Trang trong tổng số 2 trang (14 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hoạ mi điểu (Âu Dương Tu): Dịch nghĩa

Thấy bản dịch trên bài chưa thông nghĩa lắm, xin góp thêm bản dịch nghĩa này, hi vọng giúp được ai muốn dịch thơ có thể tham khảo thêm
---
始 thuỷ ở đây là phó từ: mới. 始知 thuỷ tri: mới biết.
不及 bất cập: không bằng.
Có thể hót trăm ngàn tiếng, tuỳ ý thay đổi,
Khi thì đậu trên cây hoa núi màu đỏ cây hoa màu tím, khi thì đậu cây cao khi thì cây thấp (mà hót).
Mới biết nghe tiếng chim bị nhốt trong lồng vàng hót,
Không bằng chim tự do tự tại trong rừng hót.

Ảnh đại diện

Đăng Kinh Châu thành vọng giang kỳ 2 (Trương Cửu Linh): Nghĩa bài thơ

Xin đưa thêm một cách hiểu bài thơ.

Nhìn về phía đông thấy dòng nước cuồn cuộn
từ phía tây chảy về ngày đêm không nghỉ
Năm tháng cũng như dòng sông trôi đi không bao giờ trở lại,
nghĩ đến làm sao lòng không buồn?

Hẳn khi viết bài thơ, tác giả đã nhớ đến câu thở than của Khổng tử. 逝者如斯夫, 不舍晝夜 (論語, IX.16). Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ: Chảy đi hoài như thế kia, ngày đêm không ngừng! (Luận ngữ, chương 9, đoạn 16)

Ảnh đại diện

Cai thành (Trừ Tự Tông): Bản dịch nghĩa

Đánh trăm trận chưa có một lời sai khác (quân lính luôn cùng một lòng),
Nhưng hôm nay đội quân ấy bị vây kín trong thành, lòng đã kinh hoảng.
Lòng người và thời cơ khí vận đã hết,
Nước mắt rơi ướt áo người đẹp.

Chú.
垓城 Cai Hạ: thành Cai Hạ, nơi quân hán vây quân Hạng Vũ. Bấy giờ quân Hán do Hán Tín chỉ huy có hơn 70 vạn, nhưng quân Sở Hạng Vũ vẫn còn hơn 10 vạn. Theo kế của Trương Lương, đêm Tín cho người hát dân ca nước Sở, khiến quân Hạng Vũ (vốn là người Sở) nhớ nhà và tin là nước Sở đã mất, kinh sợ bỏ ngũ gần hết, chỉ còn mấy trăm. Theo truyền thuyết thì Hạng Vũ và Ngu Cơ trong đêm đã khóc và múa hát với nhau, sau đó Ngu Cơ tự tử, Hạng Vũ thì dẫn quân phá vây chạy về Ô Giang rồi cũng tự vẫn chết ở đấy.

Ảnh đại diện

Ức Bà Dương cựu du (Cố Huống): Dịch nghĩa bài thơ

Thấy chưa có bản dịch nghĩa, nên đưa lên đây, để bạn nào thích dịch thơ tham khảo thêm.
---
Nghĩa. Nhớ lần đi chơi Bà Dương trước.
Lòng miên man nghĩ về vùng đất phương nam,
Tối mơ thấy đi thuyền về bến sông Giang Nam.
Tỉnh dậy, trong lúc khách thăm đất Sở buồn đứt ruột,
Thì dưới ánh trăng sáng, một trái phong rụng.

Chú.
南國 nam quốc: chỉ vùng đất phương nam nước Tàu, trong đó có Bà Dương, và cả quê hương tác giả.
鄱陽 Bà Dương nay thuộc tỉnh Giang Tây. Tác giả quê ở Chiết Giang, cạnh tỉnh Giang Tây, và cả hai đều thuộc vùng đất Giang Nam 江南 (nghĩa đen: phía nam Trường Giang, tức sông Dương Tử).
Bài thơ tả tâm trạng nhà thơ, một hôm chợt nhớ đến lần đi chơi Bà Dương trước đây, rồi miên man nhớ luôn đến vùng đất phương nam quê nhà. Đêm mơ thấy đi thuyền về đất Giang nam thiệt. Tỉnh dậy lòng buồn đứt ruột, nhìn ra sân thấy dưới ánh trăng, một trái phong rụng.
Lưu ý hình ảnh trái phong rụng cuối bài thơ gợi nhớ hình ảnh lá rụng về cội (diệp lạc quy căn), ẩn dụ về nỗi nhớ quê hương và mong được trở về.

Ảnh đại diện

Nhạc phủ thể (Tào Nghiệp): Nghĩa bài thơ

Xin nêu ra một cách hiểu khác về bài thơ.
1. 蓮子房房嫩.
Sen hạt hạt đều non mềm.
蓮子 liên tử: hạt sen. 房 phòng: buồng; dùng làm lượng từ, chỉ số thê thiếp, hay số anh em trong nhà. Ở đây có nghĩa là hạt (sen). Trên gương sen mỗi hạt sen chiếm một “phòng”.
2. 菖蒲葉葉齊。
Xương bồ lá lá đều ngay ngắn
菖蒲 xương bồ: cây xương bồ, mọc nơi hồ ao, mùi thơm, dùng làm thuốc. Cây “bạch xương bồ” 白菖蒲 vào tiết đoan ngọ (ngày năm tháng năm), dùng lá nó cắt như hình cái gươm để trừ tà gọi là “bồ kiếm” 蒲劍. Vì thế nên tháng năm gọi là “bồ nguyệt” 蒲月.
Ở đây có sự ẩn dụ: Xương bồ tượng trưng cho một nam nhi, mạnh mẽ, sẵn sàng bảo vệ che chở cho người mình thương. Liên sen ở câu 1 cũng đồng âm với liên 憐 thương.
Thấy điều đó ý hai câu tiếp theo rất dễ thấy.
共結池中根, 不厭池中泥。
Trong ao rễ (sen và xương bồ) cùng kết lại với nhau, chẳng ngại chi bùn tanh.

Ảnh đại diện

Giang Nam khúc kỳ 2 (Trừ Quang Hy): Nghĩa bài thơ

Bơi thuyền theo dòng nước hái rau hạnh,
Ghé bờ nước xanh biếc để cắt lau non.
Vì thương đôi uyên ương (chợt thấy trong đám cỏ),
Nên nhè nhẹ khua mái chèo tránh đi.

Ảnh đại diện

Xương Cốc độc thư thị Ba đồng (Lý Hạ): Dịch nghĩa bài thơ

Dưới ánh đèn mờ nghe tiếng côn trùng nỉ non,
Đêm rất lạnh lẽo.
Ngươi thương ta xụi cánh,
Đắng cay gian khổ vẫn cứ theo nhau.
---
Chú.
巴童 Ba đồng: đứa hầu người đất Ba Thục, thường theo hầu Lí Hạ.
tiêu: đêm.
藥氣 dược khí: tức dược tính. Theo Trung y, có 4 loại dược tính: Hàn, nhiệt, ôn và lương (lạnh, nóng, ấm và mát).
Câu 2: đêm lạnh, và cái tính lạnh ấy rất đậm. Nhà thơ dùng một thuật ngữ Trung y.
quân: đại từ nhân xưng ngôi hai, đây chỉ Ba đồng.
垂翅客 thuỳ sí khách: khách xụi cánh. Nhà thơ tự ví mình với con chim xụi cánh sau khi đánh thua bỏ chạy.
thượng (phó): vẫn còn.

Ảnh đại diện

Mã thi kỳ 15 (Lý Hạ): Nghĩa 2 câu đầu

不從桓公獵,
何能伏虎威。
Bất tòng Hoàn Công liệp,
Hà năng phục hổ uy.
= Không theo Tề Hoàn Công đi săn
Thì làm sao tỏ lộ được cái oai hàng long phục hổ?
Chú.
桓公 Hoàn Công, vua nước Tề, vị bá chủ nổi tiếng thời Xuân Thu. Một hôm ông cưỡi ngựa đi săn, cọp trông thấy liền chạy mất. Ông ngạc nhiên hỏi, Quản Trọng trả lời: Con ngựa vua cưỡi có thể đấu với voi, đánh nhau với cọp, beo. Nên cọp kia trông thấy liền trốn.

Ảnh đại diện

Ẩm Lý thập nhị trạch (Trương Kế): Nghĩa bài thơ

Câu 1:
重門
1、層層設門,一層一層,許多層的門户。
2、指宮門,屋內的門。
3、猶重關,喻指邊防要塞
Ở trong câu 1, theo tôi 重門 được dùng theo nghĩa 2, là cửa trong nhà.
Cửa trong nhà đóng kín nên không thấy gì, làm hỏng buổi chiều xuân (mà hẳn là đẹp). Câu 1 giới thiệu nơi uống rượu: trong phòng, hoặc sân sau rất sâu trong nhà, qua nhiều lớp của mới tới.
Câu 2. 余辉 (餘煇): 残留的光辉 (zdic). Dư huy: ánh sáng còn lại lúc mặt trời đã lặn.
Vì kín cửa, bị tối nên phải đốt đèn đuốc. Ánh sáng đèn đuốc làm át đi chút nắng còn lại lúc hoàng hôn. Câu 2 giới thiệu thời điểm uống rượu.
Câu 4. 連夜 ngoài nghĩa mấy đêm liền (接连几夜), còn có nghĩa là suốt đêm. Ở đây là (vì uống cả trăm chén rượu say khướt) ở lại suốt đêm chưa về.
Tóm lại, nghĩa cả bài:
Cửa nhà kín mít làm hỏng buổi chiều xuân.
Đèn đuốc thắp làm át chút nắng chiều còn sót lại.
Uông cả trăm chén nên ta say khướt
Ở lại suốt đêm chưa về.

Ảnh đại diện

Nguyệt (Tiết Đào): Bạn dịch nghĩa

Trên bài thấy chưa có, nên xin gởi bản dịch nghĩa này để ai dịch thơ có tham khảo thêm.
.
Ban đầu (mặt trăng) dáng trông như cái móc câu nhỏ,
rồi giống như chiếc quạt, đuổi theo những ngôi sao trên dải ngân hà, và dần tròn.
Cái hình dáng thon gầy giờ tròn đầy,
Trong nhân gian bao nơi có người đêm đêm ngắm nhìn.
---
Chú:
漢機 Hán ki: sao Ki trên dải ngân hà. 漢 Hán: sông Hán; dải ngân hà. 機 cơ (ki): máy móc, còn là tên ngôi sao thứ ba trong chòm Bắc đẩu, còn gọi là sao 璣 Ki hay 天璣 Thiên Ki.

Trang trong tổng số 2 trang (14 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: