8284.32
Thể thơ: Thơ mới bảy chữ
Thời kỳ: Hiện đại
22 bài trả lời: 6 thảo luận, 16 bình luận
119 người thích
Từ khoá: hành quân (11) chiến tranh (303) người lính (191) thơ phổ nhạc (636) thơ sách giáo khoa (667) Văn học 12 [1990-2006] (30) Ngữ văn 12 [2007-2020] (12)

Đăng bởi Vanachi vào 16/03/2005 10:39, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 14/03/2006 14:27

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

           *

Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

           *

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

           *

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.


Phù Lưu Chanh, 1948

Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến năm 1947 và hành quân lên Tây Bắc với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội nước bạn để bảo vệ vùng biên giới Việt Lào. Ban đầu, bài thơ được đặt tên là Nhớ Tây Tiến và đăng lần đầu trên Báo Quân Bạch Đằng của Liên khu III năm 1948, trên Báo Văn nghệ Việt Bắc năm 1949.

Bài thơ này được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006, SGK Ngữ văn 12 từ 2007, và đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

Bản ở đây cùng cả dấu câu và cách ngắt khổ được chép theo bản in trong tập Mây đầu ô.

[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 3 trang (22 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3]

Ảnh đại diện

Lục bát Tây Tiến

Anh đi Tây Tiến chiều hôm,
Mang về một ít vui buồn ngày xưa...

Hồn anh ở lại Sầm Nưa
Qua cơn lửa khói khéo vừa duyên em
Mai Châu ai đến mà xem
Khi mùa lúa chín có thèm nếp xôi.
Sài Khao mỏi gối chân rồi
Sương giăng Mường Lát đêm hơi mịt mù
Ngược dòng sông Mã hoang vu,
Anh đi Tây Tiến mùa thu chửa về...
Đường đi thăm thẳm, lê thê
Cồn mây heo hút, đường về xa xăm
Đẹp làm sao! Luông Pha-băng.
Mưa nguồn chớp bể, nhớ Trăng quê nhà.
Tiễn người đồng đội đi xa...
Oai linh anh vẫn hát ca núi rừng.

Hành quân gian khổ quá chừng
Đêm về sốt rét, cọp rừng cứ trêu.
Anh đâu mong ước chi nhiều
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thướt tha.
Hành quân nơi tỉnh Sơn La,
Mộc Châu đẹp lắm, em à. Biết không!
Cỏ lau chẳng có ai trồng,
Mặc cho nước lũ xuôi dòng cuốn đi...

Anh nào mơ mộng điều chi
Nghe tin thắng trận là khi anh về
Nếu mà...có lỡ lời thề,
Phiền em thăm hỏi bạn bè của anh.
Mã giang vang khúc độc hành,
Áo bào thay chiếu, tóc xanh thay màu.
Viên Chăn, Mường Hịch ngày sau
Có còn nhớ những đêm thâu anh ngồi.

Chuyện xưa tưởng lãng quên rồi
Có người đưa tiễn một người ra đi...


Tiểu Bạch Lộ
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Xem bút tích Quang Dũng nói thêm về “Tây Tiến”

Lúc đầu bài thơ này được tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến, đến khi in lần đầu tiên ở tập Mây đầu ô [1] mới được đổi thành Tây Tiến. Nhiều tài liệu đều xác định Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947 nhằm phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào, hoạt động tại Hoà Bình, Sơn La, Thanh Hoá, Sầm Nưa (Lào). Nhan đề Nhớ Tây Tiến có lý do của nó, vì bài thơ được sáng tác vào năm 1948 khi Quang Dũng đã không còn ở đơn vị cũ (Tây Tiến), chuyển đến đơn vị mới tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây). Tình cờ, tôi đọc được bài thơ này qua bút tích của chính tác giả Quang Dũng chép trong một cuốn sổ tay cũ của cha tôi - nhà thơ Hải Bằng; (Cuốn sổ tay ấy còn có nhiều bút tích của các tác giả khác như Phùng Quán, Phạm Khoa Văn, Phạm Tiến Duật, Vương Trọng, Cảnh Trà, Thanh Hải, v.v). Ở bản bút tích của Quang Dũng, bài thơ có nhan đề là Nhớ Tây Tiến - 1947 [2].

Xưa nay, chúng ta đều tiếp nhận bài thơ theo nội dung ở bản in lần đầu như đã nói, ở các công trình nghiên cứu được xuất bản. Từ năm 1990 bài thơ này đã được đưa chương trình giáo dục. Hiện nay, học sinh lớp 12 học và phân tích ngữ văn bài thơ này trong sách Ngữ văn [3].

Tất cả các bản in lại bài thơ dường như đều có một sự thống nhất chung về câu cú, từ ngữ, chính tả, không có sự khác biệt nào. Tuy vậy, ở bản chép tay này có một số chi tiết khác biệt so với các bản in đó. Một số chi tiết khác biệt ấy cũng không có gì để bàn luận vì so với bản bút tích, các bản in ấy đã thể hiện một quy tắc chuẩn chính tả mà thôi. Ví như “Anh bạn rãi rầu” (bản bút tích) thành “Anh bạn dãi dầu” (bản in); “Nàng E ấp” thành “nàng e ấp”, “Nhạc về Viên Chiên” thành “Nhạc về Viên Chăn”, v.v.

Điều đáng nói là giữa hai bản này có 03 chữ khác biệt rất quan trọng vì liên quan đến ngữ nghĩa câu thơ và ý tứ tác giả. Dưới đây là so sánh và phân tích qua các câu có từ khác biệt:

- Khác biệt 1: “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi” (bản bút tích) sẽ hoàn toàn khác với “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” (bản in). Ở đây có sự khác biệt giữa “trêu ngươi” và “trêu người”.

Dẫn lại dòng thơ: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi”. Dòng thơ miêu tả cảnh núi rừng hùng vĩ, uy linh của đại ngàn gắn với không gian và thời gian tâm trạng của con người. Theo bản in là “cọp trêu người” (đùa giỡn với người) là có gì đó chưa đúng. Cọp vốn dĩ hung dữ, là nỗi kinh sợ của con người và đại ngàn. Hơn nữa, trên thực tế làm gì có chuyện cọp trêu đùa với người, mà chỉ có thể trở thành nỗi khiếp đảm kinh hoàng của con người mà thôi. Trong khi đó, bản bút tích là “cọp trêu ngươi” (khiêu khích chọc tức), do đó, “trêu ngươi” ở đây hợp lý không chỉ về ngữ nghĩa mà còn hợp lý về cả thanh điệu câu thơ.

- Khác biệt 2: “Mai Châu mùa em thơm nếp sôi” (bản bút tích) sẽ hoàn toàn khác với “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” (bản in). Ở đây có sự khác biệt giữa “sôi” và “xôi”.

Dẫn lại dòng thơ: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói / Mai Châu mùa em thơm nếp sôi”. Rõ ràng ở bản bút tích chữ “sôi” là hợp với tình ý với mạch câu thơ hơn là “xôi”. “Thơm nếp sôi” sẽ bắt cùng hình ảnh trên là “cơm lên khói”. Sôi là vừa một động từ vừa là một tính từ chỉ trạng thái (đang sôi lên) mới khiến dậy lên được cái mùi nồng nàn của “thơm nếp”. Còn “thơm nếp xôi” thì “xôi” là một danh từ, vô hình trung tạo nên nét dư không cần thiết trong thơ. Tập quán định danh sự vật ở đây thường có các cách gọi: cơm nếp, hoặc xôi mà thôi. Chữ “sôi” trong ngữ cảnh này, Quang Dũng sử dụng là đúng như nghĩa của nó, không phải nhầm lẫn về ngữ âm kiểu dãi dầu - rãi rầu (trong bài) hay kiểu trăng - giăng, nhảy nhót - nhẩy nhót, v.v. trong tập quán chính tả của phương ngữ Bắc bộ. Hơn nữa, trên thực tế, tập quán chính tả của người miền Bắc chỉ có thể nhầm từ sum họp thành xum họp, chia sẻ thành chia xẻ khi viết, nghĩa là /s/ bị nhầm thành /x/, không có trường hợp ngược lại (/x/ bị nhầm thành /s/). Do đó, thơm nếp sôi, trong đó “sôi” là một động từ và là tính từ với một hiển ngôn rõ ràng của Quang Dũng hướng đến.

Do vậy, cả 4 dòng thơ trên thiết tưởng cũng cần đính chính lại để diễn trúng ý của tác giả và tình ý của bài thơ:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi (không phải người)
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp sôi (không phải xôi)
- Khác biệt 3: “Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm” (bản bút tích) sẽ hoàn toàn khác với “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” (bản in). Ở đây có sự khác biệt giữa Kiều viết hoa và kiều không viết hoa.

Dẫn lại dòng thơ: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”. Ở đây, bản bút tích Quang Dũng đã ghi một chữ “Kiều” viết hoa. Mà sau đó, trong bản in vì chữ kiều được nhận thức là không viết hoa nên sách giáo khoa đã giải thích như sau: “Dáng kiều thơm: dáng vẻ xinh đẹp, đáng yêu của người con gái” [4]. Rõ ràng sự khác biệt giữa Kiều viết hoa và kiều không viết hoa đã khiến ngữ nghĩa câu thơ khác biệt hoàn toàn.

https://www.thivien.net/attachment/XQNv83F1eOxRChpZHK3oVQ.1690878375.jpg

Tây Tiến là một đơn vị quân đội với thành phần chủ yếu là thanh niên, sinh viên, học sinh Hà Nội. Chiến đấu xa nhà, trong muôn ngàn gian khổ, nhất là trong cơn sốt rét dày vò đến nỗi da “xanh màu lá” ấy vẫn kiêu bạt, phóng mắt từ bên kia biên giới Lào để “trừng gửi mộng” về một Hà Nội hào hoa; để mơ một “dáng Kiều thơm” hư tan trong ký ức. Đó là một nàng Kiều bước ra từ sách vở, một giai nhân qua chữ nghĩa, một hư ảnh đẹp đẽ của thuở thiếu thời, một mộng tưởng dậy thì đằm sâu, chợt gợi thức từ chiêm cảm. Vậy nên, “dáng Kiều thơm” đó là chỉ hiện thân của cái đẹp tượng trưng, chỉ gọi tên mà không định được danh5 mà thôi. Đó chính là sự lãng mạn “tìm quên” để nguôi ngoai khốn khó, nguôi ngoai bệnh tật dày vò từ cảnh huống. Lại nữa, cái gọi là thơm trong “dáng Kiều thơm” không còn là mùi vị được cảm nhận qua khứu giác mà đó là dư vị từ cảm thức của tri giác, dư hương được rút ra từ câu chữ: Cảo thơm lần dở trước đèn chăng? Vậy nên chỉ một chữ Kiều viết hoa mà tình ý thi ca đã cách biệt nhường nào!

Đọc và cảm nhận Tây Tiến không khó để nhận ra ảnh tượng chinh nhân, tha hương bước từ huyền thoại. Không khí cổ trang được gợi nhắc toàn bộ bài thơ “gập ghềnh, khúc khuỷu, heo hút” theo mạch cảm xúc. Sự kết dính thấy được của hàng loạt từ ngữ do thi sĩ cố ý dựng lên để thành huyền thoại: hội đuốc hoa - xiêm áo - nàng - chiều sương - hồn lau - đoàn binh - dữ oai hùm - gửi mộng - dáng Kiều - mồ viễn xứ - áo bào - hen ước, v.v. Đó là sự trải nghiệm chữ nghĩa thuở đèn sách, phải chăng trải nghiệm đó bắt nguồn hình ảnh chinh nhân?
Những người chinh chiến bấy lâu
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây;

Ngập ngừng gió thổi áo bào,
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông;

Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca, v.v.
(Chinh phụ ngâm)
Hình ảnh “Mồ viễn xứ” nói tỉnh như không trong Tây Tiến khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh “Nhẹ xem tính mệnh” trong Chinh phụ ngâm; hình ảnh “Áo bào thay chiếu” khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh “Gió thổi áo bào”; hình ảnh “Người đi không hẹn ước” khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh “Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca”. Dường như đó là sự đồng vọng của cảm thức. Rõ ràng, từ ngữ đó gần gũi, dan díu với cảm thức thẩm mỹ trung đại bắt rễ từ những “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc đao cung” (Chinh phụ ngâm) đồng vọng bóng chinh nhân.

Vẻ đẹp của bài thơ rốt cục là cái tình thật của người lính, lãng mạn trước hiện thực khắc nghiệt, chất chứa khúc tráng ca từ ký ức chợt phút chốc dậy lên, xô lệch cả không gian và thời gian tuyến tính.

Hy vọng, những chữ khác biệt và phân tích trên sẽ được người yêu thơ, đặc biệt là các nhà soạn sách giáo khoa quan tâm để nếu có thể “đính chính” lại văn bản bài thơ Tây Tiến, góp phần minh định nội dung tác phẩm.


Huế, vào hạ 2021
Nguyễn Phước Hải Trung

1. Quang Dũng, Mây đầu ô, tập thơ, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986.
2. Ngoài bài Nhớ Tây Tiến - 1947, trong cuốn sổ này Quang Dũng còn có chép bài Trưa hè đề năm sáng tác là 1960.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 12, tập một, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 87-89.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 12, sách đã dẫn, tr.88.
5. Cũng có thể định được danh ở đây. Trong bài viết “Con gái nhà thơ Quang Dũng và những hồi ức về cha” đăng trên Tiền phong (27/02/2017), có đoạn nói rằng chữ Kiều trong bài Tây Tiến chính là “mượn” từ tên nghệ sĩ diễn kịch Giáng Kiều (tên thật là Kiều Dinh), một trong 4 chị em đẹp nhất ở phố Hàng Bông (Hà Nội) vào những năm 1940.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
15.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Trang trong tổng số 3 trang (22 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3]