“… Vậy thì rốt cuộc, bài thơ Lính mà em là của ai? Của nhà thơ Phạm Tiến Duật mà người lính Cộng hoà nào đó vô tình “nhặt được” bản thảo rơi trên đường hành quân…?“

Sau khi Phạm Tiến Duật qua đời, tình cờ, một lần vào trang web nguyenkhacphuc.com, tôi thấy nhà văn Nguyễn Khắc Phục cho đăng bài thơ Lính mà em của nhà thơ quá cố. Bài thơ đã gây ấn tượng mạnh trong tôi bởi yếu tố lãng mạn trữ tình được thể hiện qua những dòng cảm xúc thật chân thành của một người lính trong cuộc chiến đang ở vào thời kỳ vô cùng khốc liệt. Xét về mặt thi pháp, Lính mà em thuộc một “kênh” khác hẳn với những gì trước đó Phạm Tiến Duật đã viết. Nó thuộc vào “phần chìm” của tư tưởng nghệ thuật, thoát ra khỏi những ràng buộc của hệ ý thức, khẳng định tư cách cá nhân của người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo. Với bài thơ này, tất nhiên, lúc ấy, tốt nhất là nên cất dưới đáy ba lô, còn nếu dại dột mà hở ra thì cái “vạ” có khi còn “đậm” hơn cả “Vòng trắng” sau này.

Đang định viết vài dòng bình thi phẩm lãng mạn khá hiếm hoi thời chiến chinh này gửi vào trannhuong.com để tưởng nhớ hương hồn nhà thơ Trường Sơn thì tôi lại đọc được một tư liệu khá bất ngờ trên Blog abba.abba.abba của ông bạn Lưu Đình Tuân [*] về bài thơ trên.

Lưu Đình Tuân có một người anh họ là Vũ Quốc Chấm. Đầu năm 1975, Đà Nẵng thất thủ, ông Chấm khi ấy thuộc quân Giải phóng, nhân lúc lộn xộn ở phi trường, có lượm được cuốn sổ tay của người lính Việt nam cộng hoà nào đó để lại, trong đó chép bài thơ Lính mà em. Chuyện ấy cũng là lẽ thường, miễn bàn luận nếu không có một cô bé phát hiện ra, trong sổ tay chị gái mình cũng có bài thơ giống hệt như thế (chỉ khác vài ba chữ) mà tác giả lại là... một người lính Sài gòn. Chuyện thực hư như thế nào, mời bạn đọc đọc những dòng dưới đây, trích từ Blog abba.abba.abba của Lưu Đình Tuân:

…Riêng bài thứ ba dưới đây, anh Chấm nói với tôi đại khái: “Cái bọn lính Nguỵ chúng nó cũng thích thơ chú ạ. Năm 75, lúc vào sân bay Đà Nẵng, giấy tờ ngổn ngang, anh vớ được quyển sổ tay, chép nhiều bài thơ hay ra phết, bài này anh nhớ nhất, anh đọc chú nghe; ấy, cái thời nào nó phải theo thời ấy, chú ạ; nó là bài thơ của người em gái động viên cái bọn lính tiền tuyến ấy mà! Bài ấy như thế này:

Lính mà em

Em trách anh sao gửi thư chậm thế,
Em đợi hoài sẽ giận cho xem.
Biên thư cho em bao giờ anh muốn thế,
Hành quân đường dài đấy chứ.
Lính mà em!
Anh gửi cho em mấy cành hoa dại,
Để làm quà, không về được em ơi,
Không dạo mát nửa đêm cùng em được,
Thôi đừng buồn em nhé.
Lính mà em!
Hẹn nghỉ phép, anh cùng em dạo phố,
Tay chiến binh đan đầu ngón tay mềm,
Em xót xa đời anh nhiều đau khổ,
Anh chỉ cười và nói:
Lính mà em!
Qua xóm nhỏ anh ghi dòng lưu niệm,
Trời mưa hai đứa đứng bên thềm,
Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím,
Anh quen rồi, không lạnh.
Lính mà em!
Anh kể chuyện hành quân và gối súng,
Trăng đêm đầu không đủ viết thư đâu,
Biên thư cho em nét nhoè như vụng.
Hiểu giùm anh, em nhé!
Lính mà em.
Ghét anh ghê, chỉ có tài biện luận,
Làm người ta thêm nhớ thương nhiều.
Em xa lánh những ngày vui trên phố,
Để nhớ người hay nói
“Lính mà em”.

Sân bay Đà Nẵng 1975
Vũ Quốc Chấm (sưu tầm)

Đương nhiên các dấu chấm, phẩy do mình ghi thêm vào (ông Hải, ông Côn, ông Báu, xem lại hộ) và từ em ban đầu nay mình sửa lại là anh.

Trở lại bài thơ, cái li kì của bài thơ này không phải là ở chỗ “người em” của Thôi Hộ không biết bây giờ đi đâu, mà ở chỗ nó ngược lên nữa mình chắp nối lại theo kỹ thuật “truyện trinh thám An Nam” như sau:

Nhà thơ Phạm Tiến Duật, khi ở Trường Sơn, làm bài thơ này nhưng giấu đơn vị vì nội dung uỷ mị quá, không có lợi cho cách mạng. Nhưng có lẽ tiếc chiếc “áo gấm đi đêm” nên Phạm Tiến Duật đã ghi chép lại mà không đề tên tác giả, để anh em đồng đội tự lưu truyền.

Thế rồi, ngẫu nhiên của thời thế, hay vì lí do nào đó, bài thơ ghi chép trong một sỗ tay bộ đội tình cờ qua tay một anh lính trẻ cộng hoà, để rồi, khi tháo chạy/chết, quyển sổ tay rơi vào tay ông anh Chấm mình. Và cuối cùng, khi nhà thơ Phạm Tiến Duật chết rồi, nhà văn Nguyễn Khắc Phục mới công bố nó trên trang web của mình, mà 27-12-2007 mình tình cờ vào được, nay copy lại như sau:

LÍNH MÀ EM
Phạm Tiến Duật

Em trách Anh gửi thư sao chậm trễ
Em đợi hoài em sẽ giận cho xem
Thư Anh viết bao giờ Anh muốn thế
Hành quân hoài đấy chứ,
Lính mà em!
Anh gửi cho Em mấy nhành hoa dại
Để làm quà không về được em ơi
Không dự lễ Nô- En cùng em được
Thôi đừng buồn em nhé,
Lính mà em!
Ngày nghỉ phép Anh cùng Em dạo phố
Tay chiến binh đan năm ngón tay mềm
Em xót xa đời anh nhiều gian khổ
Anh mỉm cười rồi nói,
Lính mà em!
Qua xóm nhỏ anh ghi dòng lưu niệm
Trời mưa to, hai đứa nép bên thềm
Anh che em khỏi ướt tà áo tím
Anh quen rồi không lạnh,
Lính mà em!
Anh kể em nghe chuyện trong này
Trăng đầu mùa không đủ viết thư đâu
Thư Anh viết chữ mờ nét vụng
Hãy hiểu dùm Anh nhé,
Lính mà em!
Ghét Anh ghê chỉ được tài biện hộ
Làm cho người ta thêm nhớ thương
Em xa lánh những ngày vui trên phố
Để nhớ người hay nói,
Lính mà em!

Như vậy là ông Duật cho tới lúc chết vẫn là thằng cáy và ông Phục là thằng tốt với bạn bè, chẳng quản đến thân.

Nhưng khoan, vẫn chưa hết truyện li kì.

Khi mình đang vào trang nguyenkhacphuc.com – canhcualieutrai@yahoo.com.vn, gọi cô phụ trách máy tới xem để in ra. Cô này liếc qua, nói “Ơ bác cũng thích thơ à?” – “Ừ, thế mày có thích không? Xem đi!”. Cô bé chăm chú một lúc, rồi nói: “Ơ, cháu cũng biết bài này, à không, nó có mấy chỗ khang khác. Giống cái bài trong sổ thơ của chị cháu. Để cháu về xem lại”.
Vậy thì rốt cuộc, bài thơ Lính mà em là của ai? Của nhà thơ Phạm Tiến Duật mà người lính Cộng hoà nào đó vô tình “nhặt được” bản thảo rơi trên đường hành quân, chép vào sổ tay rồi đến khi thành phố thất thủ, anh ta “bỏ của chạy lấy người” di tản (hoặc tử thương) tại phi trường, hay là ngược lại? Rất mong có sự minh định từ những người lính của cả hai bên đã từng tham gia cuộc chiến và bạn đọc trong và ngoài nước yêu mến văn chương.[**]

11/01/2008, Xuân Mậu Tý
Đặng Văn Sinh

[*] Lưu Đình Tuân, vốn là giáo viên giảng dạy môn toán PTTH, đa tài, giỏi tiếng Pháp, tiếng Bồ, viết thư pháp chữ Hán có hạng, đã từng làm chuyên gia giáo dục Phi châu, dịch nhiều sách của Viễn Đông bác cổ sang tiếng Việt. Là một tay giang hồ lãng tử, Họ Lưu (Chắc không phải là hậu duệ Lưu Bị) đã nhiều lần “du hành” xuyên Việt bằng con xe “bố già” long song sọc, chiếc laptop và chiếc máy ảnh “lười” kỹ thuật số...).

[**] “Trường phái nhạc vàng” ở trong Nam cũng có một bài hát nhan đề Lính mà em, lời ca hao hao giống lời thơ này. Bài hát khá phổ biến từ khoảng đầu những năm 1970, và không phải là từ Đà Nẵng, năm 1975. Có lẽ đây là thời gian ông Chẩm sưu tầm được mà thôi.(PĐ)

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]