chờ đón, lôi thôi mình bị mất việc như chơi… Nhưng rồi cuối cùng cái tâm của con người trong tôi đã thắng, nó giúp tôi vượt qua mọi trở ngại trong báo cáo của mình: Tôi mạnh dạn đề xuất không cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị can thêm nữa.

         Một hôm, tôi đang ngồi tu chỉnh lại hồ sơ thì anh Phan Xuân Bá gọi tôi sang phòng anh Lê Mai - Vụ trưởng Vụ 2C báo cáo. Chờ tôi ngồi, anh Mai vào đề ngay: “Mình đã đọc kỹ báo cáo của cậu rồi, ngoài nội dung báo cáo, cậu có thể nói kỹ hơn, suy nghĩ thế nào thì cứ phát biểu thế đó!”. Tôi bày tỏ quan điểm của mình theo hướng như đã nói. Tôi vừa nói xong, anh Bá gật đầu nhưng anh Mai lại… lắc đầu. Anh Mai nói (đại ý) rằng ý kiến đề xuất mạnh dạn của cậu bọn mình rất hoan nghênh nhưng Tạ Đình Đề có hành vi thu thập, phổ biến và tuyên truyền các câu ca dao, hò, vè có tính chất đả kích lãnh đạo, nói xấu chế độ… Quay sang anh Bá, anh Mai hỏi: “Ý của tôi vậy, anh Bá thấy thế nào?”. “Tôi thấy thống nhất như báo cáo, giải trình của đồng chí Biểu. Đây chỉ là hành vi phản tuyên truyền, không phải là tội phạm” - anh Bá trả lời.

         … Sau đó ít ngày, Vụ 2C tổ chức cuộc họp để thảo luận nghiệp vụ xoay quanh vụ án Tạ Đình Đề. Trong số các ý kiến buộc tội, có người còn lập luận rằng: “Đã giam người ta chừng ấy thời gian mà bây giờ bảo không có tội thì không ổn. Tôi đề nghị thống nhất với ý kiến của cơ quan điều tra (tức kết tội ông Đề)”!

Chiến thắng của công lý

         Sau cuộc họp thảo luận trên, tôi còn được anh Bá và anh Mai gọi sang hội ý mấy lần. Một hôm, sau khi nghe tôi báo cáo, anh Mai đăm chiêu suy nghĩ, có vẻ như cân nhắc từng chữ một khi nói với tôi. “Mình và anh Bá đã xem kỹ báo cáo và cả ý kiến phát biểu của cậu hôm trước. Khá đấy! (Đột nhiên anh Mai cười vui vẻ, một điều rất hiếm gặp!). Về cơ bản mình và anh Bá nhất trí với đề xuất của cậu…”. Sau lần này, tôi làm dự thảo báo cáo và chuyển cho anh Bá, sau đó chuyển cho anh Mai.

         Trời Hà Nội mấy ngày cuối đông năm 1986 mưa phùn kèm gió bấc lạnh tê tái. Tôi vừa đạp xe đến cơ quan thì anh Lê Mai bảo chuẩn bị hồ sơ để báo cáo lãnh đạo Viện. Sau khi nghe báo cáo, đồng chí Trần Lê, Viện trưởng VKSND Tối cao, kết luận: “Thay mặt lãnh đạo Viện, tôi xin biểu dương Vụ 2C đã chuẩn bị tốt nội dung báo cáo, trong đó mạnh dạn nêu quan điểm xử lý vụ án. Ý kiến các đồng chí lãnh đạo Viện đã thống nhất về quan điểm xử lý vụ án này…”.

         Ngày 8-1-1987, viện trưởng VKSND Tối cao có văn bản trả lời Bộ Công an, trong đó nói rõ không cần đưa vụ án này ra truy tố, xét xử. Phải mất gần một năm trao đi đổi lại nữa, trong đó cấp cao nhất đã đồng ý với quan điểm của Viện, cuối cùng, ngày 7-12-1987, VKSND Tối cao đã quyết định đình chỉ điều tra và trả tự do cho ông Tạ Đình Đề. Vụ án được khép lại.
10 năm sau, có dịp gặp ông, tôi nói: “Kính chào bác Đề. Hơn 10 năm nay mới được gặp lại bác. Bác là người đã để lại cho đời nhiều câu chuyện huyền thoại”. Bác Đề nắm chặt tay tôi, lắc mạnh như người thân lâu ngày gặp lại và nói: “Có gì mà huyềnthoại đâu. Thực ra tôi là người đã để lại cho VKS nhiều phiền toái đấy chứ!”.
http://images.vietpress.vn/Images/Uploaded/Share/2012/12/17/15a22.jpg

http://images.vietpress.vn/Images/Uploaded/Share/2012/12/17/25123.jpg
TS Dương Thanh Biểu và bìa cuốn sách "Theo dòng công lý"
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thái Thanh Tâm

Bí quyết dạy con thành tài của người Do Thái

Chỉ hơn 13 triệu dân nhưng chiếm gần 40% tỷ lệ người đoạt giải Nobel, người Do Thái được xem là dân tộc thông minh nhất thế giới. Một trong những “bí quyết” là dạy con biết vượt khó, làm việc nhà, liên tục đặt câu hỏi… từ nhỏ.
Dạy con cách tiêu tiền từ tuổi lên 3
3 bí mật để dạy con ngoan
Những “bí quyết" này được chia sẻ trong hội thảo về phương pháp nuôi dạy con của các bà mẹ Do Thái, diễn ra tại Hà Nội sáng 30/6.

http://l.f13.img.vnecdn.net/2013/07/01/dothai-1372650188_500x0.jpg

Một bà mẹ Do Thái nuôi con tài năng. Ảnh minh họa: Guardian.co.uk.
Chuyên gia giáo dục Lại Thị Hải Lý, người đã trực tiếp đến Isarel - đất nước của người Do Thái - để tìm hiểu về phương pháp giáo dục trẻ tại đây cho biết, cách nuôi dạy con của các bà mẹ Do Thái khá đặc biệt. Họ dành cho con "tình yêu đống lửa" - tức là sự nhen nhóm, khích lệ chứ không phải chỉ là cảm giác an toàn, bao bọc kiểu "tình yêu tử cung" như phần lớn các bà mẹ Việt.

Bà mẹ nào trên thế giới cũng yêu con, nhưng cách yêu và thể hiện tình yêu khác nhau. Giữa "Tình yêu dòng nước mát" và "tình yêu dòng máu đào", người Israel quan niệm nước mát chỉ giải cơn khát nhất thời còn "dòng máu đào" là tình yêu con  phải nhìn xa trông rộng, đem lại lợi ích suốt đời cho con, đào tạo đứa trẻ trở thành bản lĩnh, thực sự mạnh mẽ trong đường đời.

Người mẹ Do Thái nói rằng “phụ huynh 100 điểm không bằng phụ huynh 80 điểm”. Có ba điều mà người mẹ không nên làm với con là: Không thỏa mãn trước; Không thỏa mãn tức thời; Không thỏa mãn quá mức yêu cầu của con.

"Cha mẹ ẩn giấu 20% tình yêu con để trở nên lý trí, khoa học, nghệ thuật trong cách dạy con. Ở Israel có những trường quý  tộc nhưng lại đào tạo và rèn luyện cho học sinh biết được khó khăn, thử thách. Có một chỉ số được các vị phụ huynh đánh giá cao ở trẻ là AQ - chỉ số vượt khó. Càng con nhà khá giả càng cần rèn luyện chỉ số này", bà Hải Lý chia sẻ.

Người Israel tự đưa ra công thức cho chỉ số vượt khó AQ của họ là: 20% IQ + 80% (AQ + EQ) = 100% thành công. (IQ:chỉ số thông minh, EQ: chỉ số cảm xúc). Họ tin rằng điểm số tốt nghĩa là trường học tốt, trường học tốt sẽ có tấm bằng đẹp, tấm bằng đẹp sẽ có công việc tốt, nhưng công việc tốt khác với người có sự nghiệp thành công.

Những bà mẹ Do Thái luôn nhớ một câu châm ngôn “Con lừa thồ sách”, ý  muốn gửi một thông điệp tới các con rằng: “Nếu chỉ đọc sách mà không ứng dụng nó trong cuộc sống thì cũng chỉ là trí tuệ chết mà thôi”.

Và vì thế, người Do Thái coi làm việc nhà là dạy trẻ cơ hội sinh tồn cơ bản. Theo một nghiên cứu của Tạp chí giáo dục Gia đình tại Israel thì tỷ lệ thất nghiệp của người không biết làm việc nhà cao hơn 15 lần người biết làm việc nhà, thu nhập bình quân của họ cũng thấp hơn 20% so với người thạo việc gia đình. Họ dạy con làm việc nhà từ nhỏ, tùy theo lứa tuổi, và thông hường, trẻ 2 tuổi đã có thể tự phục vụ bản thân.

“Người Do Thái có câu nói nổi tiếng là ‘bố mẹ đừng làm quản gia mà hãy làm quân sư cho con’ ý nói hãy chỉ hướng dẫn, tư vấn cho con, đừng quá bao bọc và làm thay con mọi việc. Tuyệt đối không rơi vào căn bệnh 421 (4 ông bà nội ngoại, 2 bố mẹ vây quanh 1 đứa trẻ) vì điều đó chẳng khác cha mẹ sẵn sàng là nô lệ của con và chỉ đầu độc con mà thôi”, bà Hải Lý chia sẻ.

Đồng quan điểm này, bà Meirav Eilon Shahar, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Israel tại Việt Nam cho rằng, trong thế giới đầy biến động hiện nay, việc giáo dục con luôn cần sự điều chỉnh và đầu tư lâu dài.

Theo bà, ở bất kỳ đâu trên thế giới, cha mẹ và giáo viên luôn là hình mẫu gần gũi của trẻ, vì thế có mối liên hệ tự nhiên, ý nghĩa giữa cha mẹ và con cái. Việc giáo dục trẻ ngày nay phức tạp hơn trước đây nhiều. Thế giới ngày nay thay đổi chóng mặt và người làm cha mẹ đôi khi không bắt kịp. Trẻ có thể tiếp cận với nhiều thông tin, có khi đi trước bố mẹ một bước, chúng ngày càng độc lập và phụ huynh không thể áp đặt, nhưng vẫn phải giữ vững vị trí là người đi đầu, hướng dẫn.

Bà cho rằng không một phương pháp giáo dục nào có thể áp dụng cho tất cả trẻ. Bản thân bà có 3 người con, con trai đầu 13 tuổi, con gái thứ hai 8 tuổi và cậu út 5 tuổi, và cũng không thể dạy các con giống nhau vì mỗi bé có một cá tính và khả năng nhận thức khác nhau.

Nhưng có một điều chung cần thực hiện là các con đều cần được tôn trọng. Bố mẹ khuyến khích trẻ đưa ra ý tưởng riêng, có thể ra ngoài những khuôn mẫu thông thường, thậm chí tranh luận với người lớn. Khuyến khích con đặt câu hỏi để giúp con luôn sáng tạo, linh động... "có lúc tôi cũng thấy hối hận khi không thể thoát ra quanh những câu hỏi bất tận của con", bà Shahar đùa vui. Bà cũng động viên con tham gia các hoạt động ngoại khóa để trẻ phát huy các thiên hướng và những sở trường của mình.

“Khen ngợi con cũng rất cần thiết, khi con được điểm cao, lúc con thể hiện là một người bạn tốt ở trường... Với trẻ, thất bại cũng quan trọng. Phải để trẻ thử điều mới, phải biết liều lĩnh, để trẻ hiểu rằng không phải mọi điều đều thành công. Khi con làm sai, không phán xét trẻ, để trẻ học hỏi từ thất bại của chính mình và tìm ra cách có thể làm khác vào lần sau”, bà nói.

Là một nhà ngoại giao, phải đi nhiệm kỳ ở nhiều nước khác nhau, các con của bà Meirav Eilon Shahar cũng gặp nhiều khó khăn khi phải liên tục thay đổi nơi sống và học tập, tìm cách thích nghi với môi trường mới, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Bà luôn dạy con tôn trọng người khác, sự khác biệt.

Đến Việt Nam 10 tháng trước, các con đều thấy mới lạ, bà không yêu cầu trẻ phải thích nghi ngay mà chỉ bảo các cháu giữ tư duy tích cực, để ý đến em út. Bé út 5 tuổi không nói được tiếng Anh nên gặp khó khăn khi đến trường, giao tiếp với bạn bè. Bà đã đặt ra một thử thách cho cậu con đầu trong việc giúp em, và cậu bé 13 tuổi đã tự nguyện đi cùng em lên xe bus, kiểm tra xem ở lớp em có làm được bài tập hay có vui chơi với các bạn không... và cháu đã  làm tốt hơn cả mẹ mong đợi. Sau việc này, cháu thể hiện trách nhiệm người anh hướng dẫn em chu đáo.

"Trẻ em ngoài nghĩa vụ còn có các quyền lợi: được tôn trọng, được thất bại, được có ý kiến. Nên đặt trách nhiệm cho con nhưng chỉ vừa sức vì trẻ con luôn cần được vui chơi. Bố mẹ tạo điều kiện tốt nhất cho con, ai cũng muốn con cái thành công nhưng chỉ là người tư vấn, khuyên bảo chứ không ép buộc", bà Shahar chia sẻ.

Vương Linh
Trên đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra-Thái Thanh Tâm
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 100 trang (1000 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [94] [95] [96] [97] [98] [99] [100] ›Trang sau »Trang cuối