Trang trong tổng số 45 trang (441 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [34] [35] [36] [37] [38] [39] [40] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

DNH

Bản dịch nghĩa của Ngô Đức Thọ:

QUÁ HÁN DƯƠNG ĐỀ HÁN KHẨU PHỐ

Đại Biệt sơn đầu Hán Thủy loan
Nhất điều thanh phố hám thanh than
Gia đôi bảo bối manh phi thúy
Nhân điệu ca cầm hộ tập lan
Lâu chiếu xuân phong hoa tiễn ngữ
Đình thông tiên táo tửu tần can
Phú thương cầu cát tri hà hứa
Thùy mẫn nông phu thích cốt hàn
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Bản dịch thơ của DNh:

Vòng vèo Hán Thủy sông sâu
Nối cùng Đại Biệt ở đầu núi cao
Bãi sông lạnh, phố vắng teo
Con manh xanh vút gò cao đầu nhà
Nhà dân vang tiếng đàn ca
Gió xuân lầu đón, rặng hoa im lìm
Mấy lần cạn chén táo tiên
Kẻ giàu ăn trốc ngồi trên ngất trời
Nhà nông cũng một kiếp người
Gió sương rét buốt có ai thương cùng
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Thơ Đinh Nho Hoàn:

TẶNG HÁN KHẨU BAO DẬT NHÂN,
DẠ ĐẠO THA LƯ NHÂN TÁC

Vạn lý bồng bình không quý ngã
Bán liêm tuyết nguyệt tối vinh quân
Kinh Hồ tự cổ xưng tài tấu
Hán Thủy hân kim cấu dị nhân
Thiên hải thù phương tình vị cựu
Khổng Kha cộng phái nghĩa phi tân
Thu tiêu tối nhã thao cầm ngữ
Cầm ngoại duy xao ngẫu nhất văn
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Bản dịch nghĩa của Ngô Đức Thọ:

TẶNG DẬT NHÂN HỌ BAO, LÀM NHÂN ĐI ĐƯỜNG BAN ĐÊM GHÉ VÀO NHÀ ÔNG TA

Muôn dặm như cánh bèo nổi trôi, luống thẹn thay cho ta
Vinh hạnh nhất là ông được ngồi sau rèm ngắm trăng tuyết
Đất Kinh Hồ từ xưa có tiếng là nơi tụ hội nhiều anh tài
Sông Hán Thủy mừng nay được gặp gỡ bậc dị nhân
Trời biển khác phương tình cảm còn chưa cũ
Khổng Mạnh chung phái, đạo nghĩa không phải mới
Đêm thu tao nhã nhất là cùng nhau trò chuyện bằng tiếng đàn
Ngoài đàn ra cũng đẽo gọt một hai vần thơ để đọc cho nhau nghe
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Bản dịch thơ của DNH:

Thẹn ta bèo cánh nổi trôi
Còn ông thư thả nhàn ngồi ngắm trăng
Mừng thay Hán Thủy dị nhân
Kinh Hồ nhiều bậc tài năng ra đời
Tình sâu tuy khác biển trời
Xưa kia Khổng Mạnh những người đạo chung
Đêm thu trò chuyện cùng ông
Đàn ca, đẽo gọt văn chương tạc thù
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Thơ Đinh Nho Hoàn:

CHU THỨ HOÀNG CHÂU VƯƠNG CHÍNH ĐƯỜNG
XUẤT CHỈ CẦU THI TỨC KHẮC TẶNG CHI

(Trong bài có nhắc đến tích “Bò vàng ăn mạ” để nói về thuật “Hiện trị” của Hàn Phi Tử, tức trị nước phải xuất phát từ thực tế, nắm vững tin tức. Khi nghe tâu báo có con bò vàng ăn mạ bên đường, Hàn Chiêu vương đã xuống lệnh: “Mùa gieo mạ, cấm bò ngựa không được xuống ruộng mạ nhà dân”)

Nhị thất thu nga hộ khách thuyền
Lâm cao hệ lãm chiếu thanh liên
Tam thiên ấp hộ thư xuân ý
Bác vạn nhân gia thốc hóa thiên
Dã thị Ngư Dương kỳ tú hậu
Kỷ cơ Thục quận hạc khu tiền
Huân thần xuất thú tư hoàng độc
Nhất tự Hàn công nhập chính niên
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Bản dịch nghĩa của Ngô Đức Thọ:

ĐẬU THUYỀN Ở HOÀNG CHÂU TRI PHỦ HỌ VƯƠNG ĐƯA THƯ ĐẾN XIN THƠ LẬP TỨC ĐỀ THƠ TẶNG

Dăm bảy con ngỗng mùa thu bơi theo hộ tống đoàn thuyền khách
Lên cao buộc thuyền nhìn dòng nước in nền trời tạnh sáng
Ba nghìn hộ dân ấp thư thái trong cảnh sắc mùa xuân
Trăm vạn nhà dân nối nhau chạy dài đến chân trời
Đó cũng là nơi cảnh đẹp có sông nhánh Ngư Dương phía sau
Làm nền cho thế hạc đuổi của đất Ba Thục phía trước
Bậc huân thần đi nhậm vẫn nhớ tích bò vàng ăn mạ
Như công tử nước Hàn đã nói khi nhập chính
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Bản dịch thơ của DNH:

Ngỗng thu hộ tống đoàn thuyền
Lên cao nhìn nước in nền trời xanh
Ba ngàn hộ ấp hân hoan
Nối nhau trăm vạn nhà dân mịt mùng
Phía sau sông nhánh Ngư Dương
Ba Thục phía trước hạc vươn cánh vờn
Bò vàng ăn mạ nhà dân
Tích Hàn công tử huân thần phải ghi
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Thơ Đinh Nho Hoàn:

QUÁ HOÀNG CHÂU THÀNH,
ĐỀ ĐÔNG PHA TIÊN SINH TỪ

(“Thanh miêu” là một loại thuế nông nghiệp đời Đường. Trong bài có nhắc đến “Phép thanh miêu” là chính sách do Vương An Thạch thời Bắc Tống đặt ra: Lúc giáp hạt, Nhà nước cho nông dân vay, đến ngày mùa phải trả nợ. Các nhà nho thường phê phán chính sách này. Ý của hai câu thơ cuối trong bài là: Nếu tu hành mà có thể lên Tiên được thì người dân đã khỏi phải vay nợ lúa non và oán trách phép thanh miêu của Vương An Thạch).

Hoàng Châu giang thượng nguyệt điều điều
Hương tiến tiên từ số chú thiêu
Trúc tựu giao đằng hàn bích bút
Nhã ca khuê động lục dương kiêu
Biều ca khuyển mẫu long thùy biện
Chu phiếm yên ba hạc tự phiêu
Xích tích hoàng thường như đắc lộ
Thương sinh ưng bất khiếu thanh miêu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

DNH

Bản dịch nghĩa của Ngô Đức Thọ:

QUA THÀNH HOÀNG CHÂU ĐỀ ĐÈN THỜ
TÔ ĐÔNG PHA TIÊN SINH
Giữa dòng Hoàng Giang mặt trăng như bị kéo dài ra
Trên bàn thờ đền Tiên mấy nén hương dâng tiến đã cháy tàn
Cành trúc sà xuống con giao long ngọn bút xanh lạnh
Điệu nhã ca bên cầu Lục Dương vang động
Ai nhận ra con rồng uống rượu ngân ca giữa cánh đồng
Thuyền trôi trong khói sóng đàn hạc bơi theo
Giày đỏ quần vàng nếu mà được đắc đạo
Dân đen đã chẳng phải oán trách phép thanh miêu
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 45 trang (441 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [34] [35] [36] [37] [38] [39] [40] ... ›Trang sau »Trang cuối