Kính chúc tân niên lão thượng tuần, Càn khôn tứ tuế vạn kim ngân. Băng tâm nhất phiến ma thi tứ, Thanh phát sổ ti nhiễm bạch vân Huy bút mộ hiền khai hội quán Hạ từ chiêu sĩ ngộ văn nhân Cổ hy thất thập, kim đa điệt, Bất giảm uy nghi hạnh hữu quân Trần Thế Hào cung hạ
Dịch nghĩa:
Chúc thọ Thi huynh Phương Nam
Năm mới kính chúc Bác thêm tuần nữa, Trời đất ban mỗi tuổi, ta như được vạn vàng. Một tấm lòng son càng mài giũa tứ thơ, Tóc đen đã có mấy sợi nhuộm màu mây trắng. Vung bút lên gọi người hiền mở quán thơ, Hạ giọng mời người tài giỏi gặp người tao nhã. Người thọ 70 xưa thì hiếm, nay càng có nhiều hơn, Nhưng may là dáng uy nghi của Bác không hề giảm.
Hà Như Trần Thế Hào cung chúc.
Phần dịch thơ xin mời nhường các thi huynh, thi hữu chứ không dám qua mặt. Có gì không phải xin đại xá
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng Để làm gì em biết không ? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi...”(Trịnh Công Sơn)
-Chào HN, Chào Haanh bức tranh HA bố cục rất tuyệt-mê ly.Nhưng hơi tiếc nếu bài thơ chữ Hán mà dịch ra thơ bát cú thì càng tuyệt hơn.(Mong HA đáp ứng nhé). Chúc vui vẻ 12.5 PN
Trang 1 BÀI ĐỐI SÁCH VĂN CỦA NGUYỄN TRỰC Với bạn đọc. Sau khi giới thiệu toàn bộ ĐẠI BẢO TAM NIÊN NHÂM TUẤT KHOA TIẾN SĨ ĐỀ DANH KÝ đã đăng trên Tạp chí Dạy và học ngày nay, số Tết Tân Mão, Tháng 1-2011 với Thi viện, Hà Như tôi có nhận được nhiều yêu cầu cho biết bản Đối sách văn của Nguyễn Trực. Phần dịch nghĩa Hà Như đã đăng trên các trang trước. Nay, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số Tháng 5-2011 tiếp tục đăng nguyên bản Bài Đối sách văn của Nguyễn Trực, Bài thi đã đưa Nguyễn Trực lên ngôi vị Trạng nguyên trong kỳ thi đình năm Đại bảo năm thứ ba (1442) đó, mà Nguyễn Trãi là 1 trong 4 Quan độc quyển chấm bài, để tấu trình Nhà vua định thứ bậc. Được sự đồng ý của Tạp chí, Hà Như tôi đã chỉnh lý tài liệu, bố cục nhỏ phù hợp với trang Web, trình bày Hán Việt đối chiếu, thêm phần giải nghĩa, để chia sẻ với bạn đọc trên Thi viện. Mong Ban Điều hành châm chước cho tạm để trong topic này, sau khi hoàn thiện và có điều kiện sẽ chuyển về vị trí thích hợp. Bạn đọc sử dụng lại toàn bộ hay một phần tài liệu Đối sách văn của Nguyễn Trực, xin hãy ghi nguồn trích dẫn: Bài đăng trên Tạp chí Dạy và học ngày nay, Số Tháng 5-2011. LỜI GIỚI THIỆU
Nguyễn Trực (1417- 1474) tự Công Dĩnh hiệu Hu Liêu, người xã Bối khê, huyện Thanh oai, Phủ ứng Thiên, (nay thuộc xã Tam Hưng, huyện Thanh oai, Hà Tây), đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tuất, năm Đại Bảo thứ ba (1442) đời vua Lê Thái Tông.
Bài Đối sách này, ông làm trong kỳ thi đình năm đó, còn có tên là "Vị trị, tất dĩ đắc nhân vi bản" (Để nước được thịnh trị, tất phải lấy việc dùng người hiền tài làm gốc), một luận văn xuất sắc, nói về “tiến cử bậc quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân”.
Câu lạc bộ Thơ Hán Việt Pháp thực hiện: Bản phiên âm của Đỗ Quang Liên, theo bản chữ Hán chép tay từ “Bối khê Trạng nguyên gia phả”; Ký hiệu: A 1046, Thư viện Bác cổ (Bibliothèque école Francaise d’ Extreme Orient). Bản dịch nghĩa của Hoàng Hưng (Bút danh của Tiến sĩ Hán Nôm Hoàng Văn Lâu, đã mất). Trần Thế Hào chế bản chữ Hán. Trong khi biên soạn, không tránh khỏi sai sót, mong được Bạn đọc thông cảm và góp ý cho CLB Thơ Hán Việt Pháp để kịp thời bổ sung, sửa chữa.
Vấn sách của vua Lê Thái Tông. 題 目: “朕 惟 為 治 必 得 人 為 本 . 唐 虞 之 際, 人 才 為 盛, 然 所 命 之 臣 , 四 岳 , 九 官 , 十 二 牧 之 外 , 別 無 聞 焉 , 何 人 才 之 難 得 也 . 以 帝 堯 知 人 之 明 , 而 在 朝 猶 有 四 凶 , 何 小 人 之 難 知 也 . Đề mục: Trẫm duy vi trị tất dĩ đắc nhân vi bản. Đường Ngu chi tế, nhân tài vi thịnh, nhiên sở mệnh chi thần, Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục chi ngoại, biệt vô văn yên, hà nhân tài chi nan đắc dã? Dĩ Đế Nghiêu tri nhân chi minh, nhi tại triều do hữu Tứ hung, hà tiểu nhân chi nan tri dã ?
Đề mục ( Vấn sách của vua Lê Thái Tông) “ Trẫm nghĩ : Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời Đường Ngu (1), nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, ngoài Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục (2) ra, không thấy còn ai nữa; sao nhân tài khó tìm vậy ! 以 帝 堯 知 人 之 明 , 而 在 朝 猶 有 四 凶 , 何 小 人 之 難 知 也 . 洚 水 之 害, 懷 山 襄 陵 , 當 日 之 民 受 害 不 少, 鯀 之 治 水 至 於 九 年 , 則 為 民 之 害 為 何 如 , 何 去 小 人 之 不 早. Dĩ Đế Nghiêu tri nhân chi minh, nhi tại triều do hữu Tứ hung, hà tiểu nhân chi nan tri dã ? Giáng thủy chi hại, Hoài sơn tương lăng, đương nhật chi dân thụ hại bất thiểu, Cổn chi trị thủy chí ư cửu niên, tắc vi dân chi hại vi hà như, hà khử tiểu nhân chi bất tảo ?
Đến Đế Nghiêu sáng suốt hiểu người là thế, mà trong triều vẫn có lũ Tứ hung (3). Sao tiểu nhân khó biết vậy ! Cái nạn Giáng thủy (4), cái họa Hoài sơn (4), dân chúng thời ấy, tai vạ thực không ít. Cổn (5) trị thủy đến 9 năm, gây biết bao tai họa cho dân ; sao trừ bỏ tiểu nhân muộn vậy ! 周 之 世 , 詩 稱 濟 濟 吉 士 , 文 王 以 寧.至 武 王 之 世 , 只 稱 十 亂 , 謂 之 才 難 , 豈 不 其 然 乎 . 管 蔡 之 流 言, 周 公 之 狼 跋. 王 室 幾 乎 岌 岌 , 何 憸 小 之 人, 無 代 無 之 . Chu chi thế, Thi xưng tế tế cát sĩ, Văn Vương dĩ ninh. Chí Vũ Vương chi thế chỉ xưng Thập loạn , vị chi tài nan, khởi bất kỳ nhiên hồ ? Quản, Sái chi lưu ngôn, Chu Công chi lang bạt, Vương thất cơ hồ ngập ngập, hà hiểm tiểu chi nhân, vô đại vô chi ? Đời Chu (6) được Kinh Thi (7) ca ngợi là “kẻ sĩ đông đúc”, Văn Vương (8) dựa vào họ mà dẹp yên đất nước. Nhưng đến thời Vũ Vương (8), chỉ còn thấy nhắc tới Thập loạn (9). Như vậy, bảo là nhân tài khó kiếm, há chẳng đúng sao ? Quản Thúc, Sái Thúc (10) phao tin đồn nhảm, khiến Chu Công phải lận đận (10), Vương thất suýt sụp đổ (12) ; sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời đại nào là không có chúng ! 我 太 祖 高 皇 帝 之 得 天 下 , 屢 下 求 賢 之 詔 , 竟 無 一 人 應 選 . 扞 巧 之 徒 潛 蓄 奸 心 . 朕 即 位 以 来 , 勵 精 求 治 , 而 得 人 之 效 , 茫 若 望 洋 . 銀 察 之 徒 懷 奸 稔 惡 , 何 君 子 之 得 難, 小 人 之 難 知 也 ? 諸 子 其 悉 心 以 對 , 朕 將 親 覽 焉 ” Ngã Thái Tổ Cao Hoàng đế chi đắc thiên hạ, lũ hạ cầu hiền chi chiếu, cánh vô nhất nhân ứng tuyển. Hãn, Xảo chi đồ tiềm súc gian tâm. Trẫm tức vị dĩ lai, lệ tinh cầu trị, nhi đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng dương. Ngân, Sát chi đồ hoài gian nẫm ác, hà quân tử chi đắc nan , tiểu nhân chi nan tri dã ? Chư tử kỳ tất tâm dĩ đối, Trẫm tương thân lãm yên ”
Đức Thái Tổ Cao Hoàng đế (12) ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển. Trong khi ấy thì bọn Hãn, Xảo (13) ngầm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay ; gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mờ thăm thẳm ; bọn Ngân, bọn Sát (14) lại gian ngoan chứa ác. Sao người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy ? Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, Trẫm sẽ đích thân xem xét. ”
Theo sách Chu quan, Sách là những lời của vua phát ra, như Sách mệnh, Điển sách... Từ đời Hán trở đi, mới lấy bài văn sách để thi học trò. Có hai thể văn sách: a) Chế sách : Vua hỏi về nguồn gốc trị loạn xưa nay và điều hay điều dở của chính sự đương thời. Học trò theo hiểu biết của mình, trả lời, gọi là Đối sách. b) Thí sách : Vua hoặc quan thay mặt vua ra đầu bài hỏi về nghĩa lý của các sách Kinh điển đạo Nho. Người làm vận dụng điều học được, trả lời, gọi là Xạ sách. Chế độ thi cử của Việt nam thời phong kiến thường tương tự như của Trung quốc. Xin lưu ý: Vấn sách này đề cập đến 3 vấn đề: - Sao nhân tài khó tìm vậy ? - Sao tiểu nhân khó biết vậy ? - Sao trừ bỏ tiểu nhân muộn vậy ? Xin đọc kỹ bài Đối sách của Nguyễn Trực, không những trả lời chu đáo 3 vấn đề trên, ông còn đề cập đến: Vị trí của người quân tử và Làm thế nào để giữ được người quân tử.
(1) Đường Ngu: Tức Đế Nghiêu (họ Đường) và Đế Thuấn (họ Ngu) hai vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại. (2) Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục: tên gọi các quan thời Nghiêu Thuấn. (3) Tứ hung: 4 tên quan hung ác thời Đế Nghiêu là Hồn Đôn, Cùng Kỳ, Đào Ngột và Thao Thiết. (4) Nạn Giáng thủy, họa Hoài sơn: chỉ hai nạn lụt lớn xảy ra thời Nghiêu Thuấn. (5) Cổn: Người được vua Nghiêu sai đi trị thủy, nhưng không được việc, còn gây tai họa, sau, bị vua Thuấn, người kế tục, bắt tội. Cổn có người con là Vũ. Vũ có tài trị nước, được vua Thuấn truyền ngôi (truyền hiền). (6) Đời Chu: Triều đại dài nhất, gần 800 năm, của Trung quốc, bắt đầu từ Vũ vương - Cơ Phát. (7) Thi: tức Kinh Thi: bộ sách do Khổng Tử tuyển từ các bài thơ sưu tầm trong dân gian. Xin xem trong Thi viện: http://www.thivien.net/vi...ID=Ghtg3UHpaIYXCkHiqunT7w
(8) Văn Vương, tức Chu Văn Vương (1090 TCN – 1050 TCN), họ Cơ, tên Xương, người đất U (nay thuộc ấp Tuần, huyện Bân, tỉnh Thiểm Tây) người xây nền móng triều đại nhà Chu, Trung Quốc. Vũ Vương: họ Cơ tên Phát, con của Văn vương - Cơ Xương, là người đã giết Trụ, lật đổ ách thống trị của triều Ân Thương, vị vua đầu tiên của nhà Chu. (9) Thập loạn: 10 người bề tôi giỏi, dẹp loạn yên dân (10) Chu Công, tên là Đán: con Chu Văn Vương, giúp Vũ Vương đánh Trụ. Vũ Vương chết, Thành Vương còn nhỏ, Chu Công nhiếp chính. Quản Thúc, Sái Thúc (tức Quản Thúc Tiên và Sái Thúc Độ), hai em của Vũ vương, âm mưu làm phản Thành Vương, nhưng lại phao tin là Chu Công định cướp ngôi vua, làm Chu Công phải “lận đận” lánh ra ở Đông Đô. Chữ “lận đận” do điển “Lang bạt kỳ hồ”, xin xem bài Lang bạt 1 và 2 trong Kinh thi, Bân phong có trên Thi viện. http://www.thivien.net/vi...ID=--47YegzrbA6Tz7P9nkc1A
(11) Thái Tổ Cao Hoàng đế: tức Lê Lợi (12) Hãn là Trần Nguyên Hãn, Xảo là Phạm Văn Xảo, là hai công thần khai quốc của Lê Lợi. Về sau, hai ông bị kết tội là ngầm kết bè đảng, làm phản, đều bị hại chết. (13) Ngân là Lê Ngân, Sát là Lê Sát, là hai võ tướng có nhiều công lao giúp Lê Lợi trong Khởi nghĩa Lam sơn và chiến thắng giặc Minh. Đến đời Thái Tông, hai ông bị kết tội là chuyên quyền, ngầm mưu làm phản và đều bị giết.
Trang 2 BÀI ĐỐI SÁCH VĂN CỦA NGUYỄN TRỰC 臣 對: 臣 聞; 聖 人 為 治, 雖 有 古 今 之 異 , 聖 人 之 心, 則 無 古 今 之 殊 . 蓋 進 君 子, 退 小 人, 聖 人 為 治 之 本 心 也 . 若 君 子 退 小 人 進, 豈 聖 人 之 所 欲 哉 . 觀 唐 愚 之 世, 惇 德 允 元 而 難 任 人, 建 官 惟 賢, 位 事 惟 能, 與 我 朝 求 賢 用 人 之 意, 皆 所 以 用 君 子 而 去 小 人 也 . 皇 上 纘 承 丕 緒, 制 治 保 邦, 宵衣 求 賢 以 輔 成 大業, 而 又 設 科 求士, 大 開 賢 路, 進 臣 等 于 庭, 策 以 為 治 之 要 與 君 子 小 人 為 問. 顧 臣 愚 昧 何 敢 上揆 淵 衷, 然 既 叨 奉 明 照, 敢 不 精 白 一 心 以 對 揚 天 子 之 休 命 乎 . Thần đối : Thần văn; Thánh nhân vi trị, tuy hữu cổ kim chi dị, Thánh nhân chi tâm, tắc vô cổ kim chi thù. Cái tiến quân tử, thoái tiểu nhân, Thánh nhân vi trị chi bản tâm dã. Nhược quân tử thoái nhi tiểu nhân tiến, khởi Thánh nhân chi sở dục tai. Quan Đường Ngu chi thế, thuần đức doãn nguyên nhi nan nhiệm nhân, kiến quan duy hiền, vị sự duy năng, dữ ngã triều cầu hiền dụng nhân chi ý, giai sở dĩ dụng quân tử nhi khử tiểu nhân dã. Hoàng thượng toản thừa phi tự, chế trị bảo bang, tiêu y cầu hiền dĩ phụ thành đại nghiệp, nhi hựu thiết khoa cầu sĩ, đại khai hiền lộ, tiến thần đẳng vu đình, sách dĩ vi trị chi yếu dữ quân tử tiểu nhân vi vấn. Cố thần ngu muội hà cảm thượng quỹ uyên trung, nhiên ký thao phụng minh chiếu, cảm bất tinh bạch nhất tâm dĩ đối dương Thiên tử chi hưu mệnh hồ. Thần trả lời: Thần nghe nói, xưa nay bậc Thánh nhân trị nước, dẫu sự nghiệp có khác nhau, nhưng tấm lòng của họ, trước sau vẫn là một. Tiến cử quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân, ấy là bản tâm của bậc Thánh nhân trị nước. Còn như người quân tử bị lui bỏ, mà kẻ tiểu nhân được tiến cử thì đâu phải là nguyện vọng của Thánh nhân. Xem như đời Đường Ngu, đức lớn lao mà không khinh suất trong việc dùng người: đặt quan chỉ dùng người giỏi, trao việc chỉ chọn tài năng, cũng như mục đích tìm người giỏi, dùng người tài của triều ta, đều là phép dùng người quân tử, trừ bỏ tiểu nhân vậy. Hoàng thượng (*) kế thừa nghiệp lớn, trị nước giữ dân, sớm tối cầu hiền để giúp nên cơ nghiệp. Rồi lại đặt khoa thi chọn kẻ sĩ, mở rộng đường cho hiền giả tiến thân, tiến cử bọn thần ở giữa triều đình, hỏi về đạo trị nước và đạo quân tử, tiểu nhân khác biệt. Thần là kẻ ngu muội, đâu dám xét bàn trước bề trên, nhưng đã thẹn vâng chiếu sáng dám đâu không trung thực phơi bầy để đáp lại mệnh lớn của thiên tử. 臣 伏 讀, 聖 策 曰: 朕 惟 為 治 必 以 得 人 為 本 . 唐 虞 之 祭 , 人 才 為 盛 , 然 所 命 之 臣 , 四 岳 , 九 官, 十 二 牧 之 外, 別 無 聞 焉, 何 人 才 之 難 得 也. 以 帝 堯 知 人 之 明, 而 在 朝 猶 有 四 凶 , 何 小 人之 難 知 也 . 洚 水 之 害, 懷 山 襄 陵, 當 日 之 民 受 害 不 少, 鯀 之 治 水 至 於 九 年, 則 為 民 之 害 為 何 如, 何 去 小 人 之 不 早 也 . 臣 謂 : 為 治 以 得 人 為 本, 用 人 以 信 用 為 先. 唐 虞 之 祭, 人 才 為 盛, 然 所 命 之. 官 詢 于 四 岳, 咨 于 十 二 牧 四 岳 以 一 人 而 總 四 方 之 諸 侯 , 十 二 牧 乃 九 州 之 牧 也. 與 夫 禹 為 司 空, 棄 為 后 稷, 契 為 司 徒, 皋 陶 為 士 師, 垂 為 共 工, 益 為 虞 官, 伯 夷 為 秩 宗, 夔 作 典 樂, 龍 作 納 言 之 職, 是 所 謂 九 官 也, 外 此 則 無 聞 焉 .
Thần phục độc, Thánh sách viết : “Trẫm duy vi trị tất dĩ đắc nhân vi bản. Đường Ngu chi tế nhân tài vi thịnh, nhiên sở mệnh chi thần, Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục chi ngoại, biệt vô văn yên, hà nhân tài chi nan đắc dã ! Dĩ Đế Nghiêu tri nhân chi minh, nhi tại triều do hữu Tứ hung, hà tiểu nhân chi nan tri dã. Giáng thủy chi hại, Hoài sơn tương lăng, đương nhật chi dân thụ hại bất thiểu, Cổn chi trị thủy chí ư cửu niên, tắc vi dân chi hại vi hà như, hà khử tiểu nhân chi bất tảo dã ? ” Thần vị: Vi trị dĩ đắc nhân vi bản, dụng nhân dĩ tín dụng vi tiên. Đường Ngu chi tế, nhân tài vi thịnh, nhiên sở mệnh chi quan tuân vu Tứ nhạc, tư vu Thập nhị mục. Tứ nhạc dĩ nhất nhân nhi tổng tứ phương chi chư hầu, Thập nhị mục nãi cửu châu chi mục dã. Dữ phù Vũ vi Tư không, Khí vi Hậu tắc, Tiết vi Tư đồ, Cao Dao vi Sĩ sư, Thùy vi Cung công, ích vi Ngu quan, Bá Di vi Trật tôn, Quỳ tác Điển nhạc, Long tác Nạp ngôn chi chức, thị sở vị Cửu quan dã, ngoại thử tắc vô văn yên. Thần cúi đọc lời sách vấn của Thánh thượng hỏi rằng : “Trẫm nghĩ: Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, ngoài Tử nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục ra không thấy còn ai nữa ; Sao nhân tài khó tìm vậy ! Đến Đế Nghiêu sáng suốt hiểu người là thế, mà trong triều vẫn còn lũ Tứ hung ; Sao tiểu nhân khó biết vậy ! Cái nạn Giáng Thủy, cái họa Hoài Sơn, dân chúng thời ấy, tai vạ thực không ít. Cổn trị thủy đến 9 năm, gây biết bao tai họa cho dân ; Sao trừ bỏ tiểu nhân muộn vậy !” Thần nghĩ rằng: Trị nước lấy nhân tài làm gốc, dùng người lấy chữ tín làm đầu Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, chỉ thấy sách ghi là “hỏi ở Tứ nhạc” “nghe ở Thập nhị mục”. Tứ nhạc là người coi chung chư hầu bốn phương. Thập nhị mục là các đầu mục của Chín châu (*), cùng với Vũ là Tư không, Khí là Hậu tắc, Tiết là Tư đồ Cao Dao là Sĩ sư, Thùy là Cộng công, Ích là Ngu quan, Bá Di là Trật tôn, Quỳ là Điển nhạc, Long là Nạp ngôn, gọi là Cửu quan. Ngoài ra thì không thấy còn ai nữa. 書 曰: 唐 虞 建 官 惟 百. 又 曰: 九 德 成 事, 俊 人 在 官 ,百 僚 師 師 , 百工 惟 辰, 都 俞 吁 咈 於 廟 堂 之 上, 賡 歌 颶 拜 於 殿 陛 之 間, 人 人 皆 有 士 君 子 之 風, 比 屋 有 可 封 之 俗, 至 於 萬 邦, 黎 獻 共 為 帝 臣. 豈 人 才 之 難 得 也 . 若 夫 帝 堯 備 文 武 聖 神 之 德, 有 知 人 則 哲 之 明, 然 在 朝 之 臣 猶 有 四 凶何 哉 ? 夫 小 人 之 道 易 進 而 難 退, 易用 而 難 去. 大 姦 似 忠, 大佞 似 信, 比 而 不 周, 互相 汲 引 . 豈帝 堯 之 明 有 所 不 知. 觀 於 靜 言 庸 違 象 恭 滔 天, 與 夫 吁 咈 方 命, 圮 族 之 辭. 可 見 豈小 人 之 難 知, 而 去 之 不 早 也 ! Thư viết : Đường Ngu kiến quan duy bách. Hựu viết : Cửu đức thành sự, tuấn nhân tại quan, bách liêu sư sư, bách công duy thần, đô du hu phất ư miếu đường chi thượng, canh ca cụ bái ư điện bệ chi gian, nhân nhân giai hữu sĩ quân tử chi phong, tị ốc hữu khả phong chi tục, chí ư vạn bang lê hiến cộng vi đế thần. Khởi nhân tài chi nan đắc dã. Nhược phù Đế Nghiêu bị văn vũ thánh thần chi đức, hữu chi nhân tắc triết chi minh, nhiên tại triều chi thần do hữu Tứ hung hà tai ? Phù tiểu nhân chi đạo dị tiến nhi nan thoái, dị dụng nhi nan khử. Đại gian tự trung, đại nịnh tự tín, tỉ nhi bất chu, hỗ tương cấp dẫn. Khởi Đế Nghiêu chi minh hữu sở bất tri. Quan ư tĩnh ngôn dung vi, tượng cung thao thiên (1), dữ phù hu phất phương mệnh, bĩ tộc chi từ (2). Khả kiến khởi tiểu nhân chi nan tri, nhi khử chi bất tảo dã ! Kinh Thư nói : Đường Ngu đặt trăm quan. Lại có chỗ ghi : Người có đức được sử dụng, kẻ có tài được trao chức, trăm quan làm khuôn phép, trăm việc đều kịp thời. Chốn miếu đường bàn bạc việc chung, nơi điện bệ lời ca vang dội. Người người đều có đức hạnh của bậc sĩ quân tử : nhà nhà đều có phong tục đẹp đáng nêu khen. Cho đến nhân tài muôn nước đều là thần dân của Hoàng đế. Như vậy, phải đâu là nhân tài khó thấy ? Còn như Đế Nghiêu sẵn đức văn võ thánh thần, có tài hiểu người sáng suốt nhưng trong triều vẫn còn lũ Tứ hung là bởi sao ? Bởi đạo của kẻ tiểu nhân dễ tiến mà khó lui, dễ dùng mà khó bỏ. Đại gian như trung, đại nịnh như tín, chúng vào hùa kết đảng, thậm chí dẫn dắt tiến cử lẫn nhau. Nhưng đâu phải Đế Nghiêu sáng suốt không biết điều đó. Xem như câu : Dùng lời nói khéo để trái mệnh vua, giả cách kính nhường để gây tội ác (9), và câu : Hỡi ôi, bỏ mệnh Tiên Vương, gây tai họa cho dòng họ (10) thì có thể thấy rõ điều đó. Như thế, đâu phải kẻ tiểu nhân khó biết, mà chỉ là chưa trừ bỏ sớm thôi ! Giải nghĩa: (*) Hoàng thượng: Hoàng thượng ở đây chỉ Lê Thái Tông, người ra bài sách vấn này.. (*) Chín châu: Vua Vũ 禹 nhà Hạ 夏 chia "thiên hạ" thành cửu châu (chín châu) gồm có: 冀 州Ký châu, 兖 州Duyện châu, 青 州Thanh châu. 徐 州Từ châu, 揚 州Dương châu, 荊 州Kinh châu, 梁 州Lương châu, 雍 州Ung châu, 豫 州Dự châu, Dự châu là trung tâm. Sau đó lấy đồng của các châu đúc thành chín đỉnh (cửu đỉnh). Vì thế, Cửu Đỉnh trở thành. biểu trưng cho quyền uy của chính quyền phong kiến và thống nhất quốc gia. Triều Nguyễn Việt nam cũng đúc Cửu đỉnh, nay còn trong Hoàng thành Huế, (*) Vũ 禹: Cha Vũ là Cổn 鯀 được vua Nghiêu 堯 sai đi trị thủy nhưng không thành công nên bị vua Thuấn 舜 xử tử. Vũ tiếp tục công việc của cha, đào chín sông mới, khai thông 9 tuyến đường núi lớn, bỏ ra mười ba năm và khoảng 20.000 nhân công để hoàn thành nhiệm vụ, ba lần qua nhà mà không vào. Vua Thuấn đã truyền ngôi chu Vũ; trường hợp truyền ngôi cho người hiền tài cuối cùng trong lịch sử Trung quốc, sau Vũ đều là truyền tử (truyền ngôi cho con). (*) Khí 棄: Ông là con của Đế Cốc 帝喾, bầy tôi vua Thuấn và là tổ nhà Chu 周 (*) Tiết 契: Ông là con của Đế Cốc 帝喾, bầy tôi vua Thuấn và là tổ nhà Thương 商 (*) Khí, Tiết, Cao Dao là Sĩ sư, Thùy là Cung công, Ích là Ngu quan, Bá Di là Trật tôn, Quỳ là Điển nhạc, Long là Nạp ngôn, Cửu quan dưới thời vua Thuấn (xin giải nghĩa sau, trước mắt, nếu có nhu cầu, bạn có thể tìm kiếm, đọc thêm trong Wikipedia. ). (1) Kinh Thư. Nguyên văn : “Tĩnh ngôn duy vi, tượng cung thao thiên”. (2) Kinh Thư. Nguyên văn : “Hu phất phương mệnh, bĩ tộc chi loạn”.
Xin lưu ý: 1- Các nhân vật của ta và Trung quốc có trong Đối sách văn, bạn có thể tìm kiếm, đọc thêm trong các nguồn khác. 2- Đọc bản Đối sách văn bạn đừng nên vội vàng như xem truyện, sẽ thu hoạch được nhiều hơn. 3- Có điều gì các bạn cần hỏi hoặc trao đổi, xin gửi qua Thông điệp trong Thi viện cho Hà Như và Xin miễn Bình phẩm văn bản trên trong Topic.
Trang 3 ĐỐI SÁCH VĂN NGUYỄN TRỰC 然 唐 虞 之 世, 用 三 考 之 法, 以 核 事 功 之 寔. 故 堯 用 鯀 至 九 載, 漬用 不 成, 然 後 去 之, 豈去之不早乎. 厥 後, 舜 稟 堯命去 之 天不咸 服, 豈 小 人 之 難 去 也. 此 唐 虞 雖 有小 人, 豈能 害 堯舜 之 治 哉 . Nhiên Đường Ngu chi thế, dụng Tam khảo chi pháp, dĩ hạch sự công chi thực. Cố Nghiêu dụng Cổn chí cửu tải, tích dụng bất thành, nhiên hậu khử chi, khởi khử chi bất tảo hồ ! Quyết hậu, Thuấn bẩm Nghiêu mệnh khử chi nhi thiên hạ hàm phục, khởi tiểu nhân chi nan khử dã. Thử Đường Ngu tuy hữu tiểu nhân, khởi năng hại Nghiêu Thuấn chi trị tai.
Nhưng đời Đường Ngu, dùng phép Tam khảo (*) để bình xét công trạng của các quan. Cho nên, Nghiêu phải dùng Cổn tới 9 năm. Khi xét thấy Cổn không hoàn thành công việc rồi mới phế bỏ, chứ đâu phải là bỏ không sớm ? Sau đó, Thuấn theo lệnh Nghiêu giết Cổn mà thiên hạ đều phục, như vậy, phải đâu tiểu nhân khó trừ. Xem thế thì thời Đường Ngu tuy có tiểu nhân, nhưng chúng không làm hại được công cuộc trị nước của Nghiêu Thuấn. 臣 伏讀 制 策 曰: 周 之 世, 詩 稱 濟 濟 吉 士, 文 王 以 寧. 至 武 之 世, 只 稱 十 亂, 謂 之 才 難, 豈 不 其 然 乎. 管 蔡 之 流 言, 周 公 之 狼 跋,王 室 幾 乎 岌 岌, 何 憸小 之 人, 無 代 無 之 . Thần phục độc chế sách viết: “ Chu chi thế, Thi xưng tế tế cát sĩ, Văn Vương dĩ ninh. Chí Vũ Vương chi thế, chỉ xưng Thập loạn, vị chi tài nan, khởi bất kỳ nhiên hồ ! Công chi lang bạt, Vương thất cơ hồ ngập ngập, hà hiểm tiểu chi nhân, vô đại vô chi ”.
Thần cúi đọc lời sách vấn hỏi rằng : Đời Chu được Kinh thi ca ngợi là “kẻ sĩ đông đúc”, Văn Vương dựa vào họ mà dẹp yên đất nước. Nhưng đến đời Vũ Vương, chỉ còn thấy nhắc tới Thập loạn. Như vậy, bảo là nhân tài khó kiếm, há chẳng đúng sao ! Quản Thúc, Sái Thúc phao tin đồn nhảm, khiến Chu Công phải lận đận, Vương thất suýt sụp đổ ; Sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời đại nào là không có chúng !
臣聞 :周 之 文 王 克 知 三 有 宅 心 灼 見 三 有 俊 心. 藹 藹 吉 士, 惟 周 之 楨. 至 於武 王則 曰: 予 有亂 臣 十人:周 公 旦, 召 公 奭, 太 公 望, 畢 公, 榮 公, 太 顛, 閎夭, 散 宜 生, 南 恭 适, 其 一 邑 姜 是 也 . 故 孔 子 曰: 才 難 不 其 然乎 . Thần văn: Chu chi Văn Vương khắc tri Tam hữu trạch tâm, chước kiến Tam hữu tuấn tâm. ái ái cát sĩ, duy Chu chi trinh. Chí ư Vũ Vương tắc viết: dư hữu loạn thần thập nhân : Chu Công Đán, Thiệu Công Thích, Thái Công Vọng, Tất Công, Vinh Công, Thái Điên, Hoằng Yêu, Tản Nghi Sinh, Nam Cung Quát kỳ nhất Ấp Khương thị dã. Cố Khổng tử viết : “Tài nan bất kỳ nhiên hồ”.
Thần nghe rằng : Văn Vương hiểu rất rõ ý nghĩa và tác dụng của đạo “ Tam hữu” (12) nên nhân tài đông đảo. Đó là điều tốt đẹp của nhà Chu. Đến đời Vũ Vương, chỉ có 10 người bề tôi dẹp loạn là Chu Công Đán, Thiệu Công Thích, Thái Công Vọng, Tất Công, Vinh Công, Thái Điên, Hoằng Yêu, Tản Nghi Sinh, Nam Cung Quát và một người là Ấp Khương. Cho nên Khổng Tử nói : “Nhân tài khó kiếm”, chẳng đúng thế sao !
Giải thích: (*) Tam khảo : Phương pháp khảo xét công trạng của các quan trong 3 năm liền ở thời Nghiêu Thuấn
Trang 4 ĐỐI SÁCH VĂN NGUYỄN TRỰC 唐 虞 之 際, 於 斯 為 盛 有 婦 人 焉, 九 人 而 已. 然 詳 觀 棫 樸 之 作 人 ,菁 莪 之 樂 育, 與 夫 三 千 之 士 惟 同 一 心, 則 周 之 人 才 不 為 不 多. 謂 之 才 難, 但 不 及 唐 虞 而 已, 豈 九 人 之 外, 無 其 人 哉. Đường Ngu chi tế, ư tư vi thịnh, hữu phụ nhân yên, cửu nhân nhi dĩ. Nhiên tường quan Vực phác chi tác nhân, Tinh Nga chi lạc dục, dữ phù tam thiên chi sĩ duy đồng nhất tâm, tắc Chu chi nhân tài, bất vi bất đa. Vị chi tài nan, đãn bất cập Đường Ngu nhi dĩ, khởi cửu nhân chi ngoại, vô kỳ nhân tai. Từ thời Đường Ngu đến lúc này là có nhiều người tài giỏi. Nhưng trong 10 người ấy, có một là đàn bà (*) còn lại chỉ có 9 người thôi. Nhưng xét kỹ phẩm chất biết dùng người hiền của Văn Vương trong bài thơ Vực phác (*) và niềm vui bồi dưỡng nhân tài trong bài thơ Tinh nga (*) cùng những lời ngợi ca như “ba ngàn kẻ sĩ, chỉ một tấm lòng...” thì nhân tài đời Chu không phải là không nhiều. Nói là nhân tài khó kiếm, chỉ có ý là không bằng thời Đường Ngu thôi, đâu phải ngoài 9 người ra, không còn ai khác. 夫 人 才 如 此 其 盛, 然 當 成 王 嗣 服 之 初, 管 蔡 乃 王 室 之 至 親, 挾 武 庚 以 反 周 邦, 胥 動 浮 言 以 惑 眾 聽, 而 起 王 疑 周 公 之 心, 遂 使 周公 狼 跋 而 東. 蓋 是 辰, 武 王 崩, 成 王 幼, 天 下 之 重 懸 於 周 公. 公負 謗 而 不 遑 自 安, 王 得 詩 而 猶 未 悟, 文 武 之 業 危 於 一 髮, 向 非 天 之 雷 電 以 風 顯 三 監 之 堊, 彰 周 公 之 德, 其 孰 能 警 悟 以 扶 持 之 . Phù nhân tài như thử kỳ thịnh, nhiên đương Thành Vương tự phục chi sơ, Quản, Sái nãi vương thất chí chi thân, hiệp Vũ Canh dĩ phản Chu bang, tư động phù ngôn dĩ hoặc chúng thính, nhi khởi Vương nghi Chu Công chi tâm, toại sử Chu Công lang bạt nhi đông. Cái thị thời, Vũ Vương băng, Thành Vương ấu, thiên hạ chi trọng huyền ư Chu Công. Công phụ báng nhi bất hoàng tự an, Vương đắc thi nhi do vị ngộ, Văn Vũ chi nghiệp nguy ư nhất phát, hướng phi thiên chi lôi điện dĩ phong hiển Tam giám chi ác, chương Chu Công chi đức, kỳ thục năng cảnh ngộ dĩ phù trì chi.
Ôi, nhân tài đông đúc như vậy, nhưng đương lúc Thành Vương mới lên ngôi, Quản Thúc, Sái Thúc là người ruột thịt trong Vương thất, ép Vũ Canh (*) chống lại nhà Chu, nên đã phao tin để mê hoặc lòng người, khiến Thành Vương nghi ngờ Chu Công, làm cho Chu Công phải lận đận chạy về Đông Đô. Bởi lúc ấy, Vũ Vương vừa mất, Thành Vương còn nhỏ, gánh nặng thiên hạ dồn cả lên vai Chu Công, Công bị dèm mà không bồn chồn, vẫn an tâm.(*) Vương đọc thơ nhưng vẫn chưa tỉnh ngộ. Sự nghiệp của Văn Vương, Vũ Vương như ngàn cân treo sợi tóc. Nếu như trời không nổi gió mưa sấm sét để phô bầy tội ác của Tam giám (*) để tỏ rõ công đức của Chu Công thì ai có thể thức tỉnh và phù trì Thành Vương ?
雖 曰: 憸 小 之 人 何 代 無 之, 而 罪 人 斯 得 之 語, 不 能 掩 管 蔡 之 堊 矣. 此 周 公 之 處 變 得 中, 而 小 人 卒 以 勝 君 子 也 . Tuy viết : hiểm tiểu chi nhân hà đại vô chi, nhi tội nhân tư đắc chi ngữ, bất năng yểm Quản, Sái chi ác hỹ. Thử Chu Công chi xử biến đắc trung, nhi tiểu nhân tốt bất năng dĩ thắng quân tử dã ! Tuy nói kẻ tiểu nhân gian hiểm, không thời đại nào là không có, nhưng xem câu “kẻ có tội phải chịu tội” thì cũng thấy là tội ác của bọn Quản, Sái không thể che giấu được. Như vậy, Chu Công ứng xử lúc nguy biến rất hay và bọn tiểu nhân rốt cuộc không thể thắng được người quân tử.
(*) Phép Tam khảo : Phương pháp khảo xét công trạng của các quan 3 năm liền trong thời Nghiêu Thuấn. (*) Đạo Tam hữu : Sách Luận ngữ có câu : “Ích giả Tam hữu, Tổn giả tam hữu”, nghĩa là gần gũi với ba loại người : Trung trực, độ lượng và hiểu biết thì có lợi, ngược lại, gần gũi với ba hạng người nhỏ nhen, nhu nhược và xiểm nịnh thì có hại. (*) Tức là bà Ấp Khương, bà hậu của Chu Vũ Vương, con gái của Thái Công Vọng, mẹ của Chu Thành Vương. (*) Vực phác: tên một bài thơ trong Đại nhã của Kinh Thi, ca ngợi hiền tài đông đức. (*) Tinh nga: gọi tắt của Tinh tinh giả nga, tên một bài thơ trong Tiểu nhã của Kinh Thi, ca ngợi niềm vui bồi dưỡng nhân tài. (Thi viện của ta chưa có Đại nhã, Tiểu nhã, Vực phác, Tinh tinh giả nga trong Kinh Thi) (*) Vũ Canh 武 庚: Con của Trụ. Vũ Vương diệt Trụ (Ân - Thương) , cho Vũ Canh giữ đất Ân. (*) Tam giám: Chu Vũ vương sai ba người em của mình là, Quản Thúc, Sái Thúc và Hoắc Thúc giúp Vũ Canh, nhưng thực ra là giám sát, kiềm chế Vũ Canh. Sau khi Vũ vương chết, Thành vương còn nhỏ lên ngôi, Chu Công Đán nhiếp chính. Quản Thúc, Sái Thúc muốn chiếm quyền, dèm pha Chu Công, ép Vũ Canh chống lại nhà Chu. (*) Vũ Vương vừa mất, Thành Vương còn nhỏ, gánh nặng thiên hạ dồn cả lên vai Chu Công, Công bị dèm mà không bồn chồn, vẫn an tâm. Câu này trong TẠP CHÍ HÁN NÔM Số 1(6) NĂM 1989, Hoàng Hưng không dịch nghĩa, Đỗ Quang Liên dịch bổ sung cho đủ nghĩa của đoạn văn.
Trang 5 ĐỐI SÁCH VĂN NGUYỄN TRỰC 臣 伏 讀 聖 策 曰: 我 祖 高 皇 帝 之 得 天 下, 屢 下 求 賢 之 詔, 竟 無 一 人 應 選, 罕 巧 之 徒, 潛 蓄 奸 心, 朕 即 位 以 來 , 勵 精 求 治, 而 得 人 之 效, 芒 若 望 洋; 銀 察 之徒, 懷 姦 稔 惡, 何 君 子 之 難 得, 小 人 之 難 知 也. Thần phục độc Thánh sách viết :“ Ngã Thái tổ Cao Hoàng đế chi đắc thiên hạ, lũ hạ cầu hiền chi chiếu, cánh vô nhất nhân ứng tuyển, Hãn, Xảo chi đồ, tiềm súc gian tâm, Trẫm tức vị dĩ lai, lệ tinh cầu trị, nhi đắc nhân chi hiệu, mang nhược vọng dương; Ngân, Sát chi đồ, hoài gian nẫm ác, hà quân tử chi nan đắc, tiểu nhân chi nan tri dã ” Thần cúi đọc sách vấn của Thánh thượng hỏi rằng : Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai ứng tuyển, trong khi ấy thì bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mờ thăm thẳm ; bọn Ngân, bọn Sát lại gian ngoan chứa ác. Sao người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy ? 臣 竊 惟 : 太 祖 高 皇 順 天 承 運, 肇 啟 瑤 圖, 稟 英 睿 神 武 之 資, 為 建 極 錫 福 之 主, 每 念 創 業 之 艱 難, 守 成 之 不 易, 屢 下 求 賢 之 詔, 思 得 人 為 治, 竟 無 一 人 應 選, 何 哉 .
Thần thiết duy: Thái tổ Cao Hoàng đế thuận thiên thừa vận, triệu khải dao đồ, bẩm anh (*) duệ thần vũ chi tư, vi kiến cực tứ (tích) phúc chi chủ, mỗi niệm sáng nghiệp chi gian nan, thủ thành chi bất dị, lũ hạ cầu hiền chi chiếu, tư đắc nhân vi trị, cánh vô nhất nhân ứng tuyển, hà tai ? Thần trộm nghĩ : Thái tổ Cao Hoàng đế theo trời mở vận, khai sáng cơ đồ; sẵn thiên tư thần vũ anh minh, là bậc chúa dựng nền ban phúc, luôn nhớ nỗi gian nan sáng nghiệp, luôn nhớ điều giữ nước khó khăn, đã nhiều phen xuống chiếu cầu hiền, mong tìm được nhân tài trị nước, thế mà không có một ai ứng tuyển là bởi cớ làm sao ? 夫 十 室 之 邑 必 有 忠 信, 十 步 之 園 必 有 芳 草, 況 海 宇 之 大,億 兆 之 眾, 而 無 一 人 乎 . Phù, thập thất chi ấp tất hữu trung tín (*), thập bộ chi viên tất hữu phương thảo (*), huống hải vũ chi đại, ức triệu chi chúng, nhi vô nhất nhân hồ ! Ôi, một xóm nhỏ có mười gia đình, thế nào cũng có người trung tín ; một mảnh vườn mươi thước, thế nào cũng có loại cỏ thơm. Huống chi cả nước rộng lớn có ức triệu người mà lại không có lấy một người tài giỏi hay sao?
Giải nghĩa: (*) Anh trong Bẩm anh duệ thần vũ chi tư: Chữ Anh 英 là tên của Chính phi Nguyễn Thị Anh, phải tránh. Nhưng Nguyễn Trực vẫn dùng chữ này để chỉ tố chất của nhà vua. Trong Văn bia số 1 tại Văn Miếu, Thân Nhân Trung cũng đã 1 lần dùng chữ này, trong câu: Thượng ngự Hội Anh điện. (*) Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín: ý câu trích từ Luận ngữ của Khổng Tử; Hán thư có nhắc lại trong Vũ đế ký. (*) Thập bộ chi viên, tất hữu phương thảo: ý câu trích từ Hán Thư và Tùy Thư.
Trang 6 ĐỐI SÁCH VĂN NGUYỄN TRỰC 臣 忖 度: 太 祖 高 皇 帝 之 心, 即 堯 之 知 人 則 哲, 舜 之 取 人 為 善 之 心 也. 湯 之 立 賢 無 方, 武 王 之 不 泄 邇, 不 忘 遠 之 意 也. 是 以 慮 賢 才 之 隱 於 窮 約, 故 屢 下 求 賢 之 詔; 慮 賢 才 之 隱 於 僧 道, 故 有 應 試 之 選. 然 而 未 有 其 效 者. Thần thỗn đạc : Thái tổ Cao Hoàng đế chi tâm, tức Nghiêu chi tri nhân tắc triết, Thuấn chi thủ nhân vi thiện chi tâm dã. Thang chi lập hiền vô phương, Vũ Vương chi bất tiết nhĩ, bất vong viễn chi ý dã. Thị dĩ lự hiền tài chi ẩn ư cùng ước, cố lũ hạ cầu hiền chi chiếu; lự hiền tài chi ẩn ư tăng đạo, cố hữu ứng thí chi tuyển. Nhiên nhi vị hữu kỳ hiệu giả ? Thần nghĩ rằng : Tấm lòng của Thái tổ Cao Hoàng đế, tức là tấm lòng sáng suốt hiểu người của vua Nghiêu, là tấm lòng khéo biết chọn người của vua Thuấn, cũng là ý đẹp gây dựng người hiền bằng mọi cách của Thành Thang, là phép hay không sót người gần, không quên kẻ xa của Vũ Vương. Bởi lo bậc hiền tài ẩn náu chốn hang cùng nên hạ chiếu cầu hiền nhiều bận ; bởi lo người tài giỏi lánh trong hàng tăng, đạo, nên đặt khoa thi để lựa chọn nhân tài. Thế mà chưa có kết quả là vì sao? 蓋 取 人 以 身 人 君 之 道, 而 為 國 進 賢 大 臣 之 責, 彼 扞 巧 之 徒, 潛 蓄 奸 心, 妒 賢 嫉 能, 推 槳 黨 與, 彼 既 不 肖 矣, 又 何 以 進 人 哉 . 此 太 祖 高 皇 帝 雖 有 求 賢 之 心 , 而 阻 於 扞 巧 蔽 賢 之 故 也 . Cái thủ nhân dĩ thân nhân quân chi đạo, nhi vị quốc tiến hiền đại thần chi trách, bỉ Hãn, Xảo chi đồ, tiềm súc gian tâm, đố hiền tật năng, suy tưởng đảng dự, bỉ ký bất tiếu hỹ, hựu hà dĩ tiến nhân tai ! Thử Thái tổ Cao Hoàng đế, tuy hữu cầu hiền chi tâm, nhi trở ư Hãn, Xảo tế hiền chi cố dã. Là bởi tự mình chọn người, là đạo người làm vua, nhưng tiến cử tài năng cho đất nước, lại là chức trách của bậc đại thần. Bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian, ghen ghét hiền tài, cất nhắc bè lũ. Bản thân chúng đã chả ra gì, thì làm sao tiến cử được nhân tài ! Xem thế, dẫu Thái tổ Cao Hoàng đế có nguyện vọng cầu hiền, nhưng bị bọn Hãn, Xảo che lấp hiền tài nên không tìm được. 古 人 云 : 進 賢 受 上 賞 ,蔽 賢 蒙 顯 戮 , 宜 其 扞 巧 之 徒 不 能 逃 太 祖 高 皇 帝 天 討 之 外. 此 亦 虞 之 四 凶, 周 之 三 監 ,雖 有 小 人 不 能 害 已. 陛 下 繼 志 述 事, 持 盈 守 成 ,秉 鉤 宅 揆, 皆 太 祖 之 舊 臣, 鷹 揚 虎 視 皆太 祖 之 義 德 .
Cổ nhân vân: Tiến hiền thụ thượng thưởng, tế hiền mông hiển lục, nghi kỳ Hãn, Xảo chi đồ bất năng đào Thái tổ Cao Hoàng đế thiên thảo chi ngoại. Thử diệc Ngu chi Tứ hung, Chu chi Tam giám, tuy hữu tiểu nhân bất năng hại dĩ! Bệ hạ kế chí thuật sự, trì doanh thủ thành, bỉnh câu trạch quỹ, giai Thái tổ chi cựu thần, ưng dương hổ thị giai Thái tổ chi nghĩa đức. Người xưa có câu : Ai tiến cử nhân tài sẽ được ban thưởng mức cao nhất. Kẻ nào che lấp tài năng phải bị trị tội nặng. Vì thế, bọn Hãn, Xảo đã không thoát khỏi sự trừng phạt của Thái tổ Cao Hoàng đế. Bọn chúng cũng là lũ Tứ hung đời Ngu, loại Tam giám đời Chu đó ! Nhưng dù có bọn tiểu nhân như chúng, vẫn không thể làm hỏng được công cuộc trị nước bấy giờ. Bệ hạ nối chí trị nước, giữ vững cơ đồ, công bằng lựa chọn, thẩy đều là cựu thần của Thái tổ ; tỳ hưu dũng mãnh, thẩy đều là nghĩa sĩ của Cao Hoàng (*). 方 當 踐 祚 之 初, 下 明 詔, 設 茂 科, 欲 得 人 以 成 至 治, 而 得 人 之 效 茫 若 望 洋, 側 席 之 求, 未 稱 其 選,豈 非 銀, 察 之 徒 懷 姦 稔 惡 而 致 然 哉.
Phương đương tiễn tộ chi sơ, hạ minh chiếu, thiết mậu khoa, dục đắc nhân dĩ thành chí trị, nhi đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương, trắc tịch chi cầu, vị xứng kỳ tuyển, khởi phi Ngân, Sát chi đồ hoài gian nẫm ác nhi trí nhiên tai ? Đương buổi đầu lên ngôi, đã xuống chiếu mở khoa thi muốn chọn nhân tài để dựng nên thịnh trị. Thế mà hiệu quả được người vẫn xa vời thăm thẳm : Chân thành cầu hiền, vẫn chưa được ai xứng đáng. Há không phải bọn Ngân, bọn Sát gian ngoan chứa ác gây nên hay sao ?
Giải nghĩa:
(*) Cao Hoàng : chỉ Lê Lợi. Lê Lợi mất có miếu hiệu là Thái tổ Cao Hoàng đế.
Trang 7 ĐỐI SÁCH VĂN NGUYỄN TRỰC 臣 以 為: 銀 察 之 徒 要 君 罔 上, 蔽 賢 害 能, 以 附 己 者 為 賢 良, 以 辨 給 者 為 才 藝, 賣 官 鬻 獄 , 賄 賂 公 行, 斥 拎 虎 於 遠 方, 罷 天 爵 之 官 職 . 如 此 之 事, 又 豈 為 國 進 賢, 以 人 事 君 哉. 此 君 子 所 以 難 得, 小 人 所 以 難 知 也 . Thần dĩ vi: Ngân, Sát chi đồ, yêu quân võng thượng, tế hiền hại năng, dĩ phụ kỷ giả vi hiền lương, dĩ biện cấp giả vi tài nghệ, mại quan chúc ngục, hối lộ công hành, xích Cầm Hổ ư viễn phương, bãi Thiên Tước chi quan chức. Như thử chi sự, hựu khởi vị quốc tiến hiền, dĩ nhân sự quân tai ? Thử quân tử sở dĩ nan đắc, tiểu nhân sở dĩ nan tri dã ! Thần cho rằng : Bọn Ngân, bọn Sát lừa dối bề trên, hãm hại hiền tài, lấy bọn theo mình làm giỏi, lấy bọn múa mép làm tài, mua quan bán tước, hối lộ ngang nhiên, đầy Cầm Hổ (*) ra châu xa, bãi chức quan của Thiên Tước (*). Những việc như vậy, đâu phải vì nước tiến cử nhân tài, vì vua lựa chọn bề tôi ? Do vậy mà người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết.
然 小 人 難 知, 豈 真 難 知 哉 . 宜 其 銀, 察 之 輩 ,有 不 能 逃 陛 下 之 憲 網 矣,即 陛 下 之 明 斷 如 虞, 如 周, 如 太 祖 高 皇 帝 好 善 惡 堊 之 心 各 得 其 當 而 天 下 咸 服 矣 . Nhiên tiểu nhân nan tri, khởi chân nan tri tai ? Nghi kỳ Ngân, Sát chi bối, hữu bất năng đào, Bệ hạ chi hiến võng hỹ, tức Bệ hạ chi minh đoán như Ngu, như Chu, như Thái tổ Cao Hoàng đế hiếu thiện ố ác chi tâm các đắc kỳ đáng nhi thiên hạ hàm phục hỹ. Nhưng có thực là kẻ tiểu nhân khó biết hay không ? Kìa bọn tiểu nhân Ngân, Sát đã không thoát lưới của bệ hạ, mà quyết định sáng suốt của bệ hạ như Ngu, như Chu, như Thái tổ Cao Hoàng đế, tấm lòng ưa thiện, ghét ác đều được thỏa đáng mà khắp thiên hạ đều khâm phục vậy. 噫 ! 君 子 小 人, 每 每 相 反, 君 子 道 長 則 小 人 道 消, 君 子 道 消 則 小 人 道 長, 若 陰 陽 晝 夜 之 不 可 同 運 而 行, 若 冰 炭 薰 蕕 之 不 可 同 器 而 貯, 故 在 上 之 人, 用 人 之 際, 惟 和 惟 一, 其 難 其 慎 斯 可 矣. Y ! Quân tử tiểu nhân, mỗi mỗi tương phản, quân tử đạo trưởng tắc tiểu nhân đạo tiêu, quân tử đạo tiêu tắc tiểu nhân đạo trưởng, nhược âm dương trú dạ chi bất khả đồng vận nhi hành, nhược băng thán huân du chi bất khả đồng khí nhi trữ, cố tại thượng chi nhân, dụng nhân chi tế, duy hòa duy nhất, kỳ nan kỳ thận tư khả hỹ ! Ôi, quân tử và tiểu nhân hoàn toàn trái ngược nhau. Đạo quân tử mạnh thì đạo tiểu nhân suy ; đạo quân tử suy thì đạo tiểu nhân mạnh. Như âm với dương, như ngày với đêm không thể cùng song song vận hành ; như nước với lửa, như thơm với thối, không thể cùng chứa trong một rọ. Cho nên bậc bề trên, mỗi lúc dùng người phải bình tĩnh, phải chuyên tâm, phải thử thách, phải thận trọng mới được.
臣 伏 讀 聖 策 曰: 諸 子 其 悉 心 以 對, 朕 將 親 覽 焉. 臣 識 不 足 以 博 古, 才 不 足 以 通 今, 然 平 日 得 一 之 愚 ,每 欲 上 瀆 聖明 ,矧 今 得 言 之 日, 敢 不 罄 所 聞 以 獻 之 乎 . Thần phục độc Thánh sách viết:“ Chư tử kỳ tất tâm dĩ đối, Trẫm tương thân lãm yên”. Thần thức bất túc dĩ bác cổ, tài bất túc dĩ thông kim, nhiên bình nhật đắc nhất chi ngu, mỗi dục thướng độc Thánh minh, thẩn kim đắc ngôn chi nhật, cảm bất khánh sở văn dĩ hiến chi hồ ! Thần cúi đọc lời sách vấn của Thánh thượng hỏi rằng : Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, Trẫm sẽ đích thân xem xét. Thần tài năng chưa được bác cổ thông kim, dẫu hàng ngày ngu dốt vẫn muốn được bề trên soi xét. Huống nay được dịp trình bầy, dám đâu không dốc hết hiểu biết của mình kính cẩn trả lời.
Giải nghĩa:
(*) Cầm Hổ, tức Bùi Cầm Hổ: làm quan Ngự sử, vì mâu thuẫn với Lê Sát, bị đổi ra làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn. (*) Thiên Tước, tức Phan Thiên Tước: quan Ngự sử, sau bị đổi làm Chuyển vận, phó sứ huyện Đa Cầm, sau nữa, bị bãi chức, sung quân.